Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Nghiên cứu hội chứng đáp ứng viêm toàn thân và tác dụng của glucocorticoid ở bệnh nhân tứ chứng Fallot sau phẫu thuật sửa chữa toàn phần

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (450.22 KB, 10 trang )

TẠP CHÍ Y – DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 2 - 2013

NGHIÊN CỨU HỘI CHỨNG ĐÁP ỨNG VIÊM TOÀN THÂN
VÀ TÁC DỤNG CỦA GLUCOCORTICOID Ở BỆNH NHÂN
TỨ CHỨNG FALLOT SAU PHẪU THUẬT SỬA CHỮA TOÀN PHẦN
Đồng Sĩ Sằng*; Bùi Đức Phú*; Nguyễn Ngọc Minh*
Lê Quang Thứu*; Đặng Thế Uyên*; Nguyễn Đặng Dũng**
TÓM TẮT
Nghiên cứu tiến cứu trên 79 bệnh nhân (BN) tứ chøng Fallot (TOF) phẫu thuật sửa chữa toàn
phần từ 8 - 2008 đến 4 - 2011 tại Bệnh viện TW Huế, gồm 2 nhóm: nhóm dùng glucocorticoid (GC)
(sử dụng dexamethasone hoặc methylprednisolone) và nhóm chứng. Kết quả: tỷ lệ hội chứng đáp
ứng viêm toàn thân (SIRS) cao nhất vào ngày 2 (N2) sau mổ với 60/63 BN (95,2%) ở nhóm GC và
16/16 BN (100%) ở nhóm chứng. Số lượng bạch cầu trung tính (BCTT) tăng cao nhất vào ngày N2
và lympho giảm thấp nhất từ ngày N1 sau mổ, sau đó phục hồi về mức gần bình thường vào ngày
N7 (p < 0,001). Glucose máu tăng cao so với trước mổ ở cả 2 nhóm (p < 0,01). Tỷ lệ suy đa tạng,
nhiễm trùng và tử vong không khác biệt giữa 2 nhóm. Hầu hết BN TOF sau phẫu thuật sửa chữa
toàn phần có biểu hiện SIRS (> 93%). Mặc dù có một số cải thiện kết quả hậu phẫu, nhưng chưa
thấy cải thiện một số biến chứng cũng như tăng tỷ lệ nhiễm trùng ở nhóm GC.
* Từ khóa: Bệnh tứ chứng Fallot; Tuần hoàn ngoài cơ thể; Hội chứng đáp ứng viêm toàn thân.

STUDY ON THE SYSTEMIC INFLAMMATORY RESPONSE
SYNDROME AND THE EFFECTS OF GLUCOCORTICOIDS
IN PATIENTS WITH TETRALOGY OF FALLOT AFTER
COMPLETE REPAIR SURGERY
SUMMARY
79 patients with tetralogy of Fallot (TOF) undergoing complete repair surgery with carelio pulmonary
bypass at Hue Central Hospital, between August, 2008 to April, 2011. Patients were devided into 2
groups: GC (treated with dexamethasone or methylprednisolone) and control group (non GC). Results:
the highest incidence of patients developing systemic inflammatory response syndrome (SIRS) was
observed on day 2 postoperatively (d2), with 60/63 patients (95.2%) in GC group and 16/16 (100%) in
control (p > 0.05). In both GC and control groups, numbers of White blood cells, neutrophils and


lymphocytes were significantly different between d0 - d7 (p < 0.001). Blood glucose levels significantly
increased after operation in both groups (p < 0.01). There was non-significant difference between 2
groups in postoperative complications such as MODS, infection and mortality rate (p > 0.05). Almost all
patients with TOF developed SIRS (> 93%) after complete repair surgery. Although there was some
improvement of outcomes, we have not found significant improvement on some complications, as well
as increased incidence of postoperative infection in GC group compared to controls.
* Key words: Tetralogy of Fallot; Cardiopulmonary bypass; Systemic inflammatory response syndrome.
* Bệnh viện TW Huế
** Học viện Quân y
Chịu trách nhiệm nội dung khoa học: GS. TS. Phạm Gia Khánh
PGS. TS. Lê Văn Đông

1


TẠP CHÍ Y – DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 2 - 2013
ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh tứ chứng Fallot (TOF: Tetralogy of
Fallot) là bệnh phổ biến nhất trong số các
bệnh tim bẩm sinh (TBS) có tím, chiếm tỷ lệ
từ 6 - 15%. Nếu không ®-îc điều trị, bệnh
TOF có thể dẫn đến nhiều biến chứng nguy
hiểm. Hiện nay, phẫu thuật sửa chữa toàn
phần là biện pháp tối -u để điều trị bệnh lý
này [3]. Tuy nhiên, mổ tim với sự hỗ trợ của
tuần hoàn ngoài c¬ thể (THNCT) gây ra đáp
ứng viêm toàn thân cấp tính, có thể dẫn
đến hội chứng đáp ứng viêm toàn thân đặc tr-ng bởi sự hoạt hoá bổ thể, hoạt hóa
tiểu cầu, bạch cầu (BC), tế bào mono và gia
tăng các chất trung gian viêm... [5]. Đáp

ứng viêm này có thể góp phần vào các biến
chứng hậu phẫu như suy hô hấp, suy thận,
chảy máu sau mổ…, cuối cùng là hội chứng
suy đa tạng [4, 5]. Mặc dù điều trị phẫu
thuật đã mang lại kết quả khả quan, nh-ng
vẫn còn nhiều biến chứng. Tỷ lệ biến chứng
chung sau mổ bệnh TOF thay đổi từ 23 31,4% [3]. Hiện nay, nhiều chiến l-îc kỹ thuật
và d-îc lý đã ®-îc áp dụng nhằm cải thiện
SIRS sau mổ tim mở, trong đó -u tiên dùng
glucocorticoid (GC). Tuy nhiên, chỉ định GC
trong phẫu thuật sửa chữa toàn phần trên
BN TOF vẫn là vấn đề ®-îc tranh luận nhiều.
Vì vậy, chúng tôi thực hiện đề tài này nhằm:
- Xác định tỷ lệ SIRS và sự biến đổi BC ở
BN TOF sau phẫu thuật sửa chữa toàn phần.
- Đánh giá tác dụng của GC trên một số
kết quả hậu phẫu ở BN TOF sau phẫu thuật
sửa chữa toàn phần.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
79 BN TOF ®-îc phẫu thuật sửa chữa
toàn phần (đủ tiêu chuẩn ®-a vào nghiên
cứu) từ 8 - 2008 đến 4 - 2011 tại Trung tâm

Tim mạch, Bệnh viện TW Huế. Chia BN
thành 2 nhóm chính:
- Nhóm GC gồm 2 phân nhóm:
+ Nhóm DEXA: 31 BN sử dụng dexamethasone
(DEXA) 1 mg/kg cân nặng, tiêm đường tĩnh
mạch ngay sau khi khởi mê.

+ Nhóm MP: 32 BN sử dụng methylprednisolone
(MP) 30 mg/kg cân nặng, hòa trong dịch mồi
THNCT.
- Nhóm chứng: 16 BN không sử dụng GC.
* Tiêu chuẩn chẩn đoán SIRS: có ít nhất
2/4 tiêu chí: thân nhiệt > 380C hoặc < 360C;
tần số tim > 90 lần/phút; nhịp thở > 20 lần/phút
hoặc PaCO2 < 32 mmHg; BC > 12.000/mm3
hoặc < 4.000/mm3 hoặc có > 10% BC đũa
[4], Các thuốc hỗ trợ tuần hoàn sau mổ
gồm thuốc tăng co bóp cơ tim (inotrop) và
thuốc vận mạch. Điểm inotrop 24 giờ sau
mổ tính theo công thức: điểm inotrop =
[(dopamine + dobutamine) x 1] + [milrinone
x 20] + [(epinephrine + norepinephrine) x
100]. Chẩn đoán nhiễm trùng theo tiêu
chuẩn của CDC và suy đa tạng theo tiêu
chuẩn của van Dongen và CS [9]. Số l-îng
BC ®-îc theo dõi hàng ngày vào thời điểm
6 giờ sáng từ ngày tr-íc mổ (N0) đến ngày
7 sau mổ (N7), trừ ngày mổ (N1) xét nghiệm
vào khoảng 2 giờ sau mổ. Theo dõi glucose
máu từ ngày N0 đến N2 sau mổ. Các diễn
biến khác ®-îc ghi nhận qua bệnh án, do
bác sĩ và điều d-ìng viên Khoa Ngoại Lồng
ngực và Khoa Hồi sức tim, Trung tâm Tim
mạch, BÖnh viÖn TW Huế thực hiện.
Thu thập số liệu theo bệnh án mẫu. Xử
lý số liệu theo ph-¬ng pháp thống kê y học,


2


TẠP CHÍ Y – DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 2 - 2013
sử dụng phần mềm SPSS 15.0. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê khi p < 0,05.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
1. Đặc điểm chung của BN trước và sau mổ.
Bảng 1: Đặc điểm chung BN trước và sau mổ.
THAM SỐ

CHỨNG

(n = 63)
DEXA (n = 31)

MP (n = 32)

Tổng

(n = 16)

Tuổi (năm)

7,97 ± 10,67

4,53 ± 4,79

6,22 ± 8,34

7,94 ± 6,83


Cân nặng (kg)

17,44 ± 12,04

14,13 ± 7,60

15,84 ± 10,26

21,22 ± 14,16

Tím (n, %)

16 (51,6%)

12 (37,5%)

28 (44,4%)

8 (50,0%)

Propanolol (n, %)

20 (64,5%)

27 (84,4%)

47 (74,6%)

11 (68,8%)


31,00 ± 1,36

30,73 ± 2,32

30,86 ± 1,90

30,93 ± 1,69

Thời gian THNCT (phút)

139,26 ± 30,67

123,72 ± 29,28

131,37 ± 30,74

121,50 ± 30,61

Kẹp động mạch chủ (phút)

80,32 ± 14,86

81,03 ± 19,13

80,68 ± 17,03

79,25 ± 20,78

Thời gian mổ (phút)


265,97 ± 35,22

245,31 ± 41,11

255,48 ± 39,41

244,69 ± 50,44

0,99 ± 0,06

28,22 ± 3,98

-

-

4 (12,9%)

4 (12,5%)

8 (12,7%)

8 (50,0%)

Hạ nhiệt

GC (mg/kg)
GC sau mổ (n, %)
Điểm inotrop


7,17 ± 4,34

5,10 ± 3,03

6,12 ± 3,85

14,65 ± 14,39

Thời gian đặt nội khí quản (giờ)

27,81 ± 27,39

24,41 ± 29,32

26,08 ± 28,21

62,69 ± 82,84

Thời gian nằm hồi sức cấp cứu

4,90 ± 2,05

4,19 ± 1,61

4,54 ± 1,86

6,56 ± 7,05

Thời gian nằm viện


18,13 ± 7,11

15,22 ± 4,67

16,65 ± 6,13

16,94 ± 9,38

Trung vị của liều DEXA là 1,00 và của MP là 29,65. Nhóm DEXA và MP có sự khác biệt
về thời gian THNCT và thời gian mổ (p < 0,05). GC bổ sung sau mổ khác biệt có ý nghĩa
giữa 2 nhóm GC và chứng (p < 0,01). Điểm inotrop khác biệt có ý nghĩa giữa 3 nhóm
(p < 0,05) và giữa 2 nhóm GC và chứng (p < 0,01). Thời gian đặt nội khí quản khác biệt có
ý nghĩa giữa nhóm GC và chứng (p < 0,01). Tuy nhiên, thời gian n»m håi søc cÊp cøu và
nằm viện chưa thấy sự khác biệt giữa 2 nhóm GC và chứng (p > 0,05).
2. Đặc điểm BN sau mổ và một số biến chứng.
Nhiệt độ
39
38.5
GC
cao
GC- -nhiệt
nhiệt
cao

38

GC - nhiệt thấp

37.5


GC - nhiÖt thÊp

Chứng - nhiệt cao

37

Chøng
caothấp
Chứng- nhiÖt
- nhiệt

36.5
36

Chøng - nhiÖt thÊp

35.5
N0

N1

N2

N3

N4

N5


N6

N7

Ngày

3


TẠP CHÍ Y – DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 2 - 2013
Biểu đồ 1: Biến đổi nhiệt độ hàng ngày ở 2 nhóm GC và chứng.
Nhiệt độ cao nhất và nhiệt độ 6 giờ hàng ngày (số liệu không trình bày) không khác biệt
giữa nhóm GC và nhóm chứng từ ngày 1 - 7 sau mổ (p > 0,05), song nhiệt độ thấp nhất có
sự khác biệt từ ngày 1 - 3 sau mổ (p < 0,05).
Bảng 2: Đặc điểm chung về sốt.
NHÓM

(n = 63)

THAM SỐ

CHỨNG
(n = 16)

DEXA (n = 31)

MP (n = 32)

TỔNG


Sốt hoặc hạ nhiệt (n, %)

22 (71,0%)

22 (68,8%)

44 (69,8%)

15 (93,7%)

Giờ bắt đầu sốt/hạ nhiệt

12,71 ± 11,68

7,18 ± 4,95

9,88 ± 9,22

5,67 ± 3,79

Tổng ngày sốt/hạ nhiệt

2,05 ± 1,32

1,59 ± 0,79

1,82 ± 1,10

3,33 ± 3,11


Hai nhóm GC và chứng không khác biệt về tỷ lệ sốt/hạ nhiệt và giờ bắt đầu sốt/hạ nhiệt
sau mổ (p > 0,05), nhưng khác biệt có ý nghĩa về tổng số ngày có sốt/hạ nhiệt (p < 0,01).
Bảng 3: Đặc điểm SIRS và một số biến chứng sau mổ.
NHÓM

CHỨNG

(n = 63)

(n = 16)

DEXA (n = 31)

MP (n = 32)

TỔNG

29 (93,5%)

31 (96,9%)

60 (95,2%)

16 (100,0%)

Suy ®a t¹ng* (N2)

6 (19,4%)

4 (12,5%)


10 (15,9%)

4 (25,0%)

Nhiễm trùng*

11 (35,5%)

8 (25,0%)

19 (30,2%)

8 (50,0%)

0

1 (3,1%)

1 (1,6%)

2 (12,5%)

THAM SỐ

SIRS* (N2)

Tử vong do suy ®a t¹ng*

(* n, %; tử vong không tính tỷ lệ chung vì đã loại những ca tử vong sớm).

Tỷ lệ SIRS, suy đa tạng, nhiễm trùng và tử vong không khác biệt giữa các nhóm (p > 0,05).
Bảng 4: Nồng độ glucose máu và sử dụng insulin.
NHÓM

CHỨNG

(n = 63)
NGÀY

Glucose máu

Insuline (ngày)

(n = 16)

DEXA (n = 31)

MP (n= 32)

TỔNG

N0

4,40 ± 0,95

4,56 ± 0,68

4,48 ± 0,82

4,69 ± 0,55


N1

7,87 ± 2,23

8,05 ± 3,20

7,96 ± 2,74

6,89 ± 1,90

N2

7,06 ± 2,51

6,82 ± 1,76

6,94 ± 2,16

6,48 ± 1,68

-

-

1,00 (n = 1)

1,00 (n = 1)

6,00 (n = 1)


THAM SỐ

- N0: glucose máu N0 không khác biệt giữa các nhóm (p > 0,05).

4


TẠP CHÍ Y – DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 2 - 2013
- N1, N2: 3glucose máu tăng cao sau mổ, nhưng không khác biệt giữa các nhóm (p > 0,05).

Số lượng x 10 /ml

35
35
30

30

25
25

20

15
20
10

15


5
10
0
5
0

N0
N0

N1
N1

N2
N2

N3
N3

N4
N4

BC- -Dexa
Dexa
BC

BCTT
- Dexa
BCTT - Dexa

BC - MP


BCTT - MP

N5
N5

N6
N6

N7
N7

Lym- Dexa
- Dexa
Lym
Lym - MP

Lym - MP

BC - Chứng

BCTT - MP

BCTT - Chứng

Lym - Chứng

BC - Chøng

BCTT - Chøng


Lym - Chøng

BC - MP

Ngµy

Biểu đồ 2: Biến đổi BC, BCTT và lympho theo thời gian.

- Trước mổ: số lượng BC và BCTT không khác biệt giữa các nhóm (p > 0,05).
Sau mổ: sự biến đổi số lượng BC, BCTT, lympho không khác biệt giữa các nhóm (p > 0,05),
nhưng trong mỗi nhóm khác biệt có ý nghĩa giữa các ngày hậu phẫu (p < 0,001).
BÀN LUẬN
1. Đặc điểm chung.
Ít có sự khác biệt về đặc điểm chung giữa
3 nhóm và giữa 2 nhóm GC và chứng (bảng 1).
Tuy nhiên, giữa nhóm DEXA và MP có sự
khác biệt có ý nghĩa về tuổi và trọng lượng (p
< 0,01) và khác biệt về thời gian THNCT và
thời gian mổ (p < 0,05). Trong nghiên cứu
này, chúng tôi không áp dụng được phương
pháp nghiên cứu đối chứng ngẫu nhiên nên
đã gặp phải sai số ngẫu nhiên, dẫn đến khác
biệt về tuổi, trọng lượng giữa nhóm DEXA và
MP, từ đó dẫn đến khác biệt về thời gian
THNCT và thời gian mổ vì có sự tương quan
rõ rệt giữa tuổi và thời gian THNCT (r = 0,411;
p < 0,001). Điều đáng chú ý là nhóm chứng

được sử dụng GC bổ sung sau mổ nhiều hơn

nhóm GC (p < 0,01). Việc bổ sung GC sau mổ
được ghi nhận trong nghiên cứu của Pasquasi
và CS, trong đó 27,8% nhóm không GC nhận
ít nhất 1 liều GC tại một thời điểm nào đó
sau mổ [8].
2. Hội chứng đáp ứng viêm toàn thân
và một số biến chứng.
- Biểu hiện sốt: nhiệt độ cao nhất và
nhiệt độ 6 giờ hàng ngày (số liệu không
trình bày) không khác biệt giữa nhóm GC
và chứng từ ngày 1 - 7 sau mổ, ngược lại,
nhiệt độ thấp nhất có sự khác biệt từ ngày
1 - 3 sau mổ (p < 0,05) (biểu đồ 1). Theo
McGuinness và CS, đáp ứng viêm đối với
mổ tim bắt đầu biểu hiện lâm sàng từ 4 - 6

5


TẠP CHÍ Y – DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 2 - 2013
giờ sau mổ và kéo dài 24 - 48 giờ sau mổ [3].
Kết quả của chúng tôi cho thấy BN biểu hiện
thời gian sốt trung bình sớm nhất ở nhóm
chứng, tiếp đến là nhóm MP, chậm nhất ở
nhóm DEXA và biểu hiện ở nhóm chứng
sớm hơn nhóm GC mặc dù chưa thấy khác
biệt về mặt thống kê (bảng 2). Biểu hiện sốt
sớm khoảng 6 giờ sau mổ ở nhóm chứng
phù hợp với thời điểm bắt đầu của đáp ứng
viêm toàn thân sau mổ, trong khi đó, nhóm

GC có biểu hiện muộn hơn do tác dụng
chống viêm của GC. Thời gian trung bình
xuất hiện sốt giữa 3 nhóm cũng phù hợp
với tác dụng của thuốc, vì DEXA có tác
dụng chống viêm mạnh và kéo dài hơn MP.
Số ngày có sốt của nhóm chứng trung
bình 3,33 ngày, phù hợp với kết quả của
McGuinness, trong khi đó, nhóm GC được
bảo vệ chống viêm nên có thời gian sốt
ngắn hơn, trung bình 1,8 ngày (p < 0,01)
(bảng 2). Một điểm đáng chú ý khác là
nhóm chứng biểu hiện nhiệt thấp nhiều
hơn nhóm GC trong 3 ngày đầu sau mổ
(p < 0,05). Hạ thân nhiệt (< 36 0C) gặp 1
trường hợp ở nhóm MP do sử dụng ECMO
(hệ thống oxy hóa màng ngoài cơ thể) để
thay thế chức năng tim trong thời gian hậu
phẫu, 2 trường hợp hạ thân nhiệt ở nhóm
chứng do dụng hệ thống máy làm hạ nhiệt.
Sự khác biệt về biểu hiện nhiệt thấp có lẽ
do dao động nhiệt ở nhóm chứng nhiều hơn
nhóm GC, hoặc do biểu hiện sốt/hạ nhiệt
nhiều hơn (93,7%) (bảng 2) nên phải can
thiệp hạ nhiệt nhiều hơn.
Sốt là một vấn đề phổ biến ở những BN
nằm hồi sức cấp cứu. Nhiễm trùng là
nguyên nhân phổ biến nhất gây sốt ở BN
nằm hồi sứu cấp cứu, song tình trạng viêm
không do nhiễm trùng gây giải phóng các
cytokine tiền viêm như IL-1, IL-6 và TNF-α

cũng có thể dẫn đến sốt.

Tăng thân nhiệt đã được chứng minh có
liên quan với một số tham số chức năng
miễn dịch tăng, song cũng có thể đi kèm với
một số hậu quả có hại, nhất là tăng cung
lượng tim, tăng tiêu thụ oxy, sản xuất dioxyt
carbon và tiêu hao năng lượng. Những thay
đổi này có thể ít được dung nạp ở BN có
hạn chế chức năng tim phổi. Vì vậy, việc
can thiệp chống viêm giúp giảm nhẹ đáp
ứng viêm và sốt sau mổ là cần thiết ở BN
TOF sau mổ phẫu thuật sửa chữa toàn
phần vì góp phần tăng khả năng dung nạp
chức năng tim phổi sau mổ hơn.
- Tỷ lệ SIRS: SIRS biểu hiện 95,2% ở
nhóm GC và 100% ở nhóm chứng, tuy nhiên,
không khác biệt về mặt thống kê (p > 0,05).
Talmor và CS [7] nghiên cứu trên những BN
nằm hồi sứu cấp cứu ngoại chung cho thấy,
vào ngày 1, 49,4% BN biểu hiện SIRS (≥ 2
tiêu chuẩn), trái lại, 34,5% BN còn nằm hồi
sứu cấp cứu biểu hiện SIRS vào ngày 2
(p < 0,01). Trong khi đó, Pittet và CS (1995)
khảo sát dịch tễ học của SIRS ở 170 BN
nằm hồi sứu cấp cứu ngoại thấy: tỷ lệ SIRS
(≥ 2 tiêu chuẩn) chiếm 93%, tuy nhiên, tỷ lệ
tử vong chỉ chiếm 8,2%. Tác giả kết luận:
vì độ nhạy quá cao, trong khi độ đặc hiệu kém,
nên SIRS không nhận diện được những BN

đã tử vong sau đó. Nghiên cứu của chúng
tôi ở nhóm TOF là nhóm bệnh có tím và tổn
thương phức tạp nên thường mổ kéo dài,
vì vậy, hầu hết BN biểu hiện SIRS sau mổ
phù hợp với kết quả của Pittet và CS.
Theo Haga và CS, không những số tiêu
chuẩn SIRS dương tính mà còn cả thời
gian biểu hiện SIRS tương quan với kết quả
xấu. BN phục hồi SIRS sớm có tỷ lệ suy đa
tạng thấp hơn BN biểu hiện SIRS kéo dài.
Đặc biệt, BN biểu hiện SIRS kéo dài 5 ngày
có tỷ lệ cao hơn về biến chứng nhiễm trùng

6


TẠP CHÍ Y – DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 2 - 2013
và các biến chứng khác sau mổ, cũng như có
tỷ lệ cao hơn về suy đa tạng. Theo Talmor,
SIRS kéo dài có hại, kết quả của các tác giả
cho thấy mức độ SIRS ngày 2 sau mổ tương
quan chặt với kết quả xấu [7].
Nghiên cứu của Bochicchio ghi nhận SIRS
kéo dài là yếu tố dự đoán nhiễm trùng bệnh
viện ở nhóm BN chấn thương nguy cơ cao.
Đặc biệt, những BN biểu hiện SIRS vào
ngày 6 hoặc 7 sau chấn thương có nguy cơ
tăng nhiễm trùng 4 - 18 lần [4].
Một số kết quả hậu phẫu và biến chứng:
mặc dù gặp phải sai số ngẫu nhiên, nhưng

việc can thiệp chống viêm bằng GC bước
đầu cho thấy một số cải thiện hậu phẫu
(bảng 1) như sử dụng ít hơn các thuốc hỗ
trợ tuần hoàn (giảm điểm inotrop) và rút
ngắn thời gian đặt nội khí quản (p < 0,05).
Tuy nhiên, chúng tôi chưa thấy cải thiện về
thời gian hồi sức cấp cứu và thời gian nằm
viện, cũng như tỷ lệ suy đa tạng và tử vong
sau mổ (p > 0,05). Đặc biệt, tỷ lệ nhiễm
trùng không khác biệt ở 2 nhóm GC và
chứng (p > 0,05). Theo Cappabianca, tác
dụng ức chế miễn dịch của steroid được cho
là tăng nguy cơ nhiễm trùng. Tuy nhiên, việc
sử dụng steroid quanh cuộc mổ không đi
kèm với tăng tỷ lệ nhiễm trùng sau mổ trong
một quần thể BN hỗn hợp, kể cả BN đái tháo
đường [5]. Kết quả của chúng tôi phù hợp
với các tác giả: tỷ lệ nhiễm trùng ở nhóm sử
dụng GC không tăng.
3. Sự biến đổi BC và glucose máu.
- Biến đổi bạch cầu: số lượng BC tăng
cao nhất vào ngày 2, giảm dần vào ngày 3
và trở về gần bình thường vào ngày 7 sau
mổ (biểu đồ 2). Số lượng BCTT tăng nhẹ
vào ngày 1 sau mổ, tăng cao nhất vào ngày
2 rồi giảm dần và phục hồi như số lượng
BC. Đáng chú ý, số lượng lympho giảm
nặng vào ngày 1 và 2 sau mổ, bắt đầu tăng

trở lại vào ngày 3, nhưng vẫn còn thấp kéo

dài đến ngày 7 sau mổ.
Nghiên cứu của Hồ Thị Thiên Nga cho
thấy số lượng BCTT tăng ở thời điểm ngay
sau mổ và giảm dần từ ngày 2 sau mổ,
nhưng vẫn còn cao hơn trước mổ. Số lượng
lympho giảm và giữ ở mức thấp cho đến
ngày 3 sau mổ. Từ ngày 1 đến ngày 3 sau
mổ, số lượng BCTT trung bình < 12.000, số
lượng lympho trung bình < 2.000 [0].
Nghiên cứu của Franke và CS ghi nhận
số lượng BC trung bình tăng sau mổ và
ngày 1 (< 16.000) rồi giảm dần đến gần
bình thường vào ngày 5 sau mổ. Số lượng
BCTT tăng sau mổ vào ngày 1 (< 14.000)
rồi giảm dần đến mức bình thường vào
ngày 5 sau mổ. Số lượng lympho trung bình
tăng sau mổ, giảm nặng (< 1.000) vào ngày
1 và trở vể mức trước mổ (≈ 2.000) vào
ngày 5 sau mổ [6].
Kết quả của chúng tôi cho thấy: BC,
BCTT và lympho biến đổi phù hợp với sự
biến đổi chung (Hồ Thị Thiên Nga và Franke).
Tuy nhiên, trong nghiên cứu này, số lượng
lympho giảm nặng và kéo dài đến ngày 7
sau mổ ở cả hai nhóm GC và chứng, có thể
do ảnh hưởng của stress phẫu thuật hoặc
do cơn tiết cortisol đáp ứng với stress. Mặc
dù giảm nặng tế bào lympho, nhưng tỷ lệ
nhiễm trùng không khác biệt giữa 2 nhóm
GC và chứng (bảng 3), cần tiếp tục nghiên

cứu thêm.
- Biến đổi về glucose máu: glucose máu
không khác biệt giữa 3 nhóm và giữa hai
nhóm GC và chứng trước mổ (bảng 4)
(p < 0,05). Glucose tăng cao sau mổ, nhưng
cũng không khác biệt giữa các nhóm
(p = 0,459). So sánh trước và sau mổ (N0
với N1): glucose tăng cao sau mổ ở cả 3
nhóm (p < 0,01). Mặc dù vậy, việc sử dụng
insulin sau mổ không khác biệt giữa các

7


TẠP CHÍ Y – DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 2 - 2013
nhóm. Sử dụng steroid đã được ghi nhận
làm tăng một số hậu quả bất lợi như tăng
glucose máu, tăng sử dụng insulin. Tuy nhiên,
nghiên cứu của Verhoeven và CS trên 49
trẻ mắc bệnh tim bẩm sinh mổ tim mở từ
2 tháng - 18 tuổi đã chứng tỏ tăng glucose
máu sau mổ có liên quan với việc sử dụng
GC trong mổ, nhưng hầu hết các trường
hợp (94%), glucose máu trở về bình thường
trong vòng 24 giờ mà không cần sử dụng
insulin [10]. Kết quả của chúng tôi cũng
phù hợp.

3. McGuinness J, Bouchier-Hayes D, Redmond
JM. Understanding the inflammatory response to

cardiac surgery. Surgeon. 2008, 6 (3), pp.162-171.

KẾT LUẬN

6. Franke A, Lante W, Kurig E.
Hyporesponsiveness of T cell subsets after
cardiac surgery: a product of altered cell function
or merely a result of absolute cell count changes
in peripheral blood? European Journal of
Cardiothoracic Surgery. 2006, 30, pp.64-71.

- Hầu hết BN tứ chứng Fallot sau phẫu
thuật sửa chữa toàn phần xuất hiện hội
chứng đáp ứng viêm toàn thân vào ngày 2
sau mổ (> 93%). Số lượng BC và BCTT
tăng cao nhất vào ngày 2, giảm dần từ
ngày 3 và trở về bình thường vào ngày 7
sau mổ. Số lượng lympho giảm nặng nhất
vào ngày 1 và 2 sau mổ, nhưng vẫn ở mức
thấp đến ngày 7 sau mổ.
- Mặc dù bước đầu có một số cải thiện
kết quả hậu phẫu nhưng chưa thấy sự cải
thiện về thời gian nằm hồi sức, thời gian
nằm viện và một số biến chứng như tỷ lệ
xuất hiện hội chứng suy đa tạng và tử vong
sau mổ. Không thấy tăng tỷ lệ sử dụng
insulin hoặc tăng tỷ lệ nhiễm trùng ở nhóm
sử dụng GC.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Quang Thứu. Nghiên cứu điều trị phẫu

thuật sửa chữa toàn phần bệnh tứ chứng Fallot.
Luận án Tiến sỹ Y học. Học viện Quân y. Hà
Nội. 2008.
2. Hồ Thị Thiên Nga. Nghiên cứu một số biến
đổi tế bào máu và chỉ số đông máu trên BN được
phẫu thuật tim với THNCT. Luận án Tiến sỹ Y học.
Trường Đại học Y Hà Nội. 2007.

4. Bochicchio GV,
Persistent systemic
syndrome is predictive
trauma. The Journal
pp.245-251.

Napolitano LM, Joshi M.
inflammatory response
of nosocomial infection in
of Trauma. 2002, 53,

5. Cappabianca G, Rotunno C, Schinosa L
de LT. Protective effects of steroids in cardiac
surgery: A meta-analysis of randomized doubleblind trials. Journal of Cardiothoracic and Vascular
Anesthesia. 2011, 25 (1), pp.156-165.

7. Talmor M, Hydo L, Barie PS. Relationship
of systemic inflammatory response syndrome to
organ dysfunction, length of stay and mortality in
critical surgical illness. Arch Surg. 1999, 134,
pp.81-87.
8. Pasquali SK, Hall M, Li JS. Corticosteroids

and outcome in children undergoing congenital
heart surgery: Analysis of the pediatric health
information systems databas. Circulation. 2010,
122, pp.2123-2130.
9. van Dongen EI, Glansdorp AG, Mildner
RJ. The influence of perioperative factors on
outcomes in children aged less than 18 months
after repair of tetralogy of Fallot. J Thorac
Cardiovasc Surg. 2003, 126, pp.703-710.
10. Verhoeven JJ, Hokken-Koelega AC,
Brinker MD. Disturbance of glucose homeostasis
after pediatric cardiac surgery. Pediatr Cardiol.
2011, 32, pp.131-138.

Ngày nhận bài: 19/10/2012
Ngày giao phản biện: 5/1/2013
Ngày giao bản thảo in: 6/2/2013

8


TẠP CHÍ Y – DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 2 - 2013

9


TẠP CHÍ Y – DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 2 - 2013

10




×