Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Hàn xương liên thân đốt qua lỗ liên hợp bằng đường vào mở nhỏ điều trị trượt đốt sống thắt lưng: Kết quả 72 trường hợp, theo dõi ít nhất 1 năm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (365.69 KB, 6 trang )

Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014

 

HÀN XƯƠNG LIÊN THÂN ĐỐT QUA LỖ LIÊN HỢP  
BẰNG ĐƯỜNG VÀO MỞ NHỎ ĐIỀU TRỊ TRƯỢT ĐỐT SỐNG THẮT LƯNG: 
KẾT QUẢ 72 TRƯỜNG HỢP, THEO DÕI ÍT NHẤT 1 NĂM 
Phạm Vô Kỵ*, Dương Văn Nga*, Viên Phúc Lộ*, Danh Xà Ri*, Nguyễn Xuân Toàn* 

TÓM TẮT
Mục  tiêu:  Đánh giá kết quả hàn xương liên thân đốt (HXLTĐ) qua lỗ liên hợp bằng đường vào mở nhỏ 
điều trị trượt đốt sống thắt lưng. 
Phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu bao gồm 72 trường hợp trượt đốt sống thắt lưng được HXLTĐ qua lỗ 
liên hợp bằng đường vào mở nhỏ. Kết quả về lâm sàng và hình ảnh Xquang học trước và sau mổ được ghi nhận. 
Kết  quả  lâm  sàng  được  đánh  giá  bằng  Oswestry  Disability  Index  (ODI),  Visual  Analogue  Scores  (VAS)  và 
Macnab. Chiều cao liên thân đốt và tình trạng hàn xương được đánh giá dựa trên Xquang và CT Scanner. 
Kết quả: Có 72 trường hợp (26 nam, 46 nữ), tuổi trung bình 55, thời gian theo dõi trung bình 22.5 tháng. 
Thời gian mổ 186 phút, lượng máu mất ước đoán trong mổ 240ml. ODI và VAS cải thiện một cách có ý nghĩa 
sau 1 năm phẫu thuật (ODI từ 45,32 xuống 16,55, VAS từ 7,60 xuống 2,10, p<0,001). Macnab (rất tốt: 15%, 
tốt: 75%, khá: 10%). Tỷ lệ hàn xương đạt 97% sau 12 tháng. Chiều cao liên thân đốt được cải thiện có ý nghĩa từ 
9.2 lên 12,1 (p<0.001). 
Kết luận: HXLTĐ qua lỗ liên hợp bằng đường vào mở nhỏ là một phương pháp an toàn và hiệu quả, đạt 
được kết quả điều trị tốt về mặt lâm sàng, có tỷ lệ hàn xương cao, và đặc biệt hữu ích trong việc khôi phục chiều 
cao liên thân đốt. 
Từ khóa: Hàn xương liên thân đốt qua lỗ liên hợp; Đường vào mở nhỏ; Trượt đốt sống. 

ABSTRACT 
THE MINI‐OPEN TRANSFORAMINAL LUMBAR INTERBODY FUSION FOR TREATMENT OF 
SPONDYLOLISTHESIS: RESULTS OF 72 CASES, MINIMUM 1‐YEAR FOLLOW‐UP 


Pham Vo Ky, Duong Van Nga, Vien Phuc Loc, Danh Xa Ri, Nguyen Xuan Toan  
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 6‐ 2014: 16 – 21 
Objectives:  The  aim  of  this  study  was  to  evaluate  clinical,  radiological  outcomes  of  mini‐open 
transforaminal lumbar interbody fusion (TLIF) for treatment of lumbar spondylolisthesis. 
Methods:  A  prospective  studyincluded72  patients  with  mini‐open  TLIF.  Perioperative,  clinical,  and 
radiological  outcomes  were  recorded.  Clinical  outcomes  were  assessed  using  Oswestry  Disability  Index (ODI), 
Visual Analogue Scores (VAS) and Macnab. Intervertebral height and fusion status were assessed on X‐ray and 
CT Scanner. 
Results: There were 72 cases (26 males, 46 females), average aged 55, the mean follow‐up period was 22.5 
months.  Operation  time  was  186  min  and  estimated  blood  losses  were  240  ml.  ODI  and  VAS  scores  were 
significantly improved at 1 year post‐op (ODI from 45.32 to 16.55, VAS from 7.60 to 2.10, p< 0.001). Macnab 
(exellent: 15%, good: 75% and fair: 10%). Fusion rate was 97% at 12 months. Postoperative intervertebral height 
was significantly improved from 9.2 to 12.1 (p<0.001). 
*Bệnh viện Kiên Giang 
Tác giả liên lạc: BSng liên thân đốt sau 1 năm 
là 97%. 

Các biến chứng sau mổ 
‐ 1 trường hợp bị yếu chân nhẹ thoáng qua, 
và phục hồi hoàn toàn sau 3 tháng theo dõi. 

Đặc điểm của dân số nghiên cứu 

‐  2  trường  hợp  nhiễm  trùng  vết  mổ  nông, 
điều trị bằng kháng sinh cho kết quả tốt. 

Bảng 4: Một số đặc điểm của dân số nghiên cứu 

BÀN LUẬN 


Số đối tượng
72
Giới (Nam & Nữ)
26 & 46
Tuổi (TB tuổi ± ĐLC)
55 ± 6,8
Tầng tổn thương: L2-L3
1
L3-L4
4
L4-L5
55
L5-S1
12
Thời gian mổ (TB phút ± ĐLC)
186 ± 29
Lượng máu mất (TB ml ± ĐLC)
240 ± 42
Thời gian đi lại được sau mổ (TB ngày ± ĐLC) 2,1 ± 0,5
Thời gian nằm viện sau mổ (TB ngày ± ĐLC)
8 ± 0,6
Thời gian theo dõi (TB tháng ± ĐLC)
22,5 ± 5,3

(TB: Trung bình, ĐLC: Độ lệch chuẩn) 

Điểm  VAS,  ODI,  chiều  cao  liên  thân  đốt 
trước và sau phẫu thuật 
Bảng 5: Điểm VAS, ODI, chiều cao liên thân đốt 
trước và sau phẫu thuật 

Giá trị p
VAS Trước mổ(TB ± ĐLC)
Sau mổ (TB ± ĐLC)
6 tháng
1 năm
ODI Trước mổ(TB ± ĐLC)
Sau mổ (TB ± ĐLC)
6 tháng
1 năm
Chiều cao liên thân đốt
Trước mổ (TB ± ĐLC)
Sau mổ 1 năm (TB ± ĐLC)

7,60 ± 0,62
(*)

2,32 ± 0,58
2,10 ± 0,43
45,32 ± 8,20

<0,001
<0,001(*)

18,32 ± 3,20
16,55 ± 2,70

<0,001(*)
<0,001(*)

9,2 ± 0,7

12,1 ± 0,8

(*)

<0,001

(*): mức ý nghĩa so với trước phẫu thuật, TB: Trung bình, 
ĐLC: Độ lệch chuẩn. VAS: Visual Analogue Scale, ODI: 
Oswestry Disability Index. 

Phẫu Thuật Cột Sống 

HXLTĐ qua lỗ liên hợp bằng đường mổ mở 
kinh điển đã được thực hiện từ nhiều thập niên 
trước đây bởi Harms và Rolinger(8). Và ngày nay, 
nó  vẫn  được  tiếp  tục  sử  dụng  như  là  một 
phương pháp khá an toàn và hiệu quả tại nhiều 
trung tâm phẫu thuật bởi tính đơn giản, dễ thực 
hiện  và  cho  phẫu  trường  rộng.  Tuy  nhiên,  tổn 
thương mô mềm, mất máu và đau sau mổ nhiều 
là những nhược điểm của phương pháp mổ mở 
này. Để khắc phục nhược điểm này thì kỹ thuật 
ít xâm lấn cũng đã được quan tâm và phát triển. 
Năm  2003,  Foley(7)  là  người  đầu  tiên  mô  tả  kỹ 
thuật ít xâm lấn HXLTĐ qua lỗ liên hợp, và ngày 
nay nó đang trở nên ngày càng phổ biến(3,4,6,11,17). 
Đường vào mở nhỏ (mini‐open) là một kỹ thuật 
ít  xâm  lấn,  tách  vào  lớp  gian  cơ  tự  nhiên 
multifidus  và  longissimuss  (đường  vào  Wiltse) 
làm giảm được lượng máu mất trong mổ, ít tổn 

thương mô mền và rút ngắn được thời gian nằm 
viện(17). Tại đơn vị của chúng tôi, sử dụng đường 
mổ  mở  kinh  điển  cho  những  trường  hợp  trượt 
nặng  –  độ  III,  độ  IV,  hoặc  trượt  nhiều  hơn  hai 
tầng. Trong nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng 
đường  vào  mở  nhỏ  qua  hệ  thống  ống  banh 
Caspar,  với  đường  rạch  da  khoảng  3  –  3.5  cm, 
tách cơ chứ không cắt cơ, do vậy mà ít gây tổn 
thương  mô  mềm,  và  không  đau  sau  mổ  nhiều. 

19


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014

 
Hầu  hết  các  bệnh  nhân  trong  nghiên  cứu  này 
đều có thể đi lại được sớm 2 ngày sau mổ. 
HXLTĐ  được  chứng  minh  là  một  phương 
pháp có tỷ lệ hàn xương cao, trong nhiều nghiên 
cứu  có  thể  đạt  đến  93%  ‐  100%(5,1,2,13,14).  Trong 
nghiên cứu của chúng tôi tỷ lệ này đạt 97% sau 1 
năm phẫu thuật. Tỷ lệ hàn xương cao là một ưu 
điểm  của  HXLTĐ.  Tuy  nhiên,  đây  là  một  kỹ 
thuật  khá  phức  tạp  với  nhiều  biến  chứng  tiềm 
ẩn.Kỹ  thuật  HXLTĐ  có  thể  được  tiếp  cận  bằng 
nhiều  đường  khác  nhau  (qua  lối  trước,  lối  sau, 
hoặc qua lỗ liên hợp), mà mỗi đường vào có liên 

quan đến những biến chứng đặc biệt. 
Đường  vào  lối  trước  (ALIF  –  Anterior 
Lumbar  Interbody  Fusion):  do  phải  can  thiệp 
vào từ khu vực trước của thân sống, vùng cùng 
chậu nên dễ gây tổn thương các mạch máu lớn 
vùng chậu, bọng đái, niệu quản và đán rối thần 
kinh hạ vị gây xuất tinh ngược dòng ở nam giới. 
Tuy rằng cho phép làm vững cấu trúc cột trước 
khá tốt, nhưng lại có nhược điểm là không giải 
ép  được  các  yếu  tố  thần  kinh  phía  sau,  chẳng 
hạn  như:  hẹp  ống  sống,  hẹp  ngách  bên,  hẹp  lỗ 
liên hợp. Do vậy, trong một vài trường hợp cần 
thiết  phải  giải  ép  thần  kinh  phía  sau  thì  buộc 
phải tiến hành phẫu thuật thêm đường sau, gây 
kéo dài thời gian mổ và dĩ nhiên là cả thời gian 
nằm  viện.  Nhiều  tác  giả  khuyên  chỉ  nên  thực 
hiện ALIF cho tổn thương ở tầng L5S1 mà thôi. 
Đường vào lối sau (PLIF – Posterior Lumbar 
Interbody Fusion): khắc phục được nhược điểm 
của ALIF với chỉ bằng một đường vào lối sau có 
thể  thực  hiện  đồng  thời  HXLTĐ  và  giải  ép  các 
yếu tố thần kinh phía sau. Do đó phương pháp 
PLIF được sử dụng khá phổ biến cho các bệnh lý 
thoái hóa đĩa, mất vững cột sống, trượt đốt sống, 
thoát vị đĩa đệm hai bên. Mặc dù phương pháp 
này hữu ích trong nhiều trường hợp, nhưng nó 
vẫn tồn tại những hạn chế nhất định bởi đường 
vào để bộc lộ khoảng gian đĩa khá hẹp nên phải 
vén rễ và bao màng cứng nhiều do đó dễ gây tổn 
thương rễ thần kinh gặp vào khoảng 11%, tăng 

nguy  cơ  rách  màng  cứng  và  hình  thành  mô  xơ 

20

ngoài  màng  cứng  nhiều(11).  Đặc  biệt  nguy  hiểm 
nếu thực hiện ở tầng trên L2‐L3 vì rất dễ gây tổn 
thương  chóp  tủy,  19%  tổn  thương  chùm  đuôi 
ngựa  theo  một  nghiên  cứu  của  Turner(18).  Để 
khắc  phục  nhược  điểm  này  của  PLIF  gây  tổn 
thương rễ do vén nhiều thì Harms và Rolinger(8) 
đã  phát  triển  một  kỹ  thuật  mới  đó  là  HXLTĐ 
qua lỗ liên hợp. 
Đường  vào  qua  lỗ  liên  hợp  (TLIF  – 
Transforaminal  Lumbar  Interbody  Fusion):  mặt 
khớp  dưới  được  cắt,  lỗ  liên  hợp  được  mở  rộng 
hoàn toàn, rễ thần kinh thoát ra được giải ép một 
cách  thỏa  đáng.  Do  đó,  để  bộc  lộ  khoảng  gian 
đĩa trong đa số các trường hơp không cần phải 
vén  rễ  thần  kinh  nhiều,  chỉ  cần  vén  nhẹ  bao 
màng cứng vào trong nên rất ít gây tổn thương 
rễ  thần  kinh.  Trong  72  trường  hợp  nghiên  cứu 
của chúng tôi chỉ có một trường hợp bị yếu chân 
nhẹ  thoáng  qua  cùng  bên  với  rễ  được  giải  ép. 
Tuy  nhiên  trường  hợp  này  phục  hồi  hoàn  toàn 
sau 3 tháng theo dõi. Có 2 trường hợp bị nhiễm 
trùng  nông  ở  vết  mổ  đáp  ứng  tốt  với  điều  trị 
bằng kháng sinh. Chúng tôi đồng ý với nhiều tác 
giả rằng sự ra đời của phương pháp TLIF như là 
một thay thế cho PLIF(3,4,11), bởi vì không những 
cho phép thực hiện được HXLTĐ tạo vững chắc 

cho  cột  trước,  duy  trì  được  chiều  cao  liên  thân 
đốt, giải ép tốt cho các yếu tố thần kinh phía sau 
mà còn hạn chế được biến chứng tổn thương rễ 
sau mổ. 
Giải  ép  các  thần  kinh,  khôi  phục  và  làm 
vững  lại  cấu  trúc  cho  cột  sống  là  vấn  đề  then 
chốt trong điều trị trượt đốt sống thắt lưng, mà ở 
đây phương pháp HXLTĐ qua lỗ liên hợp hoàn 
toàn  có  thể  đạt  được.  Trong  nghiên  cứu  của 
chúng tôi kết quả sau mổ tốt và rất tốt đạt 90%, 
mức độ đau cũng được cải thiện một cách đáng 
kể, VAS từ 7,6 ± 0,62 xuống 2,1 ± 0,43, đồng thời 
giảm  được  mức  độ  tàn  phế,  ODI  từ  45,32  ±  8,2 
xuống 16,55 ± 2,7 sau một năm theo  dõi.  Chiều 
cao liên thân đốt cũng được phục hồi rất tốt so 
với trước mổ từ 9,2 ± 0,7 lên 12,1 ± 0,8. Chúng tôi 
cho rằng HXLTĐ qua lỗ liên hợp là một lựa chọn 

Chuyên Đề Phẫu Thuật Thần Kinh 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 

Nghiên cứu Y học

 
thích  hợp  trong  điều  trị  bệnh  lý  trượt  đốt  sống 
thắt lưng(10,12,15). 

9.


Harri  P,  Pertti  M,  (1997).  Complications  of  transpedicular 
lumbosacral fixation for non‐traumatic disorders, J Bone Surg; 
79, 183‐189. 

KẾT LUẬN  

10.

Hee HT, Majd ME, Holt RT, Myers L, (2003). Do autologous 
growth  factors  enhance  transforaminal  lumbar  interbody 
fusion? Eur Spine J 12:400–407. 

11.

Holly  LT,  Schwender  JD,  Rouben  DP,  Foley  KT,  (2006). 
Minimally  invasive  transforaminal  lumbar  interbody 
fusion:  indications,  technique,  and  complications  Neurosurg 
Focus 20 (3), 1‐5. 

12.

Humphreys  SC,  Hodges  SD,  Patwardhan  AG, Eck  JC, 
Murphy RB, Covington LA, (2001). Comparison of poserior 
and  transforaminal  approaches  to  lumbar  interbody  fusion. 
Spine 26:567–71. 

13.

Jutte  PC,  Castelein  MR,  (2002).  Complications  of  pedicle 

screws in lumbar and lumbosacral fusions in 105 consecutive 
primary operations. Eur Spine J, 11(6):594‐598. 

14.

Kim  KT,  Lee  SH,  Lee  YH,  Bae  SC,  Suk  KS,  (2006).  Clinical 
outcomes of 3 fusion methods through the posterior approach 
in the lumbar spine. Spine31(12):1351–1357 

15.

Kwon  BK,  Berta  S,  Daffner  SD,  Vaccaro  AR, Hilibrand  AS, 
Grauer JN, Beiner J, Albert TJ, (2003): Radiographic analysis 
of  transforaminal  lumbar  interbody  fusion  for  the  treatment 
of  adult  isthmic  spondylolisthesis.  J  Spinal  Disord  Tech 
16:469–476. 

16.

Narayan  P,  Haid  RW,  Subach  BR,  Comey  CH,  Rodts  GE, 
(2002).  Effect  of  spinal  disease  on  successful  arthrodesis  in 
lumbar pedicle screw fixation. J Neurosurg (Spine 2) 97:277–
280. 

17.

Praveen  V.M,  Gerald  E.R,  (2005).  The  mini‐open 
transforaminal  lumbar  interbody  fusion,  Neurosurgery 
57:256–261. 


18.

Turner  PL,  (1994).  Neurologic  complications  of  posterior 
lumbar interbody fusion. Presented at the Annual Meeting of 
the Spine Society of Australia, Melbourne, Australia. 

Hàn xương liên thân đốt qua lỗ liên hợp bằng 
đường vào mở nhỏ là một phương pháp an toàn 
và hiệu quả, đạt được kết quả điều trị tốt về mặt 
lâm sàng, có tỷ lệ hàn xương cao, và đặc biệt hữu 
ích trong việc khôi phục chiều cao liên thân đốt.  

TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.

2.

Barnes  B,  Rodts  GE,  McLaughlin  MR,  Haid  RW  Jr,  (2001): 
Threaded  cortical  bone  dowels  for  lumbar  interbody  fusion: 
over 1 year mean follow up in 28 patients. J Neurosurg 95:1–4. 
Boden  SD,  Kang  J,  Sandhu  H,  Heller  JG,  (2002).  Use  of 
recombinant human bone morphogenetic protein‐2 to achieve 
posterolateral lumbar spine fusion in humans: a prospective, 
randomized clinical pilot trial. Spine;27:2662–73. 

3.

Chad  D  Cole,  Todd  D  McCall,  Meic  H  Schmidt,  and 
Andrew  T.  Dailey,  (2009).  Comparison  of  low  back  fusion 
techniques: transforaminal lumbar interbody fusion (TLIF) or 

posterior  lumbar  interbody  fusion  (PLIF)  approaches.  Curr 
Rev Musculoskelet Med, 2:118–126. 

4.

Chang  KL,  Jeong  YP,  Ho  YZ,  (2010):  Minimally  Invasive 
Transforaminal  Lumbar  Interbody  Fusion  Using  a  Single 
Interbody  Cage  and  a  Tubular  Retraction  System:  Technical 
Tips,  and  Perioperative,Radiologic  and  Clinical  Outcomes: 
JKoreanNeurosurgSoc48: 219‐224. 

5.

Cutler  AR,  Siddiqui  S,  Mohan  AL,  Hillard  VH,  Cerabona 
F,  Das  K,  (2006).  Comparison  of  polyetheretherketone 
cages with femoral cortical bone allograft as a single‐piece 
interbody  spacer  in  transforaminal  lumbar  interbody 
fusion, J Neurosurg 5:534‐539. 

6.

Deng‐lu  Yan,  Fu‐xing  Pei,  Jian  Li,  and  Cheng‐long  Soo, 
(2008).  Comparative  study  of  PILF  and  TLIF  treatment  in 
adult  degenerative  spondylolisthesis.  Eur  Spine  J,  17:1311–
1316. 

7.

Foley KT, Holly LT, Schwender JD (2003). Minimally invasive 
lumbar fusion. Spine 28:S26–S35. 


8.

Harms  J,  Rolinger  H,  (1982):  A  one‐stage  procedure  in 
operative  treatment  of  spondylolisthesis:  Dorsal  traction‐
reposition and anterior fusion. J Orthop120:343–347. 

 
Ngày nhận bài báo: 

 

 

 03/10/2014 

Ngày phản biện nhận xét bài báo:  

27/10/2014 

Ngày bài báo được đăng:  

05/12/2014 

 

 

 


Phẫu Thuật Cột Sống 

 

21



×