Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Hiệu quả giảm đau của gây tê đám rối cổ nông hai bên bằng Bupivacaine 0.5% trong mổ bướu giáp nhân đơn thuần

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (400.38 KB, 6 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 

Nghiên cứu Y học

HIỆU QUẢ GIẢM ĐAU CỦA GÂY TÊ ĐÁM RỐI CỔ NÔNG HAI BÊN 
BẰNG BUPIVACAINE 0.5% TRONG MỔ BƯỚU GIÁP NHÂN ĐƠN THUẦN 
Danh Đức Thuận*, Nguyễn Cao Cương** 

TÓM TẮT 
Mở đầu và mục tiêu: Bệnh nhân phẫu thuật tuyến giáp cần được thực hiện giảm đau. Gây tê đám rối cổ 
nông (GTĐRCN) hai bên đã chứng tỏ cải thiện giảm đau hậu phẫu. Mục tiêu nghiên cứu này là đánh giá hiệu 
quả và tính an toàn của GTĐRCN hai bên với bupivacain 0,5% trong phẫu thuật bướu giáp nhân đơn thuần. 
Phương pháp nghiên cứu: Thực nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có nhóm chứng không mù trên 100 trường 
hợp, chia làm 2 nhóm, nhóm gây tê đám rối cổ nông hai bên thực hiện trước phẫu thuật và dưới gây mê nội khí 
quản với 10 ml bupivacain 0,5% mỗi bên và nhóm chứng chỉ thực hiện gây mê nội khí quản đơn thuần. Đau hậu 
phẫu được đánh giá bằng thang điểm đau VAS. Phân tích thống kê và xử lí số liệu bằng phần mềm SPSS. 
Kết quả: Điểm đau trung bình VAS sau mổ của nhóm GTĐRCN hai bên ở mức thấp 0,38 – 3,1 so với 2,66 
– 4,76 ở nhóm chứng và kéo dài 24 giờ sau mổ. Tỉ lệ bệnh nhân cần thêm thuốc giảm đau ở nhóm GTĐRCN hai 
bên là 14% so với 82% ở nhóm chứng. Tỉ lệ tai biến là 16% chủ yếu là chạm mạch. 
Kết luận: GTĐRCN hai bên có tác dụng giảm đau trong và sau mổ bướu tuyến giáp, và đây là thủ thuật ít 
tai biến. 
Từ khóa: giảm đau, fentanyl, bupivacain, gây tê đám rối cổ nông hai bên, phẫu thuật cắt tuyến giáp, hậu 
phẫu 

ABSTRACT 
THE ANALGESIC EFFICACY OF BILATERAL SUPERFICIAL CERVICAL PLEXUS BLOCK  
BY BUPIVACAIN 0.5% FOR THYROIDECTOMY  
Danh Duc Thuan, Nguyen Cao Cuong  
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 387 ‐ 392 
Background  and  objectives: Patients undergoing thydroidectomy need postoperative pain management. 
Bilateral  superficial  cervical  plexus  block  (Bscpb)  has  been  shown  to  improve  postoperative  analgesia.  The 


objectives of this study were to evaluate the effectiveness and the safeness of bilateral superficial cervical plexus 
block with bupivacain 0.5% for thyroidectomy. 
Method:  Clinical  randomized  trial  with  control  group,  without  blind.  100  patients  were  assigned  to  two 
group, Bscpb group was performed before surgery and under general anesthesia with 10 ml bupivacain 0.5% each 
side, and control group was performed general anesthesia without Bscpb. Postoperative pain was assessed by the 
use of pain score VAS. Statistical analysis with SPSS software. 
Results: The verbal analogue pain scores of Bscpb were low during 24 hours after surgery with VAS 0.38‐
3.1 vs 2.66‐4.76 in control group. The proportion of given pain relief drug patients was 14% in Bscpb vs 82% in 
control group. The proportion of complications was 16% and insert the vascular mostly. 
Key  words:  analgesia,  fentanyl,  bupivacain,  bilateral  superficial  cervical  plexus  block,  thyroidectomy, 
postoperation 
* Bệnh viện đa khoa Tỉnh Kiên Giang 
 ** Bệnh viện Bình Dân 
Tác giả liên lạc: Bs Danh Đức Thuận  ĐT: 0989974397, email:  

Ngoại Tổng Quát 

387


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

ĐẶT VẤN ĐỀ 
Phẫu thuật bướu tuyến giáp gây ra mức độ 
đau  trung  bình  và  thời  gian  đau  không  kéo 
dài(9,16). Phần lớn bệnh nhân chịu sự ảnh hưởng 
đau trong ngày đầu sau phẫu thuật. Đã có nhiều 
thảo  luận  để  phòng  tránh  và  điều  trị  đau  với 

nhiều  cách  khác  nhau  như  dùng  opiod  hay 
kháng viêm Non steroid hoặc gây tê vùng. Tuy 
cường độ đau ở múc trung bình và thời gian đau 
diễn  ra  ngắn  nhưng  nghiên  cứu  của  Gozal  và 
cộng sự cho thấy chỉ số đau của bệnh nhân là 6,9 
trên thang điểm VAS (visual analogue scale) và 
90%  yêu  cầu  giảm  đau  bằng  opioid(4).  Hay 
nghiên  cứu  của  Dieudonne  cũng  chỉ  ra  90% 
bệnh nhân có chỉ số đau NRS ≥ 4 (numeric rating 
scale  NRS  –  11)  và  yêu  cầu  giảm  đau  bằng 
morphine(3). 
Gây  tê  đám  rối  thần  kinh  cổ  nông  là  một 
trong những phương pháp giảm đau vùng đã 
và  đang  được  nhiều  tác  giả  nước  ngoài  áp 
dụng  thực  hiện  với  các  mục  đích:  giảm  đau 
trong  mổ  để  giảm  liều  opoid  nhằm  làm  giảm 
buồn  nôn  và  nôn  sau  mổ(15),  giảm  liều  opioid 
trong  mổ  cũng  phòng  tránh  hiện  tượng  tăng 
đau sau mổ(2,5); mục đích nữa là giảm đau sau 
mổ  với  kỹ  thuật  gây  tê  đám  rối  cổ  nông  hai 
bên thực hiện đơn giản, kết quả mang lại khả 
quan. Tại Việt Nam kỹ thuật gây tê đám rối cổ 
nông  hai  bên  còn  chưa  phổ  biến,  một  vài  tác 
giả như Lê Việt Trung(10), Huỳnh Hữu Nghĩa(6), 
Phạm Xuân Lượng(14) đã thực hiện để mổ bướu 
giáp  đơn  thuần  hay  bệnh  Basedow  không  kết 
hợp với gây mê. Có ít đề tài nghiên cứu về tác 
dụng giảm đau sau mổ của phương pháp cũng 
như những biến chứng của nó . 
Chúng  tôi  thực  hiện  đề  tài  này  nhằm  mục 

đích đánh giá hiệu quả và tính an toàn của gây 
tê đám rối thần kinh cổ nông hai bên trong phẫu 
thuật bướu tuyến giáp với các mục tiêu sau: 
Xác định điểm đau trung bình VAS vào các 
thời điểm sau mổ. 
Xác định tỉ lệ sử dụng thêm thuốc giảm đau 
trong và sau mổ. 

388

Xác định tỉ lệ tai biến, tác dụng phụ. 

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Thiết kế nghiên cứu 
Thực  nghiệm  lâm  sàng  có  nhóm  chứng 
không mù. 

Phương pháp nghiên cứu 
Bệnh nhân được chia làm 2 nhóm: nhóm G 
là  nhóm  chứng;  nhóm  BG  là  nhóm  được 
GTĐRCN  hai  bên  kết  hợp  với  gây  mê  nội  khí 
quản. 

Chọn mẫu 
Tiêu chuẩn chọn mẫu 
Bệnh nhân bướu giáp nhân đơn thuần độ 2, 
3 và có chỉ định phẫu thuật. 
Tiêu chuẩn loại trừ 
Trường hợp không thực hiện theo đúng qui 
trình theo dõi và chăm sóc. 

Thời gian và địa điểm nghiên cứu 
Từ  tháng  8/2012  đến  tháng  5/2013  tại  khoa 
gây mê hồi sức bệnh viện đa khoa Kiên Giang. 
Qui trình nhiên cứu 
Bệnh nhân được khám tiền mê ngày trước 
mổ,  được  giải  thích  rõ  về  kỹ  thuật  cũng  như 
các tai biến, biến chứng và tác dụng phụ có thể 
xảy trong và sau mổ của phương pháp gây tê 
đám rối cổ nông hai bên và kí cam kết đồng ý 
thực hiện. 
Bệnh  nhân  được  gây  mê  và  đặt  nội  khí 
quản  với  midazolam  0,05  mg/kg,  fentanyl  2 
mcg/kg,  propofol  2  mg/kg,  rocuronium  0,6 
mg/kg.  Duy  trì  mê  với  isofluran.  Sau  khi  gây 
mê  nội  khí  quản  bệnh  nhân  được  GTĐRCN 
hai bên. Xác định mốc tê điểm giữa bờ sau của 
cơ  ức  đòn  chũm.  Sát  trùng  da  bằng  povidin, 
thực  hiện  GTĐRCN  hai  bên  bằng  ống  tiêm 
chứa 20 ml bupivacain 0,5% kim 24G, đâm kim 
thẳng góc với mặt da tại điểm giữa, bờ sau cơ 
ức  đòn  chũm.  Hướng  kim  lên  trên  1  cm  hút 
thử  không  có  máu,  bơm  3  ml  thuốc  tê  để 
phong bế nhánh thần kinh chẩm bé, nhánh tai 
lớn.  Lui  kim  ra  đâm  theo  hướng  mặt  phẳng 

Chuyên Đề Ngoại Khoa 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 
ngang  độ  sâu  1‐1,5  cm  tiêm  4  ml  thuốc  tê  để 

phong  bế  nhánh  thần  kinh  tai  lớn,  cổ  ngang. 
Lui kim đâm hướng xuống dọc theo bờ sau cơ 
ức  đòn  chũm  tiêm  3ml  thuốc  tê  để  phong  bế 
nhánh  thần  kinh  tai  lớn,  cổ  ngang.  Trong  quá 
trình mổ, bệnh nhân được cho thêm fentanyl 1 
mg/kg  để  giảm  đau  khi  M,  HA  tăng  20  %  so 
với  số  căn  bản.  Sau  mổ,  bệnh  nhân  được 
chuyển  đến  phòng  hồi  tỉnh  theo  dõi,  rút  nội 
khí quản khi tỉnh mê hoàn toàn. 
Đánh giá điểm đau bằng thước chia độ đau 
VAS vào các thời điểm: 1, 2, 4, 8, 12, 24 giờ sau 

Nghiên cứu Y học

xem có ý nghĩa thống kê. 

KẾT QUẢ 
Bảng 1: Đặc điểm dịch tễ 
Đặc điểm
Tuổi*
Giới (%) Nam
Nữ
Cân nặng (kg)*
Chiều cao (cm)*
ASA**
I
II
Tphẫu thuật(giờ)*
**


Nhóm G
(n=50)
40,3±11,2
3(6)
47(44)
50,1±4,9
157,4±2,7
34( 68)
16( 32)
56,4±9,3

Nhóm BG
(n=50)
41,4±10,6
3(6)
47(44)
49,3±5,1
156,3±2,7
35(70)
15( 30)
55,1±9,4

P
0,6
>0,05
>0,05
>0,05
>0,05
>0,05
>0,05


mổ.  Nếu  VAS  trên  3  điểm,  bệnh  nhân  được 

(*)Trung bình±độ lệch chuẩn, (**) trường hợp (phần trăm) 

cho thêm giảm đau 1g perfalgan (paracetamol) 

Bảng 2: Điểm đau trung bình VAS qua các thời điểm 

truyền tĩnh mạch. Nếu vẫn còn đau sẽ lần lượt 

Thời điểm
T1
T2
T4
T8
T12
T24

cho thêm ketorolac 30mg TM, morphin 2‐3 mg 
TM. 
Các số liệu cần thu thập 
Đặc  điểm  về  dịch  tễ:  tuổi,  cân  nặng,  chiều 
cao,ASA, thời gian phẫu thuật. 
Điểm đau VAS khi tỉnh mê ở các thời điểm 

Nhóm G (n=50)
0,4±0,7
0,8±0,6
1,2±0,7

2,1±0,9
2,8±0,5
3,1±0,4

Nhóm BG (n=50)
2,7±0,6
4,7±1,2
3,1±0,9
5,2±0,8
3,1±0,3
4,8±0,7

Số liệu được trình bày: trung bình ± độ lệch 
chuẩn 

1, 2, 4, 8, 12, 24. 
Tổng liều fentanyl trong mổ, các thuốc giảm 
đau sử dụng thêm sau mổ ngày thứ 1. 
Các tai biến (chạm mạch, ngộ độc, hội chứng 
Claude Bernard Horner). 
Các  số  liệu  được  thu  thập  vào  phiếu  thu 
thập  số  liệu  cho  từng  trường  hợp.  Phân  tích  số 

 
Biểu đồ 1: Trung vị điểm đau VAS qua các thời điểm  

liệu bằng phần mềm SPSS 18.0.  

Bảng 3: Lượng fentanyl sử dụng trong mổ 


Các  biến  số  liên  tục  có  phân  phối  chuẩn 
được  tính  bằng  số  trung  bình  ±  độ  lệch  chuẩn, 
được phân tích bằng Student’s test. Các biến số 
định  tính  được  trình  bày  bằng  tần  suất  và  tỉ  lệ 
phần  trăm,  được  phân  tích  bằng  Chi  bình 
phương  test.  Các  biến  số  có  phân  phối  không 
chuẩn  được  phân  tích  bằng  phép  kiểm  Mann 

Liều ( mcg/kg)*
Trung bình(µg)*
Thêm fentanyl**

kiểm  ANOVA  một  chiều.  Giá  trị  p<0,05  được 

Ngoại Tổng Quát 

Nhóm BG
(n=50)
2,2±0,4
106,8±23,5
7(14)

P
< 0,001
<0,001
<0,001

(*) Trung bình ± độ lệch chuẩn, (**) trường hợp (phần 
trăm) 


Bảng 4: Thuốc giảm đau sử dụng sau mổ 

Whitney U test. Các biến số  giữa các thời  điểm 
trong mổ và sau mổ được phân tích bằng phép 

Nhóm G
(n=50)
2,9±0,5
143,0±25,6
41(82)

Perfalgan(mg)*
Ketorolac(mg)*

Nhóm G
(n=50)
1920 ± 600,7
31,2 ±20,9

Nhóm BG
(n=50)
120±328,3
1,8±7,2

P
< 0,001
< 0,001

389



Nghiên cứu Y học 
Thêm thuốc giảm
đau sau mổ
1 loại thuốc**
2 loại thuốc**

50(100)
10(20)
40(80)

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
6(12)
3(6)
3(6)

< 0,001

(*)Trung bình±độ lệch chuẩn, (**) trường hợp (phần trăm) 

Bảng 5: Tai biến của tê đám rối cổ nông hai bên 
Tai biến
Chạm mạch
Claud Bernard Horner
Ngộ độc thuốc tê
Suy hô hấp
Khàn tiếng
Không tai biến

Trường hợp (%)

8(16)
0(0)
0(0)
0(0)
0(0)
42(84)

BÀN LUẬN 
Kết quả nghiên  cứu  cho  thấy  phương  pháp 
gây tê đám rối cổ nông hai bên có hiệu quả giảm 
đau trong mổ và kéo dài 24 giờ sau mổ. Nghiên 
cứu của chúng tôi cũng có kết quả tương tự với 
các tác giả nước ngoài về hiệu quả giảm đau của 
tê đám rối cổ nông hai bên. Đa phần các tác giả 
đặt  NKQ  và  ít  sử  dụng  thuốc  giảm  đau  trong 
mổ bằng fentanyl mà bằng các opioid thế hệ mới 
như  sufentanyl,  remifentanyl  ,  alfentanyl...  tuy 
nhiên  hầu  hết  các  nghiên  cứu  đều  nhận  thấy 
giảm  liều  opioid  sử  dụng  trong  mổ  ở  nhóm 
TĐRCN . So sánh với các tác giả này về hiệu quả 
giảm đau của TĐRCN hai bên trong mổ có làm 
giảm sử dụng opioid trong mổ. Theo nghiên cứu 
của  Karthikeyan  VS(8),  lượng  fentanyl  cho  thêm 
trong mổ  là 72 ± 8,99 mcg ở nhóm  TĐRCN  hai 
bên  và  93  ±  4,76  mcg  ở  nhóm  chứng.  Liều 
fentanyl  cho  trong  mổ  là  1,57  ±  0,21  mcg/kg  ở 
nhóm  TĐRCN  hai  bên  và  2,08  ±  0,11  mcg/kg  ở 
nhóm chứng. Tác giả Kathikeyan VS cho đặt nội 
khí  quản  ở  liều  chuẩn  là  1,5  mcg/kg.  Ashraf  A 
Moussa  và  cộng  sự(12)  cho  giảm  đau  trong  mổ 

bằng remifentanyl và liều lượng giảm có ý nghĩa 
khi được tê đám rối cổ hai bên với 1114,78 mcg ở 
nhóm được tê đám rối cổ hai bên so với 2788,46 
mcg  ở  nhóm  chứng.  Sophie  Aunac(2)  cho  giảm 
đau trong mổ bằng alfentanyl. Lượng alfentanyl 
cũng  giảm  có  ý  nghĩa  thống  kê  ở  nhóm  được 
TĐRCN hai bên với 2,6 ± 1,6 mcg so với 1,3 ± 1 
mcg ở nhóm chứng. Andrieu G(1) cho giảm đau 
trong  mổ  bằng  sufentanyl.  Lượng  sufentanyl 

390

giảm có ý nghĩa thống kê ở nhóm tê đám rối cổ 
0,4 mcg/kg so với 0,6 mcg/kg. Dieudonne không 
thực hiện gây tê đám rối cổ để  giảm đau trong 
mổ  mà  thực  hiện  gây  tê  để  giảm  đau  sau  mổ. 
Lượng  sufentanyl  để  giảm  đau  trong  mổ  ở  hai 
nhóm khác nhau không có ý nghĩa thống kê 24 ± 
8  mcg  ở  nhóm  chứng  và  25  ±  6  mcg  ở  nhóm 
TĐRCN hai bên. 
Chúng  tôi  cho  thêm  giảm  đau  sau  mổ  khi 
đánh giá thang điểm VAS trên 3 hoặc khi bệnh 
nhân  yêu  cầu  thêm  giảm  đau.  Tỷ  lệ  sử  dụng 
thêm  thuốc  giảm  đau  trong  nghiên  cứu  của 
chúng tôi so với các tác giả nước ngoài cũng có 
sự  khác  biệt.  Trong  nghiên  cứu  của  Shih,  tỷ  lệ 
bệnh  nhân  sử  dụng  thêm  thuốc  giảm  đau  ở 
nhóm chứng là 58,9%, ở nhóm TĐRCN hai bên 
là  15,4%.  Nghiên  cứu  của  Dieudonne  có  tỷ  lệ 
bệnh nhân dùng thêm thuốc giảm đau ở nhóm 

chứng là 90%, ờ nhóm TĐRCN hai bên là 66%. 
Của  Ashraf  A  Moussa,  tỷ  lệ  bệnh  nhân  dùng 
thêm thuốc giảm đau ở nhóm chứng là 91,7%, ở 
nhóm  TĐRCN  hai  bên  là  66,7%.  Hay  của 
Andrieu  có  tỷ  lệ  bệnh  nhân  dùng  thêm  giảm 
đau  ở  nhóm  chứng  là  86,2%,  ở  nhóm  TĐRCN 
hai bên là 65,5%. Kết quả của chúng tôi ở nhóm 
chứng  100%  bệnh  nhân  cho  thuốc  giảm  đau,  ở 
nhóm TĐRCN hai bên có 12% bệnh nhân. Sở dĩ 
có  những  kết  quả  khác  nhau  như  vậy  là  do 
chúng tôi và các  tác  giả  sử  dụng  phác  đồ  giảm 
đau  sau  mổ  khác  nhau.  Ashraf  A  Moussa  và 
Dieudonne có cùng một phác đồ giảm đau. Tác 
giả  Dieudonne  cho  proparacetamol  2  gam 
truyền  tĩnh  mạch  còn  Ashraf  A  Moussa  cho 
perfalgan  truyền  tĩnh  mạch  mỗi  4  giờ  trong  24 
giờ đầu. Morphin 2mg được lặp lại mỗi 5 phút 
cho  tới  khi  thang  điểm  đau  dưới  4.  Nếu  liều 
morphin từ 6 mg trở lên thì morphin 5 mg được 
tiêm dưới da trước khi rời hậu phẫu(3,12). Shih cho 
ketorolac  30  mg  truyền  tĩnh  mạch  trong  6  giờ 
hoặc  hơn  khi  thang  điểm  đau  của  bệnh  nhân 
trên 4(16). Tác giả Andrieu G cho acetaminophen 
15 mg/kg cân nặng cho tất cả các bệnh nhân mỗi 
6 giờ, liều đầu tiên được cho  40  phút  trước  khi 
kết thúc phẫu thuật, nếu thang điểm đau trên 4, 
nefopam 20 mg được truyền tĩnh mạch trong 20 

Chuyên Đề Ngoại Khoa 



Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 
phút với tổng liều là 120 mg trong 24 giờ(1). Phác 
đồ của chúng tôi là bắt đầu bằng paracetamol 1g 
truyền tĩnh mạch, tiếp theo là ketorolac 30 mg và 
sau đó là morphin 2‐3 mg tiêm mạch chậm. Phác 
đồ giảm đau của chúng tôi dựa theo phác đồ của 
tác giả Nguyễn Thị Thanh trong nghiên cứu về 
giảm  đau  sau  mổ  đoạn  nhủ(13).  Quan  điểm  của 
tác  giả  cũng  như  của  chúng  tôi  là  cần  phải  áp 
dụng giảm đau đa phương thức phối hợp gây tê 
với các thuốc giảm đau khác. Mỗi phương thức 
giảm  đau  cũng  như  mỗi  thuốc  có  cơ  chế  tác 
động  khác  nhau.  Việc  phối  hợp  này  nhằm  làm 
tăng  tác  dụng  giảm  đau,  giảm  liều  thuốc  cũng 
như tác dụng phụ của thuốc. 
Để  lượng  giá  điểm  đau,  người  ta  dùng  các 
thang  lượng  giá  chủ  quan,  có  thể  là  thang  đo 
lường  chung  (thang  tự  lượng  giá),  hoặc  đo 
lường đa chiều nhằm phân biệt các mức độ đau 
khác  nhau.  Phương  pháp  lượng  giá  tin  cậy  khi 
các lần đo liên tiếp đều giống nhau trong những 
điều kiện lâm sàng giống nhau. Cũng như đa số 
các tác giả khác, chúng tôi chọn thang điểm đau 
VAS  để  đánh  giá  tình  trạng  đau  cho  các  bệnh 
nhân trong nghiên cứu của chúng tôi vì sự tiện 
ích  vừa  nêu  trên.  Điểm  đau  VAS  trong  24  giờ 
đầu sau mổ ở nhóm G dao động trong khoảng 
2,66 đến 4,76; ở nhóm BG là 0,38 đến 3,12. Điều 
này  chứng  tỏ  mức  độ  đau  sau  mổ  của  bệnh 

nhân được tê đám rối cổ hai bên thấp hơn nhóm 
chứng trong suốt 24 giờ đầu sau mổ . 
Điểm đau VAS trong nghiên cứu của chúng 
tôi có kết quả tương tự với với các tác giả khác 
như Ming – Lang – Shih ghi nhận hiệu quả giảm 
đau trong 24 giờ đầu sau mổ bướu giáp ở nhóm 
tê đám rối cổ nông hai bên với điểm đau là 1,7 – 
3,5 so với 2 – 8 ở nhóm không tê. Tác giả nhấn 
mạnh  hiệu  quả  tốt  nhất  trong  16  giờ  đầu  sau 
mổ(10). Của Ashraf A Moussa ghi nhận hiệu quả 
giảm đau trong 24 giờ đầu ở nhóm tê đám rối cổ 
nông là 1,1 – 3,2 so với 3,1 – 6,4 ở nhóm không 
tê. Tác giả nhận xét rằng hiệu quả giảm đau tốt 
nhất  trong  4  giờ  đầu  sau  mổ(12).  Hay  của 
Dieudonne tê đám rối cổ nông chỉ để giảm đau 
sau mổ, thang điểm đau của nhóm tê đám rối cổ 

Ngoại Tổng Quát 

Nghiên cứu Y học

trong 24 giờ đầu là 1 – 3 so với 2 – 5 của nhóm 
không tê. 
Mặc  dù  đã  thực  hiện  đúng  theo  kỹ  thuật 
nhưng chúng tôi vẫn có 8 trường hợp đâm kim 
chạm  mạch  chiếm  tỷ  lệ  16%  nhưng  phát  hiện 
được, do đó không có tai biến tiêm thuốc tê vào 
mạch  máu.  Không  có  tai  biến  suy  hô  hấp  do 
phong bế dây thần kinh hoành khi các chỉ số hô 
hấp  và  độ  bão  hòa  oxy  của  bệnh  nhân  sau  mổ 

đều ở giá trị bình thường. Đa số các báo cáo trên 
thế giới và trong nước đều không có trường hợp 
nào  tiêm  thuốc  tê  vào  mạch  máu.  Các  tác  giả 
trên  thế  giới  thực  hiện  tê  đám  rối  cổ  nông  hai 
bên  để  cắt  tuyến  giáp  hay  cắt  viêm  áo  trong 
động mạch đều có báo cáo tai biến của thủ thuật. 
Shih và cộng sự báo cáo có một trường hợp liệt 
cơ hoành tạm thời và phong bế tùng cánh tay(16). 
Andrieu G báo cáo có 10 trường hợp liệt dây âm 
tạm  thời(1).  Tatjana  Stopar  Pintaric  báo  cáo  có  5 
trường  hợp  bị  hội  chứng  Claude  Bernard 
Horner  chiếm  tỷ  lệ  25%(7).  Rui  Celso  Martins 
Mamede  báo  cáo  có  1  trường  hợp  tụt  huyết  áp 
dưới  90  mmHg,  2  trường  hợp  khàn  giọng  và  1 
trường  hợp  suy  hô  hấp(11).  Nghiên  cứu  của 
chúng tôi có 8 trường hợp bị chạm mạch ngoài 
ra không có tai biến nào khác. Ở nghiên cứu của 
Huỳnh Hữu Nghĩa báo cáo có 4 trường hợp co 
thắt  thanh  quản  trong  khi  mổ(6).  Tác  giả  Phạm 
Xuân  Lượng  báo  cáo  có  1  trường  hợp  chạm 
mạch,  có  2  trường  hợp  khàn  tiếng  và  1  trường 
hợp tụt huyết áp dưới 20% so với huyết áp ban 
đầu. Nghiên cứu của chúng tôi có kết quả cũng 
tương tự kết quả của tác giả Dieudonne khi tác 
giả  báo  cáo  ngoài  20  trường  hợp  nôn  ói  hậu 
phẩu thì không có tai biến nào khác. 
 Nghiên  cứu  của  chúng  tôi  thực  hiện  kỹ 
thuật  tê  đám  rối  cổ  nông  với  kỹ  thuật  chích  ba 
điểm  bằng  một  mũi  đâm  kim  (a  three  ‐  point 
injection technique) cổ điển với bupivacain 0,5% 

với kỹ thuật chích ba điểm. Hiện nay một vài tác 
giả nước ngoài và trong nước thực hiện kỹ thuật 
chích  hai  điểm  để  phong  bế  đám  rối  cổ  nông. 
Phần  lớn  các  tác  giả  nước  ngoài  đều  thực  hiện 
kỹ  thuật  tê  đám  rối  cổ  nông  hai  bên  bằng  kỹ 

391


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

thuật  chích  ba  điểm  như  mô  tả  ở  bảng  5.1.  Tác 
giả Nimmi Arora có một báo cáo trong một hội 
nghị  chuyên  đề  về  tê  tại  chổ  và  tê  vùng  cho 
phẫu thuật tuyến giáp đã xác định rằng tê đám 
rối  cổ  nông  được  thực  hiện  với  kỹ  thuật  chích 
một, hai điểm sẽ không đảm bảo cho phẫu thuật 
tuyến giáp về kiểm soát đau trong mổ và sau mổ 
kể  cả  cùng  liều  thuốc.  Liều  lớn  thuốc  cùng  với 
chích  nhiều  điểm  thì  sẽ  tốt  hơn  cho  bệnh  nhân 
trong kiểm soát đau.  

KẾT LUẬN  
Gây tê đám rối cổ nông hai bên với kỹ thuật 
chích  ba  điểm  bằng  một  mũi  đâm  kim  là  kỹ 
thuật đơn giản, an toàn và có hiệu quả giảm đau 
tốt, kéo dài trên 24 giờ sau phẫu thuật bướu giáp 
nhân đơn thuần. 


7.

8.

9.

10.

11.

12.

TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.

2.

3.

4.

5.

6.

392

Andrieu  G,  et  al  (2007),  ʺ  Analgesic  efficacy  of  bilateral 
superficial cervical plexus block administered before thyroid 

surgery  under  general  anaesthesia  ʺ.  British  Journal  of 
Anaesthesia. Vol. 99 (4), p. 561–6. 
Aunac  S,  et  al  (2002),  ʺ  The  analgesic  efficacy  of  bilateral 
combined  superficial  and  deep  cervical  plexus  block 
administered before thyroid surgery under general anesthesia 
ʺ. Anesth Analg. Vol. 95, p. 746‐50. 
Dieudonne N, et al (2001), ʺ Prevention of postoperative pain 
after  thyroid  surgery:  a  double‐blind  randomized  study  of 
bilateral superficial cervical plexus blocks ʺ. Anesth Analg. Vol. 
92, p. 1538‐42. 
Gozal  Y,  Shapira  SC,  et  al  (1994),  ʺ  Bupivacaine  wound 
infiltration in thyroid surgery reduces postoperative pain and 
opioid  demand  ʺ.  Acta  Anaesthesiologica  Scandinavica.  Vol. 
38(8), p. 813‐5. 
Guignard  B,  et  al  (2000),  ʺ  Acute  opioid  tolerance: 
intraoperative  remifentanil  increases  postoperative  pain  and 
morphine requirement ʺ. Anaesthesiology. Vol. 93 ( 2 ), p. 409‐
17. 
Huỳnh Hữu Nghĩa (2007), ʺ Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, 
 

13.

14.

15.

16.

cận lâm sàng và kết quả điều trị ngoại khoa bướu giáp đơn 

thuần độ lớn (IV,V) dưới vô cảm gây tê đám rối cổ ʺ. Luận văn 
thạc sỹ y học‐Học viện quân y. 
Intaric  TS,  et  al  (2007),  ʺ  A  Prospective,  Randomized 
Comparison  Between  Combined  (Deep  and  Superficial)  and 
Superficial  Cervical  Plexus  Block  with  Levobupivacaine  for 
Minimally  Invasive  Parathyroidectomy  ʺ.  Anesthesia  & 
Analgesia. Vol. 105, p. 1160‐1163. 
Karthikeyan VF, et al (2012), ʺ Randomized Controlled  Trial 
on the Efficacy of Bilateral Superficial Cervical Plexus Block in 
Thyroidectomy. Pain Practice. LID ‐ 10.1111/papr.12022 [doi] ʺ.  
Kesisoglou I, et al (2010), ʺ Superficial selective cervical plexus 
block  following  total  thyroidectomy:  a  randomized  trial  ʺ. 
Head & Neck. Vol. 32(8), p. 984‐988. 
Lê Việt Trung (2003), ʺ Nghiên cứu chỉ định và kết quả điều 
trị ngọai khoa bệnh Basedow dưới vô cảm gây tê đám rối cổ 
nôngʺ. luận văn thạc sỹ y học‐Học viện quân y. 
Mamede RC, Raful H (2008), ʺ Comparison between general 
anesthesia  and  superficial  cervical  plexus  block  in  partial 
thyroidectomies ʺ. Brazilian journal of otorhinolaryngology.  Vol. 
74, p. 99‐105. 
Moussa  AA  (2006),  ʺ  Bilateral  Superficial  Cervical  Plexus 
Block Alone or Combined with Bilateral Deep Cervical Plexus 
Block  for  Pain  Management  After  Thyroid  Surgeryʺ.  AJAIC. 
Vol. 9, p. 45‐50. 
Nguyễn Thị Thanh, et al. (2011), ʺ Giảm đau bằng tê cạnh cột 
sống trong phẫu thuật ung thư vú ʺ. Y học Thành phố Hồ Chí 
Minh. Tập. 3, p. 51‐55. 
Phạm  Xuân  Lượng  (2001),  ʺ  Tê  đám  rối  thần  kinh  cổ  nông 
bằng  lidocaine  phối  hợp  với  fentanyl  trong  phẩu  thuật  cắt 
tuyến giáp điều trị bệnh Basedow ʺ. Luận văn thạc sỹ y học‐Học 

viện quân y. 
Porreca F, et al (2009), ʺ Nausea and vomiting side effects with 
opioid  analgesics  during  treatment  of  chronic  pain: 
mechanisms,  implications,  and  management  options  ʺ.  Pain 
medicine. Vol. 10(4), p. 654‐62. 
Shih  ML,  et  al  (2010),  ʺ  Bilateral  superficial  cervical  plexus 
block  combined  with  general  anesthesia  administered  in 
thyroid operations ʺ. World Journal of Surgery. Vol. 34, p. 2238‐
2343. 

Ngày nhận bài báo: 01/11/2013 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 29/11/2013 
Ngày bài báo được đăng: 05/01/2014 

Chuyên Đề Ngoại Khoa 



×