Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Tần suất suy giáp thứ phát ở bệnh nhân chấn thương sọ não giai đoạn cấp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (295.75 KB, 6 trang )

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012

TẦN SUẤT SUY GIÁP THỨ PHÁT
Ở BỆNH NHÂN CHẤN THƯƠNG SỌ NÃO GIAI ĐOẠN CẤP
Nguyễn Thy Khuê*, Dương Minh Mẫn**, Nguyễn Thị Bích Đào**, Phan Hữu Hên**

TÓM TẮT
Mục tiêu: Xác định tần suất suy giáp thứ phát và các yếu tố liên quan đến suy giáp thứ phát trong giai đoạn
cấp ở bệnh nhân chấn thương sọ não.
Phương pháp: Mô tả cắt ngang. Bệnh nhân chấn thương sọ não giai đoạn cấp mức độ vừa và nặng được
chọn thuận tiện, liên tục. Mỗi bệnh nhân được đo TSH, fT4 máu 8 giờ sáng ngoài các xét nghiệm, cận lâm sàng
cần thiết khác.
Kết quả: Nghiên cứu gồm 112 trường hợp chấn thương sọ não trong giai đoạn cấp tại bệnh viện Chợ Rẫy,
có 20 bệnh nhân tử vong trong thời gian nằm viện (chiếm tỉ lệ 17,9%). Nam giới chiếm đa số với 86,6%. Có 12
trường hợp suy giáp, chiếm tỉ lệ 10,7%. Đường huyết lúc vào viện ≥ 180mg/dl làm tăng nguy cơ suy giáp lần
lượt là 5% (p = 0,935). Tất cả 12 trường hợp suy giáp đều gặp ở bệnh nhân có điểm Glasgow lúc vào viện < 9
điểm. Bệnh nhân có suy giáp sẽ làm gia tăng nguy cơ tử vong 4 lần (p = 0,038).
Kết luận: Tần suất suy giáp thứ phát ở bệnh nhân chương sọ não giai đoạn cấp là 10,7%, chỉ gặp ở bệnh
nhân bị chức thương mức độ nặng. Bệnh nhân có suy giáp làm gia tăng nguy cơ tử vong trong bệnh viện.
Từ khóa: Chấn thương sọ não, suy giáp thứ phát, tử vong

ABSTRACT
PREVALENCE OF SECONDARY HYPOTHYROIDISM IN ACUTE TRAUMATIC BRAIN INJURY
PATIENTS
Nguyen Thy Khue, Duong Minh Man, Nguyen Thi Bich Đao, Phan Huu Hen
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 2 - 2012: 46 - 51
Background/Objectives: The objective of this study is to determine the prevalence of and many factor
related to secondary hypothyroidism in acute traumatic brain injury patients.
Subjects/methods: The study was designed as a cross sectional investigation. Convient - consecutive


patients with moderate and severe head trauma were enrolled during acute phase after injury. Baseline serum
concentrations of hormones were measured in the morning: TSH, fT4.
Results: The study included 112 cases of brain injury in the acute phase at Cho Ray Hospital, 20 patients
died during hospitalization (17.9% proportion). Males dominate with 86.6%. There were 12 cases of secondary
hypothyroidism, accounting for 10.7%. Blood glucose level ≥ 180mg/dl on admission increases the risk of
hypothyroidism is 5% (p = 0.935). All 12 cases of secondary hypothyroidism are common in patients with
a Glasgow score at the hospital <9 points. Patients with secondary hypothyroidism increases the risk of
death four times (p = 0.038).
Conclusions: Prevalence of secondary hypothyroidism in patients with acute traumatic brain injury was

10.7%, just seen in severe patients. Patients with secondary hypothyroidism increases the risk of hospital
* Hội Nội tiết và Đái tháo đường Việt Nam
** Khoa Nội tiết Bệnh viện Chợ Rẫy
Tác giả liên lạc: BS. Phan Hữu Hên,
ĐT: 0972 176 679, Email:

46

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012

Nghiên cứu Y học

mortality.
Key words: Traumatic brain injury, secondary hypothyroidism, mortality

ĐẶT VẤN ĐỀ


ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Cho đến nay, chấn thương sọ não được xem
là nguyên nhân của suy tuyến yên. Tỉ suất suy
tuyến yên sau chấn thương sọ não không còn
hiếm gặp với tần suất khá cao(2, 3). Năm 2000,
một nghiên cứu hồi cứu gồm 367 bệnh nhân bị
suy tuyến yên sau chấn thương sọ não(3). Năm
2005, Hiệp hội các khoa y, nội tiết ở các trường
đại học châu Âu và Mỹ đã có khuyến cáo đo
hormone tuyến yên trong giai đoạn cấp của
chấn thương sọ não vào buổi sáng, bao gồm
cortisol, TSH, fT4, IGF1, FSH, LH, testosterone
(nam) và estradiol (nữ), PRL ở tất cả bệnh nhân
có mức độ nặng và trung bình(6). Nghiên cứu
của tác giả Fatih Tanriverdi năm 2006 cho thấy tỉ
lệ thiếu hụt hoc mon ACTH, FSH/LH, TSH trong
giai đoạn cấp của chấn thương sọ não lần lượt là
9,8%, 41,6%, 5,8%; và tỉ lệ này trong 12 tháng
theo dõi là 19,2%, 7,7%, 5,8%(10). Suy tuyến yên là
một biến chứng thường gặp của chấn thương sọ
não, tần suất ít nhất 25%(2). Tại Việt Nam, chấn
thương sọ não được xem là một trong những
nguyên nhân gây tử vong nhiều nhất chưa kể
các gánh nặng của gia đình, xã hội về khía cạnh
kinh tế, y tế…Các nghiên cứu khảo sát chức
năng tuyến yên và đặc biệt chức năng tuyến
giáp trong giai đoạn cấp chấn thương sọ não
chưa được thực hiện tại Việt Nam. Việc thiếu
hụt TSH có thể ảnh hưởng đến dự hậu của bệnh

nhân, do đó chúng tôi tiến hành nghiên cứu này
nhằm trả lời câu hỏi: tần suất suy giáp thứ phát,
các yếu tố liên quan đến suy giáp thứ phát ở
bệnh nhân chấn thương sọ não giai đoạn cấp và
qua đó góp phần điều trị bổ sung hormone cho
bệnh nhân.

Tiêu chuẩn chọn bệnh

Mục tiêu
Xác định tần suất suy giáp thứ phát và các
yếu tố liên quan đến suy giáp thứ phát ở bệnh
nhân chấn thương sọ não giai đoạn cấp.

Bệnh nhân chấn thương sọ não giai đoạn
cấp có điểm Glasgow Coma Scale lúc nhập viện
< 13 điểm và có tổn thương não trên CT scan sọ.

Tiêu chuẩn loại trừ
Bệnh nhân có tiền căn suy tuyến yên hay
suy giáp nguyên phát.

Phương pháp
Mô tả cắt ngang. Bệnh nhân được chọn
thuận tiện, liên tục. Mỗi bệnh nhân được đo một
mẫu TSH, fT4 máu lúc 8 giờ sáng trong vòng 1
tuần sau nhập viện ngoài các xét nghiệm, cận
lâm sàng cần thiết khác. Thời gian thực hiện từ
tháng 04/2011 – 10/2011 tại khoa Hồi sức Ngoại
thần kinh – Bệnh viện Chợ Rẫy.


Xét nghiệm
Được thực hiện tại Khoa Sinh Hóa – Bệnh
viện Chợ Rẫy
TSH: Đo bằng máy Evidance, phương pháp
miễn dịch hoá phát quang (chemiluminescent
immunoassay). Test kit là Cat. No EV 3528 do
hãng Randox sản xuất. Giá trị bình thường: 0,4 –
4 mU/ml.
FT4: Đo bằng máy Evidance, phương pháp
miễn dịch hoá phát quang (chemiluminescent
immunoassay). Test kit là Cat. No EV 3528 do
hãng Randox sản xuất. Giá trị bình thường: 0,8 –
2 ng/ml.

Định nghĩa biến số
Độ nặng của chấn thương sọ não dựa vào
thang điểm Glasgow lúc vào viện, được chia
thành hai mức độ trung bình (9-13 điểm) đến
nặng (3-8 điểm).
Suy giáp thứ phát được xác định khi fT4 <
8pg/ml và TSH bình thường hoặc thấp.
Thống kê: Số liệu được xử lý bằng phần
mềm R 2.10.1. Các biến định tính được trình bày

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012

47



Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012

dưới dạng tỉ lệ, phần trăm. Các biến số định
lượng có phân phối chuẩn được trình bày dưới
dạng trung bình ± độ lệch chuẩn; các biến định
lượng không có phân phối chuẩn được trình
bày dưới dạng trung vị (khoảng tứ vị). Kiểm
định mối tương quan giữa các biến định tính
bằng phép kiểm Chi bình phương (có hiệu
chỉnh theo Exact’s Fisher). Kiểm định sự khác
biệt giữa hai biến định lượng có phân phối
chuẩn bằng phép kiểm T test, hai biến không có

Đặc điểm
Thành phố

Số lượng (n = 112) Phần trăm
18
16,1%
Nghề nghiệp
Buôn bán
9
8,0%
Nông dân
35
31,2%
Học sinh – sinh viên
31

27,7%
Công nhân – công chức
23
20,5%
khác
14
12,5%
Nguyên nhân CTSN
Tai nạn giao thông
100
89,3%
Tai nạn lao động
3
2,7%
Tai nạn sinh hoạt
9
8,0%
Mổ cấp cứu
49
43,8%

phân phối chuẩn bằng phép kiểm Mann

Nhận xét: đa số đối tượng nghiên cứu là

Whitney. Mọi sự khác biệt được xem là có ý

nam giới (chiếm tỉ lệ 88,6%), địa chỉ ở tỉnh

nghĩa thống kê khi p < 0,05; với khoảng tin cậy


(83,9%). Nông dân, học sinh - sinh viên, công

95%

nhân – công chức chiếm lần lượt là 32,1%,

KẾT QUẢ

27,7% và 20,5%. Có 49 trường hợp được mổ

Qua nghiên cứu 112 trường hợp chấn

cấp cứu, chiếm tỉ lệ 43,9%.

thương sọ não trong giai đoạn cấp tại bệnh viện

Đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng

Chợ Rẫy, chúng tôi ghi nhận có 12 bệnh nhân bị

Các đặc điểm lâm sàng
Bảng 3: Các đặc điểm lâm sàng

suy giáp thứ phát (chiếm tỉ lệ 10,7%). Sau đây là
các đặc điểm của nghiên cứu:

Đặc điểm chung
Tỉ lệ suy giáp thứ phát
Bảng 1: Tỉ lệ suy giáp thứ phát

Glasgow < 9
điểm (n=88)

9 – 13
điểm
(n=24)
0

Chung
(n=112)

Đặc điểm
Giá trị
Tuổi (năm)*
32,5 (22,0 – 48,7)
Điểm Glasgow lúc vào viện
6,9 ± 2,1
Thang điểm Marshall
4,1 ± 1,2
Thời gian nằm viện (ngày)*
17,0 (11,0 – 24,0)
Thời gian từ lúc chấn thương đến mổ 10,0 (6,0 – 12,0)
cấp cứu (giờ)*

(*)Biến được trình bày dưới dạng trung vị (khoảng tứ vị)

12 (10,7%)

Nhận xét: Tuổi trung bình là 32,5; điểm


Nhận xét: Có 12 trường hợp suy giáp, chiếm

Glasgow lúc vào viện là 6,9 ± 2,1; thang điểm

tỉ lệ 10,7%. 88 bệnh nhân có điểm Glasgow < 9

Marshall 4,1 ± 1,2; thời gian nằm viện trung bình

điểm, chiếm tỉ lệ 79%. Suy giáp thứ phát chỉ gặp

là 17 ngày; thời gian từ lúc chấn thương cho đến

ở nhóm bệnh nhân nặng, điểm Glasgow < 9

khi mổ cấp cứu (đối với những trường hợp có

điểm (13,6%)

mổ cấp cứu) là 10 giờ.

Các đặc điểm về địa dư, nghề nghiệp và nguyên
nhân chấn thương sọ não
Bảng 2: Đặc điểm về địa dư, nghề nghiệp và nguyên
nhân chấn thương sọ não

Các đặc điểm cận lâm sàng
Bảng 4: Các đặc điểm cận lâm sàng

Suy giáp thứ phát


Đặc điểm
Giới nam
Tỉnh

48

12 (13,6%)

Số lượng (n = 112) Phần trăm
97
86,6%
Địa chỉ
94
83,9%

Đặc điểm
Đường huyết (mg/dl)*
TSH*
fT4*

Giá trị
140,9 ± 45,9
0,64 (0,26 – 1,28)
11,4 (8,9 – 14,0)

(*)Biến được trình bày dưới dạng trung vị (khoảng tứ vị)

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012



Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012
Nhận xét: Đường huyết trung bình của mẫu
nghiên cứu 140,9 ± 45,9 mg/dl.

Các yếu tố liên quan đến suy giáp thứ phát
ở bệnh nhân chấn thương sọ não
Mối liên quan của các thương tổn trên CT scan
não
Bảng 5: Mối liên quan của các thương tổn trên CT
scan não
Giới

Không

Không

Không


Không

Không

Độ
Marshall

Không suy
Suy giáp
giáp
OR (95% KTC)

p
(n = 12)
(n = 100)
Dập, xuất huyết DMC hay trong não
9 (90%)
1 (10%)
1,09 (0,13 –
0,939
11
9,42)
91 (89,2%)
(10,8%)
XH ngoài màng cứng
46 (92%)
4 (8%)
1,70 (0,48 –
0,404
6,02)
54 (87,1%) 8 (12,9%)
Xuất huyết dưới nhện
22 (95,7%) 1 (4,3%)
3,10 (0,38 –
11
25,36)
78 (87,6%)
(12,4%)
Vỡ xương bướm
12
95 (88,8%)
(11,2%)

5 (100%)
0
Đường giữa lệch
40 (93%)
3 (7%)
2,0 (0,51 –
7,84)
60 (87%)
9 (13%)
4,1 ± 1,2

4,3 ± 1,4

1,13 (0,67 –
1,92)

0,268

-

0,336
0,644

Nhận xét: Tất cả các thương tổn trên CT scan
não như xuất huyết DMC – trong não hay ngoài
màng cứng, xuất huyết dưới nhện, vỡ xương
bướm, đường giữa di lệch đếu làm gia tăng
nguy cơ bị suy trục tuyến yên – tuyến giáp, tuy
nhiên không ghi nhận sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê.


Mối liên quan của giới, tuổi, độ nặng chấn
thương sọ não và đường huyết lúc nhập viện
Bảng 6: Mối liên quan của giới, tuổi, độ nặng chấn
thương sọ não và đường huyết lúc nhập viện
Giới

Nam

Không suy
Suy giáp
giáp
OR (95% KTC)
p
(n = 12)
(n = 100)
Giới
0,56 (0,07 – 0,586
86 (88,7%)
11

Giới

Nữ

Nghiên cứu Y học

Không suy
Suy giáp
giáp

OR (95% KTC)
p
(n = 12)
(n = 100)
(11,3%)
4,67)
14 (93,3%) 1 (6,7%)
Đường huyết
10
84 (89,4%)
(10,6%) 1,05 (0,21 –
0,935
5,25)
16 (88,9%) 2 (11,1%)

< 180
mg/dl

180mg/dl
Tuổi
31,0 (21,0 – 40,0 (23,0
(năm)*
48,0)
– 59,0)
Điểm
Glasgow

< 9 điểm
9 – 13
điểm


-

0,92
(0,73 – 1,15)
Phân loại Glasgow
12
76 (86,4%)
(13,6%)
24 (100%)
0
6,9 ± 2,1

6,5 ± 2,2

0,093
0,465

-

(*) Biến được trình bày dưới dạng trung vị (khoảng tứ vị),
Mann Whitney test

Nhận xét: Đường huyết lúc vào viện ≥
180mg/dl làm tăng nguy cơ suy giáp 5%, tuy
nhiên không có ý nghĩa thống kê. Tất cả 12
trường hợp suy giáp đều gặp ở bệnh nhân có
điểm Glasgow lúc vào viện < 9 điểm, khi
Glasgow nhiều hơn 1 điểm sẽ làm giảm nguy cơ
suy giáp 8% tuy nhiên không có ý nghĩa thống

kê.

Mối liên quan giữa suy giáp thứ phát và kết
quả điều trị
Bảng 7: Liên quan giữa suy giáp thứ phát và kết quả
điều trị

Không

Sống
(n = 92)
85 (85%)

Tử vong
(n = 20)
15 (15%)



7 (58,3%)

5 (41,7%)

Suy giáp

OR
(95% KTC)
4,05
(1,13 –
14,44)


p
0,038

Nhận xét: Có 5 trường hợp suy giáp tử vong
(chiếm 41,7%). Bệnh nhân có suy giáp sẽ làm gia
tăng nguy cơ tử vong 4 lần (p = 0,038).

BÀN LUẬN
Tuyến yên có thể bị tổn thương nhiều mức
độ khác nhau khi bị chấn thương sọ não, có thể
tác động trực tiếp đến tuyến yên, cuống tuyến
yên hay gián tiếp thông qua co thắt các mạch
máu gây thiếu máu nuôi tuyến yên. Tổn thương

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012

49


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012

tuyến yên trong lúc bị chấn thương đầu hay
trong lúc phẫu thuật sẽ có nguy cơ suy tuyến
yên trước hay tuyến yên sau(8).
Cho đến nay, chấn thương sọ não được xem
là nguyên nhân của suy tuyến yên. Tỉ suất suy
tuyến yên sau chấn thương sọ não không còn

hiếm gặp với tần suất khá cao(2),(3). Năm 2000,
một nghiên cứu hồi cứu gồm 367 bệnh nhân bị
suy tuyến yên sau chấn thương sọ não(3). Suy
tuyến yên là một biến chứng thường gặp của
chấn thương sọ não, tần suất ít nhất 25%(2).
Năm 2005, Hiệp hội các khoa y, nội tiết ở các
trường đại học châu Âu và Mỹ đã có khuyến
cáo đo hormone tuyến yên trong giai đoạn cấp
của chấn thương sọ não vào buổi sáng, bao gồm
cortisol, TSH, fT4, IGF1, FSH, LH, testosterone
(nam) và estradiol (nữ), PRL ở tất cả bệnh nhân
có mức độ nặng và trung bình(6). Trong số các
hormone tuyến yên, việc thiếu hụt hormone
tuyến giáp trong giai đoạn cấp chấn thương sọ
não được xem là quan trọng, có thể làm chậm
qua trình hồi phục bệnh, cơ thể đáp ứng kém về
mặt chuyển hóa trong giai đoạn bệnh nặng
thậm chí đe dọa mạng sống người bệnh(6).
Trong nghiên cứu của chúng tôi, có 12
trường hợp suy giáp, chiếm tỉ lệ 10,7%. Có 88
bệnh nhân có điểm Glasgow < 9 điểm, chiếm tỉ
lệ 79%. Suy giáp thứ phát chỉ gặp ở nhóm bệnh
nhân nặng, điểm Glasgow < 9 điểm (13,6%). Tác
giả Fatih Tanriverdi(9) đo hormone tuyến yên
trên 104 bệnh nhân chấn thương sọ não trong
vòng 24 giờ sau nhập viện, tỉ lệ tử vong là 19%,
suy giáp thứ phát 3,8%. Một nghiên cứu khác
của tác giả Fatih Tanriverdi(10) năm 2006, khảo
sát chức năng tuyến yên trên 52 bệnh nhân chấn
thương sọ não trong giai đoạn cấp (24 giờ sau

nhập viện) và 12 tháng sau đó. Kết quả tỉ lệ suy
giáp thứ phát trong gia đoạn cấp là 5,8%.
Nghiên cứu này khác với nghiên cứu chúng tôi
về đặc điểm dân số nghiên cứu: Trong nghiên
cứu chúng tôi có đến 88/112 bệnh nhân mức độ
nặng (tỉ lệ 78,6%) và tất cả 12 trường hợp suy
giáp đều là những bệnh nhân có mức độ nặng.

50

Nghiên cứu trên có nhiều bệnh nhân mức độ
nhẹ 31/52 (60%), mức độ nặng 13/52 (25%).
Về mặt sinh lý, bệnh nặng hay chấn thương
cấp gây nên những thay đổi hoc mon giáp trong
vòng vài giờ. Mặc dù TSH thường vẫn còn bình
thường, nồng độ T4 trong máu tuần hoàn có thể
giảm hay bình thường, trong khi T3 giảm
nhanh, chủ yếu là do sự giảm sự chuyển T4
thành T3. Những thay đổi này phù hợp với hội
chứng T3 thấp. Khi bệnh nhân hồi phục, hoc
mon giáp trở lại bình thường rất chậm sau nhiều
tuần(5). Ở những bệnh nhân chấn thương đầu,
nồng độ TSH thấp hơn có thể hiện diện trong
giai đoạn sớm sau chấn thương, gợi ý sự giảm
sản xuất hoc mon giáp do nguyên nhân trung
ương. Một đánh giá gần đây trên 50 bệnh nhân(1)
ở giai đoạn cấp sau chấn thương sọ não cho
thấy suy giáp trung ương gặp ở 1 bệnh nhân
(5%).
Về mặt bệnh lý, nồng độ T4 thấp hơn giá trị

bình thường kết hợp với nồng độ TSH không
tăng chứng tỏ có tình trạng giảm tiết TSH từ
tuyến yên hay suy giáp thứ phát. Giảm TSH ở
bệnh nhân chấn thương sọ não được đánh giá
bằng nồng độ hoc mon tĩnh hoặc xét nghiệm
kích thích bằng TRH(7). Tuy nhiên gần đây việc
đánh giá bằng nghiệm pháp động TRH không
còn được thực hiện nữa vì kết quả không tin cậy
trong giai đoạn cấp chấn thương sọ não, hơn
nữa các phương pháp đo siêu nhạy TSH hiện
nay đã đủ để chẩn đoán(6). Những nghiên cứu
trước đây cho thấy tỉ lệ thiếu hụt TSH rất cao
trong số những bệnh nhân chấn thương sọ não,
chứng tỏ rằng chấn thương sọ não là một
nguyên nhân quan trọng của suy giáp trung
ương không giải thích được với những nguyên
nhân khác.
Xét các yếu tố liên quan đến suy giáp thứ
phát, nghiên cứu của chúng tôi chưa tìm được
mối liên quan có ý nghĩa thống kê với các tổn
thương não trên CT scan. Các mối liên hệ khác,
nam giới có nguy cơ bị suy giáp nhiều hơn nữ,
đường huyết lúc nhập viện ≥ 180mg/dl làm tăng
5% nguy cơ suy giáp, bệnh càng nặng (Glasgow

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012
càng thấp) càng làm tăng nguy cơ. Tuy nhiên tất

cả các mối liên hệ đều không có ý nghĩa thống
kê. Có thể cỡ mẫu nghiên cứu chưa đủ lớn để
thấy sự khác biệt. Riêng yếu tố mức độ nặng của
bệnh, thì tất cả 12 bệnh nhân tử vong đều thuộc
mức độ nặng (Glasgow < 9 điểm), không có
trường hợp nào thuộc mức độ trung bình
(Glasgow 9 – 13 điểm). Do đó có thể thấy bệnh
nhân bị suy giáp thứ phát chỉ gặp ở bệnh nhân
mức độ nặng.
Về mối liên quan giữa suy giáp thứ phát và
tử vong trong thời gian nằm viện, chúng tôi
nhận thấy có 5 trường hợp suy giáp thứ phát tử
vong (chiếm 41,7%). Bệnh nhân có suy giáp sẽ
làm gia tăng nguy cơ tử vong 4 lần (p = 0,038).
Hoạt động của tuyến yên là cơ chế bảo vệ quan
trọng trong giai đoạn cấp sau chấn thương sọ
não, đặc biệt là trục hạ đồi - tuyến yên - thượng
thận, tuyến giáp. Rối loạn các trục này có thể đe
dọa tính mạng người bệnh. Do đó khi xác định
được bệnh nhân thiếu hụt TSH cần bù hormone
ngay(6). Trong thời gian nghiên cứu, chúng tôi
đã bù hormone giáp ngay khi có kết quả xét
nghiệm cho thấy thiết hụt TSH trừ những bệnh
nhân quá nặng, chết trước khi có kết quả.

2.

3.

4.


5.

6.

7.

8.

9.

10.

Nghiên cứu Y học

acute phase of traumatic brain injury”, Clinical Endocrinology
60: 584–591.
Agha, C.J. Thompson (2006), “Anterior pituitary dysfunction
following traumatic brain injury (TBI)”, Clin Endocrinol (Oxf) 64
(5) 481- 488.
Benvenga, A. Campenni, R.M. Ruggeri, F. Trimarchi (2000),
“Clinical review 113: Hypopituitarism secondary to head
trauma”, J Clin Endocrinol Metab 85 (4) 1353-1361.
Bondanelli M, De Marinis L, Ambrosio MR, Monesi M, Valle D,
Zatelli MC (2004), “Occurrence of pituitary dysfunction
following traumatic brain injury”, Journal of Neurotrauma
21:685–696.
Chiolero RL, Lemarchand-Beraud T, Schutz Y, de Tribolet
N,Bayer-Berger M & Freeman J (1988), “ Thyroid function in
severely traumatized patients with or without head injury”, Acta

Endocrinologica (Copenhagen) 117: 80–86.
Ghigo E, Masel B. (2005), “Consensus guidelines on screening
for hypopituitarism following traumatic brain injury”, Brain
Injury; 19(9): 711–724.
Kelly DF, Gonzalo IT, Cohan P, Berman N, Swerdloff R & Wang
C (2000), “Hypopituitarism following traumatic brain injury and
aneurismal subarachnoid hemorrage: a preliminary report”,
Journal of Neurosurgery 93: 743–752.
Kronenberg (2008), “Williams textbook of endocrinology, 11th
ed”, Saunders, an imprint of elsevier, Chapter 8 – anterior
pituitary, pp,512 – 560.
Tanriverdi F, halil ulutabanca (2007), “Pituitary functions in the
acute phase of traumatic brain injury: Are they related to
severity of the injury or mortality?”, Brain Injury 21(4): 433–439.
Tanriverdi F, Hakan Senyurek (2006), “High Risk of
Hypopituitarism after Traumatic Brain Injury: A Prospective
Investigation of Anterior Pituitary Function in the Acute Phase
and 12 Months after Traumatic”, J. Clin. Endocrinol. Metab.
91:2105-2111.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Agha A, Rogers B, Mylotte D, Taleb F, Tormey W, Phillips J &
Thompson CJ (2004), “Neuroendocrine dysqfunction in the

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012

51




×