Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Phẫu thuật cắt khối tá tụy cho bệnh lý đầu tụy và quanh nhú vater tại bệnh viện Chợ Rẫy trong 6 năm (1997-2003): 101 trường hợp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (199.49 KB, 6 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 3 * 2004

Nghiên cứu Y học

PHẪU THUẬT CẮT KHỐI TÁ TỤY CHO BỆNH LÝ ĐẦU TỤY
VÀ QUANH NHÚ VATER TẠI BỆNH VIỆN CH RẪY
TRONG 6 NĂM (1997-2003): 101 TRƯỜNG HP
Nguyễn Minh Hải*, Lâm Việt Trung*, Hồ Só Minh*, Đoàn Tiến Mỹ*, Hồ Cao Vũ*

TÓM TẮT
Mục đích: Đánh giá kết quả sớm của phẫu thuật cắt khối tá tụy tại khoa ngoại tổng quát bệnh viện Chợ
Rẫy. Phương pháp: Nghiên cứu hồi cứu trên 101 bệnh nhân có bệnh lý vùng đầu tụy và quanh bóng Vater
được phẫu thuật cắt bỏ khối tá tụy trong 6 năm (1997-2003). Đánh giá và phân tích kết quả tỉ lệ tử vong và
biến chứng sớm của phẫu thuật. Kết quả: Tỉ lệ tử vong chung sau mổ ở 10/101 (9,9%) bệnh nhân, nhưng trong
đó tỉ lệ tử vong liên quan tới biến chứng phẫu thuật như xì rò miệng nối chỉ ở 3 bệnh nhân (2.9%) (1 rò tụy, 1
rò mật và 1 rò miệng nối dạ dày-hỗng tràng), 1 bệnh nhân tử vong do tai biến phẫu thuật, 6 bệnh nhân khác
chết do các nguyên nhân như suy gan và suy thận(3), tim mạch(1), khác(2). Tỉ lệ biến chứng lớn chung ở 32 bệnh
nhân (31%) đòi hỏi phải mổ lại ở 5 bệnh nhân. Rò miệng nối tụy 8 (7,9%): chỉ có 1 bệnh nhân phải mổ lại có
kết quả tốt, 6 bệnh nhân điều trò nội ổn đònh và 1 tử vong (0,9%); rò mật 5 (4.9%); rò dạdày-ruột 4 (3,9%);
chảy máu tiêu hóa 3 (2,9 %); chảy máu ở trường mổ qua dẫn lưu 5 (4,9%). Đánh giá qua 2 thời kỳ 1997-2001
và 2002-2003 cho thấy tỉ lệ tử vong và biến chứng ở thời kỳ sau giảm nhiều so với thời kỳ đầu lần lượt là 6,8%
và 27,5% so với 11% và 32%. Kết luận: Rò miệng nối tụy không còn là biến chứng đáng sợ dẫn tới tỉ lệ tử vong
cao sau phẫu thuật cắt khối tá tụy và hiếm khi phải can thiệp lại phẫu thuật như trước đây. Những tiến bộ về
kỹ thuật phẫu thuật, thuốc octreotide và chăm sóc sau mổ dường như đã góp phần làm giảm tỉ lệ tử vong và
biến chứng của phẫu thuật này.

SUMMARY
PANCREATODUODENECTOMY FOR DISEASES OF THE HEAD OF PANCREAS AND
PERIAMPULLA AT CHORAY HOSPITAL IN 6 YEARS (1997 – 2003): 101 CASES.
Nguyen Minh Hai, Lam Viet Trung, Ho Si Minh, Doan Tien My, Ho Cao Vu
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 8 * Supplement of No 3 * 2004: 113 - 118



Background: The study aimed at evaluating short-term outcomes of Whipple procedure in patients with
diseases of the head of pancreas and periampullary area. Methods: Between April 1997 and October 2003,101
patients with diseases of the head of pancreas and periampullary area underwent pancreaticoduodenectomy
at the General Surgery Department, Cho Ray hospital, were analyzed. Results: The overall perioperative
mortality rate was 9,9% (10/101), but it was only 2.9% (3/101) for pancreatic, gastro-jejunostomy and biliary
fistula. The other six patients were death because of hepatic failure, renal failure and cardiac complications.
The overall perioperative morbidity rate was 32% required relaparotomy in 5 patients. Among those,
pancreatic fistula was 7,9%, biliary fistula 4.9%, gastrojejunal anstomotic leak 3,9%, Digestive bleeding 2,9%
and bleeding from operating field 4,9%. Compared with the period of 1997 – 2001, the mortality and morbidity
reduced from 11% to 6.8% and 32% to 27.5% respectively during 2002 – 2003. Conclusions: Pancreatic fistula
was not major terrible problem with high mortality after Whipple procedure and rarely required re-laparotomy
as before. It might be argued that better preoperative preparation, intensive postoperative care and major
* BV. Chợ Rẫy

Chuyên đề Bệnh lý & Chấn thương Tá - Tụy

113


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 3 * 2004

progresses in surgical techniques and introduction of octreotide lead to the favorable results of Whipple
procedure.
trường hợp cắt ½ đại tràng phải kèm theo do ung thư
ĐẶT VẤN ĐỀ
tá tràng D2-D3 xâm lấn vào đại tràng góc gan. Kỹ
Phẫu thuật cắt khối tá tụy đã có nhiều cải thiện

thuật mổ nạo hạch triệt để cũng như nghiên cứu
trong một thập niên gần đây về tỉ lệ tử vong và biến
trước đây của chúng tôi(5). Bảo tồn môn vò được chỉ
chứng. Theo nhiều nghiên cứu trong thập niên 90
đònh cho những trường hợp u bóng Vater và một số
cho thấy tỉ lệ tử vong sau mổ gặp từ 0% tới 15% (8). Ở
trường hợp u nhỏ ở đầu tụy. Chúng tôi không chẩn
những trung tâm lớn chuyên phẫu thuật về tụy tỉ lệ
đoán chính xác viêm tụy mạn trước mổ trong 4
này < 5 % (3,8,9). Rò tụy không còn là biến chứng
trường hợp.
đáng sợ nhất sau phẫu thuật dẫn tới tử vong như
Sau khi cắt khối tá tụy, nối tụy-dạ dày ở 16 bệnh
trước đây nhưng vẫn là biến chứng thường găp từ 3%
nhân và nối tụy-ruột ở 85 bệnh nhân, trong đó nối
tới 28%. Theo một nghiên cứu trước đây của chúng
tụy-ruột kiểu tận bên là 62 và tận tận là 23 (bảng 1).
tôi ở 72 bệnh nhân thì tỉ lệ tử vong là 11% và tỉ lệ
Trong phương pháp nối kiểu tận tận chúng tôi
biến chứng chung là 32%. Trong thời gian gần đây,
thường dùng phương pháp khâu lồng tụy vào trong
phẫu thuật cắt khối tá tụy đã được thực hiện ở một
lòng ruột khoảng 2 cm. Trong nghiên cứu tiền cứu so
vài bệnh viện tỉnh trong cả nước ngoài những trung
sánh trước đây của chúng tôi về nối tụy-dạ dày và nối
tâm Y khoa lớn ở thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội
tụy-ruột trên 34 bệnh nhân cho thấy không có sự
đã thực hiện thường qui. Mục đích của nghiên cứu
khác biệt về tỉ lệ rò miệng nối tụy giữa 2 phương
này nhằm đánh giá kết quả sớm của phẫu thuật cắt

pháp nên trong giai đoạn sau chúng tôi chỉ thực hiện
khối tá tụy tại khoa ngoại tổng quát bệnh viện Chợ
nối tụy-ruột(4).
Rẫy trong thời gian 6 năm (1997-2003) tiếp theo
Bảng 1: Phương pháp nối mỏm t còn lại
những nghiên cứu trước đây đã báo cáo kết quả ban
đầu.

SỐ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
101 bệnh nhân có tuổi từ 17 tới 81 đã được cắt
khối tá tụy trong thời gian 1997-2003 tại khoa ngoại
tổng quát Bệnh viện Chợ Rẫy, trong đó:
+ Ung thư đầu tụy: 36
+ Ung thư vater: 55
+ Ung thư tá tràng D2&D3: 7
+ Viêm tụy mãn: 4
+ Ung thư đoạn cuối ống mật chủ: 1
Dấu hiệu vàng da gặp ở 71(70,3%) bệnh nhân và
không vàng da ở 30 (29,7%) bệnh nhân. Những
trường hợp không vàng da gặp ở u móc tụy, u tá tràng
D2, D3. U bóng vater thường gây vàng da sớm ở hầu
hết các bệnh nhân.
Phẫu thuật Whipple cổ điển thực hiện ở 48 bệnh
nhân, bảo tồn môn vò: 53, nạo hạch triệt để: 36. Có 3

114

Phương
pháp nối
Tụy-dạ dày

Tụy-ruột

Số BN

Tận-bên

Tận-tận

16
85

16
61

0
24

Đặt stent
ống tụy*
4
44

* Chúng tôi thường đặt stent ống tụy khi ống t
không giãn, kích thước < 4 ly.Trong các trường hợp
đặt stent ống tụy có 4 trường hợp ống được đưa ra
ngoài thành bụng, còn các trường hợp khác ống để
trong lòng ruột một đoạn khoảng 3cm và được khâu
cố đònh bằng chỉ chromic 3/0. Trong một số trường
hợp nối tụy-ruột bên bên, khi ống tụy giãn, chúng tôi
chỉ nối ống tụy với ruột. Tất cả các miệng nối tụy,

mật, dạ dày thực hiện trên 1 quai ruột hoặc kiểu Roux
en Y. Khi thực hiện miệng nối mật-ruột chúng tôi đã
đặt stent qua miệng nối và cố đònh ngoài thành bụng
trong 4 trường hợp vì ống mật chủ < 0.5 cm và
thành rất mỏng.


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 3 * 2004
KẾT QUẢ
Bảng 2: Tỉ lệ tử vong và biến chứng sớm sau mổ liên
quan tới phẫu thuật
Biến chứng

số
Hướng điều trò Tư ûvong
ca(%) Mổ lại Điều trò nội (%)
Rò Tụy
8(7,9%) 1
7
1
Rò mật
5(4.9%) 2
3
1
Bục miệng nối DD-ruột 4(3,9%) 1
0
1
Chảy máu tiêu hóa 3(2,9%) 0
3
0

Chảy máu qua dẫn lưu 5(4,9%) 1
4
0
Rò miệng nối Roux en 1(0,9%) 0
1
0
Y
Hoại tử ruột non
1(0,9%) 1
0
1
Tổng số
27(26,7 4(3,9% 18(17,9%) 4(3,9%)
%)
)

Tỉ lệ biến chứng chung liên quan tới phẫu thuật
Whipple là 26,7% và tỉ lệ tử vong do xì rò miệng nối là
3 ca (2.9%), trong đó rò tụy ở 1 ca, rò mật 1 ca và rò
miệng nối dạ dày-ruột-1. Trong 2 trường hợp rò mật
có 1 ca bục miệng nối ống mật chủ-ruột non ngay
ngày thứ 2 sau mổ khả năng do khi khâu đã cứa đứt
thành ống mật chủ nhưng ống dẫn lưu không ra dòch
mật dẫn tới viêm phúc mạc toàn thể. Bệnh nhân này
tử vong sau mổ lần 2. Bệnh nhân thứ 2 rò mật vào
ngày thứ 7 sau mổ đã được mổ lại đặt kehr qua miệng
nối và khâu lại chỗ xì, bệnh nhân xuất viện ổn đònh. 1
bệnh nhân hoại tử ruột non do trong khi mổ nạo
hạch cạnh động mạch mạc treo tràng trên phẫu
thuật viên làm tổn thương 1 phần động mạch này.

Trong 8 trường hợp rò tụy, 6 ca tổ chức tụy mềm và
dễ rách khi khâu.
Bảng 3: Tỉ lệ biến chứng rò tụy và phương pháp nối
Phương pháp nối Số ca
Tụy-dạ dày
16
Tụy-ruột
85
Tận-bên
61
Tận-tận
24

Rò tụy
1 (6,2%)
7 (8,2%)
6 (9,8%)
1 (4,1%)

Mổ lại
0
1
0
1

Tử vong
1
0
0
0


Trong số 8 trường hợp rò tụy, có 1 trường hợp rò
miệng nối tụy-dạ dày nhưng không gây viêm phúc
mạc, được điều trò bảo tồn, bệnh nhân tử vong ngày
thứ 20 sau mổ do chảy máu và tình trạng suy kiệt. 7
trường hợp còn lại đều gặp ở kiểu nối tụy-ruột trong
đó nối tận bên-6 và tận tận-1. Các trường hợp rò
miệng nối tụy-ruột tận bên đều rò với lưu lượng thấp

Chuyên đề Bệnh lý & Chấn thương Tá - Tụy

Nghiên cứu Y học

qua ống dẫn lưu đặt cạnh miệng nối: 50-100 ml/
ngày được điều trò nội khoa ổn đònh. 1 trường hợp rò
miệng nối tụy-ruột tận tận mổ lại ngày thứ 32 sau mổ
do rò kéo dài qua vết mổ và điều trò nội khoa thất bại.
Bảng 4: Những biến chứng khác của phẫu thuật dẫn
tới tử vong không liên quan tới miệng nối
Biến chứng
Suy thận
Suy gan
HC gan thận
Tim mạch
Không rõ nguyên nhân
Tổng số

Tử vong
1(0,9%)
1

1
1
2(1.8%)
6(5,9%)

Nhóm bệnh nhân chết do tình trạng suy gan,
thận và tim mạch chỉ gặp trong thời gian từ năm
1997-2001. Giai đoạn 2002-2003 không có ca nào tử
vong do các biến chứng này. Tỉ lệ tử vong chung là
10/101 (9,9%) trường hợp.
Nạo hạch triệt để ở 36 bệnh nhân bao gồm lấy
các hạch từ cuống gan, động mạch gan chung, thân
tạng, quanh động tónh mạch chủ, động mạch mạc
treo tràng trên và cuống thận phải thành một khối
cùng với khối tá tụy. Di căn hạch gặp ở 14 trường hợp
(38,8%). Di căn hạch gặp nhiều ở nhóm hạch sau tụy,
quanh động mạch mạc treo tràng trên, quanh động
mạch chủ.

BÀN LUẬN
Tỉ lệ tử vong và biến chứng chung
Theo một thăm dò ở 4622 ca cắt khối tá tụy trong
2 thập niên (1960-1983), tỉ lệ tử vong trung bình là
17.7%(9). Trong thời kỳ 1960-1970 tỉ lệ tử vong từ 20
tới 40% và tỉ lệ biến chứng từ 40-60% đã khiến cho
nhiều tác giả khuyên nên quên đi phẫu thuật này(2).
Trong vòng 10 năm gần đây tỉ lệ tử vong đã giảm
đáng kể < 5% ở nhiều trung tâm, nhưng tỉ lệ biến
chứng sau mổ vẫn còn cao từ 30% tới 50%(2, 8, 9).
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỉ lệ tử vong chung

là 10/101 (9,9%) trường hợp nhưng chỉ có 3/101
(2,9%) các trường hợp tử vong liên quan tới phẫu
thuật như xì rò miệng nối. 6 ca (5,9%) tử vong sau
mổ do các biến chứng chung như suy gan thận, bệnh
lý tim mạch trong thời kỳ 1997-2001(7). Trong giai

115


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 3 * 2004

đoạn sau 2002-2003 chúng tôi không gặp trường hợp
nào. Điều đó chứng tỏ rằng sự lưa chọn bệnh để tiến
hành phẫu thuật cắt khối tá tụy đã tốt hơn. Theo
những nghiên cứu gần đây về các chỉ số nguy cơ, các
tác giả đưa ra các chỉ số như: khối u ác tính,
Hematocrit<30%, Albumin<30g/l, Creatinine>130
μmol/l, Bun>= 20mg/l và bilirubin > 200 μmol/l. Tỉ
lệ tử vong liên quan tới số lượng các yếu tố nguy cơ:
0-2 yếu tố, tử vong 0%, 3 yếu tố-4%, 4 yếu tố-7%, 5
yếu tố-44%, 6 yếu tố-67%, 8 yếu tố-100%. Theo
nghiên cứu trước đây của chúng tôi cho thấy bệnh
nhân có tắc mật gặp biến chứng nhiều hơn so với
bệnh nhân không có tắc mật (38% so với 11.8%) và
dường như khi tình trạng tắc mật với billirubin > 20

mg%, tỉ lệ tử vong và biến chứng gặp gần gấp đôi
(50%) so với khi billirubin <20 mg % (25%)(7). Theo

chúng tôi, khi bilirubin > 20 mg % nên dẫn lưu
đường mật trước mổ. Trong 6 bệnh nhân tử vong
không liên quan tới xì rò miệng nối thì 5 bệnh nhân
có bilirubin > 20 mg %. Vấn đề này còn nhiều bàn
luận trên y văn. Rạch cơ thắt oddi trước mổ qua nội
soi đường tiêu hóa ở những trường hợp tắc mật được
sử dụng nhiều trong thời gian gần đây cho thấy có
hiệu quả cao. Trong thời kỳ 2001-2003 chúng tôi chỉ
mổ những bệnh nhân có billirubin < 20 mg %, 15
bệnh nhân được dẫn đường mật trước mổ qua ERCP.
Tỉ lệ biến chứng chảy máu và biến chứng toàn thân
thấp hơn nhiều so với giai đoạn 1997-2001.

Biểu đồ: Biến chứng chảy máu sau mổ và biến chứng toàn thân qua 2 thời kỳ:ø
10
8
chảy máu

6
4

toàn thân

2
0
1997-2001

2002-2003

Rõ ràng là chỉ đònh phẫu thuật cắt khối tá tụy

chặt chẽ hơn, chuẩn bò bệnh nhân trước mổ tốt hơn
cũng như những tiến bộ về kỹ năng phẫu thuật đã
làm giảm tỉ lệ tử vong và biến chứng so với thời kỳ
1960-1980 ở hầu hết các nghiên cứu.
Rò miệng nối tụy và tử vong
Biến chứng đáng sợ nhất trong phẫu thuật cắt
khối tá tụy là xì miệng nối tụy, đồng thời cũng là
nguyên nhân chính gây tử vong. Miệng nối tụy được
coi là “Gót chân Achille của phẫu thuật Whipple”
trong suốt những thập niên 60 và 70(9). Rò miệng nối
tụy gặp từ 3% tới 53%, trong đó tử vong là từ 7% tới
80% các trường hợp rò(9). Chính vì vậy đã có nhiều cải
biên khi thực hiện miệng nối tụy như nối ống tụy với
niêm mạc ruột, đặt stent ống tụy, nối tụy-dạ dày.
Trong thời gian gần đây tỉ lệ rò tụy đã gỉam đáng kể

116

và hầu như có thể điều trò nội khoa thành công với
Octreotide(10). Trong 8 nghiên cứu bao gồm 1865
bệnh nhân ở thập niên 90 tỉ lệ rò tụy trung bình
13,5%(từ 6-25%) và là nguyên nhân tử vong ở 25%(11).
Thực hiện miệng nối tụy-dạ dày hay tụyruột?

Tỉ lệ rò miệng nối tụy của chúng tôi tương đối
thấp (7,9%) so với các tác giả khác. Trong 8 trường
hợp rò tụy này, chỉ có 1 trường hợp rò miệng nối tụydạ dày dẫn tới tử vong và 1 trường hợp rò miệng nối
tụy-ruột kiểu tận tận phải mổ lại vào ngày thứ 32 sau
khi điều trò nội khoa thất bại. 6 trường hợp còn lại đều
rò miệng nối tụy-ruột kiểu tận bên với cung lượng

thấp điều trò thành công với Sandostatin. Trong một
nghiên cứu tiền cứu so sánh trước đây của chúng tôi
trên 34 ca giữa nối tụy-dạ dày và tụy-ruột, chúng tôi
không thấy có sự khác biệt có ý nghóa giữa 2 phương


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 3 * 2004
pháp này (4), (10). Tuy nhiên rò miệng nối tụy-dạ
dày thì khả năng điều trò nội khoa khó hơn so với rò
miệng nối tụy-ruột. Nên mổ lại sớm vì tình trạng rò
dòch dạ dày có lưu lượng cao khó có thể kiểm soát
được. Trường hợp rò tụy-dạ dày của chúng tôi điều trò
nội khoa thất bại đã dẫn tới tử vong. Khi ống tụy
không giãn, nên đặt stent trong ống tụy. Nhiều
nghiên cứu khẳng đònh rằng rò tụy tăng cao có ý
nghóa thống kê ở bẹn
â h nhân có nguy cơ cao như: tuổi
trên 65, ống tụy không giãn, tụy mềm, mủn, lượng
máu mất trong mổ và kinh nghiệm của phẫu thuật
viên. Marcus (1995) gặp dò tụy ở nhóm này tới 36%,
trong khi đó ở nhóm nguy cơ thấp tỉ lệ dò tụy chỉ có
2%(12). Ở nhóm bệnh nhân nguy cơ thấp như tổ chức
tụy viêm xơ, chắc, ống tụy giãn tỉ lệ rò tụy thấp hơn
sau mổ(12). Những bệnh lý như viêm tụy mãn, ung
thư tụy được coi như là nhóm có nguy cơ thấp.
Chúng tôi cũng nhận thấy giống như Marcus là rò tụy
gặp nhiều hơn ở những bệnh nhân có tổ chức tụy
mềm, rễ rách khi khâu (6/8 trường hợp rò tụy).
Nối Tụy-ruột tận bên hay tận tận?


Vấn đề này vẫn còn nhiều bàn luận. Có một số
nghiên cứu cho rằng nối tụy-ruột tận bên an toàn ở
những bệnh nhân có nguy cơ thấp và nối tụy-ruột tận
tận kiểu lồng tụy vào lòng ruột là phương pháp an
toàn nhất ở nhóm bệnh nhân có nguy cơ cao(12).
Trong nghiên cứu của chúng tôi cho thấy nối tụy-ruột
tận tận kiểu lồng tụy có tỉ lệ rò tụy thấp hơn so với
nối tụy-ruột tận bên: 61 trường hợp nối tụy-ruột tận
bên có 6 ca rò (9,8%) với lưu lượng thấp chỉ cần điều
trò nội khoa. 24 trường hợp nối tận tận có 1 ca rò
(4,1%) phải mổ lại ngày thứ 32 (bảng 3). Vậy có nên
khâu nối tụy-ruột tận tận kiểu lồng mỏm tụy cho tất
cả các trường hợp?
Mỗi phương pháp có ưu nhược điểm riêng. Nối
tụy-ruột tận tận cần phải cầm máu mặt cắt tụy kỹ
bằng chỉ vì mặt cắt tụy tiếp xúc với các men của ruột
nên dễ dẫn tới chảy máu. Chúng tôi gặp 1 trường hợp
chảy máu mặt cắt tụy dẫn tới tử vong sau khi cắt tá
tụy do chấn thương vào ngày thứ 8, khi bệnh nhân đã
chuẩn bò xuất viện. Mặt khác, với những trường hợp
mỏm tụy còn lại lớn việc lồng mỏm tụy vào lòng ruột

Chuyên đề Bệnh lý & Chấn thương Tá - Tụy

Nghiên cứu Y học

gặp khó khăn. Nối tụy-ruột tận bên kiểu khâu ống tụy
với niêm mạc ruột hạn chế được những khuyết điểm
này và hầu như không có biến chứng chảy máu
miệng nối tụy-ruột. Tuy nhiên với ống tụy nhỏ, tụy

mềm, kỹ thuật khâu nối tương đối khó khăn. Khi rò
miệng nối tụy-ruột kiểu tận tận thì khả năng phải mổ
lại cao hơn so với nối tận bên. Chúng tôi đồng ý với
marcus rằng không có một phương pháp nối tụy nào
hoàn thiện cho tất cả các bệnh nhân. Phẫu thuật viên
về tụy cần biết kỹ về các kỹ thuật nối phù hợp với
tình trạng của nhu mô tụy. Khi mỏm tụy lớn, chúng
ta không thể lồng tụy vào lòng ruột được. Kinh
nghiệm cá nhân của chúng tôi cho thấy tổ chức tụy
chắc, xơ, ống tụy giãn thì kỹ thuật khâu nối dễ dàng
hơn và chắc chắn hơn. Tỉ lệ rò tụy ở những bệnh
nhân này cũng thấp hơn.

KEAT LUẬN
Rò miệng nối tụy không còn là biến chứng đáng
sợ dẫn tới tỉ lệ tử vong cao sau phẫu thuật cắt khối tá
tụy và hiếm khi phải can thiệp lại phẫu thuật như
trước đây. Những tiến bộ về kỹ thuật phẫu thuật,
thuốc octreotide và chăm sóc sau mổ dường như đã
góp phần làm giảm tỉ lệ tử vong và biến chứng của
phẫu thuật này.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

2.

3.

4.


5.

6.

7.

Bornman PC, Krige FEF, Surgical palliation of
pancreatic and periampullary tumors, Surgery of the
pancreas, Churchill Livingston, 1997, 533-550.
Cooperman AN M, Pancreatic and periampullary
carcinoma, Maingot’s abdominal operation, vol II,
Ninth edition, 1997, 1633-1671.
Howard
M,
Pancreatoduodenectomy
with
skeletonisation of vessels for cancers of the pancreas
and adjacent organs, Surgical diseases of the
pancreas, Williams & Wilkins, 1999, 529-556.
Nguyễn Hoàng Đònh, Nguyễn Minh Hải, và CS. So
sánh nối tụy vào dạ dày và nối tụy ruột non trong
phẫu thuật Whipple. Y học thành phố Hồ Chí 2002,
tập 6, phụ bản của số 2, 177-183.
Nguyễn Minh Hải, Nguyễn Hoàng Đònh, Bùi Văn
Ninh, Nạo hạch triệt để trong cắt khối tá tụy ở bệnh
nhân ung thư quanh bóng Vater,Y học thành phố Hồ
Chí 2002, tập 6, phụ bản của số 2, 163-168.
Nguyễn Minh Hải, Phạm Kim Hiếu, Tôn Thất Quỳnh
i, Nối tụy vào dạ dày trong phẫu thuật cắt khối tá

tụy, ngoại khoa 2000, 3, 17-20.
Nguyễn Minh Hải, Hồ Só Minh, Hồ Cao Vũ, Phẫu
thuật cắt khối tá tụy cho bệnh lý đầu tụy và quanh

117


Nghiên cứu Y học

8.

9.

10.

118

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 3 * 2004

nhú Vater, Y học thành phố Hồ Chí 2003, tập 7, phụ
bản của số 1, 75-80.
Sarmiento
JM,
Nagorney
DM,
Sarr
MG,
Periampullary cancers, Are there differences? The
surgical clinics of the North America, Vol. 81, WB.
Saunders company, 2001, 543-555.

Tred M, Carter DC, The complications of
pancreatoduodenectomy
and
their
management,
surgery of the pancreas, Churchill Livingston, 1997,
675-691.
Tung-Ping Poon R, Fan S, Opinions and commentary
on treating pancreatic cancer, The surgical clinics of
the north America, Vol. 81, WB. Saunders company,
2001, 627

11.

12.

13.

Buchler MW, Friess H, Wagner M, Pancreatic fistula
after pancreatic head resection, British Journal of
Surgery 2000,87, 883-889.
YEO CJ., CAMERON JL., MAHER MM..A Prospective
randomized trial of Pancreaticogastrostomy versus
Pancreaticojejunostomy
after
Pancreaticoduodenectomy. Ann Surg,1995, 222, 580592
MARCUS SG., COHEN H., RANSON JH., et al.
Optimal management of the Pancreatic remnant after
Pancreaticoduodenectomy, Ann Surg, 1995, 221,635648.




×