Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Phẫu thuật nội soi điều trị thủng ổ loét dạ dày tá tràng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (292.46 KB, 5 trang )

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011

PHẪU THUẬT NỘI SOI ĐIỀU TRỊ THỦNG Ổ LOÉT DẠ DÀY TÁ TRÀNG
Hồ Hữu Đức*, Trần Văn Quảng*, Nguyễn Hải Âu*

TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Tiêu chuẩn chọn lựa và chỉ định phẫu thuật nội soi khâu lỗ thủng ổ loét dạ dày tá tràng vẫn
chưa rõ ràng. Mục đích của nghiên cứu chúng tôi nhằm mô tả kết quả sớm sau phẫu thuật này và xác định
những yếu tố nguy cơ tác động nguyên nhân biến chứng hậu phẫu.
Phương pháp nghiên cứu: Hồi cứu, cắt ngang phân tích
Kết quả: 78 bệnh nhân được phẫu thuật nội soi điều trị thủng ổ loét dạ dày tá tràng từ 2/2007 đến 9/2010,
bao gồm 45 trường hợp thủng dạ dày và 33 thủng tá tràng. Tuổi trung bình của bệnh nhân là 53,8 ± 18,4. 6
trường hợp có biến chứng hậu phẫu. Thời gian nằm viện trung bình 8,8 (7 – 14) ngày. Không có tử vong sau
mổ. Kích thước của ổ loét và thời gian bị thủng là những yếu tố nguy cơ gây chuyển mổ mở và nguyên nhân gây
biến chứng sau mổ.
Kết luận: Phẫu thuật nội soi khâu lỗ thủng dạ dày tá tràng là phương pháp an toàn, có thể áp dụng điều trị
những trường hợp thủng ổ loét dạ dày tá tràng.
Từ khóa: Loét dạ dày tá tràng, loét tá tràng, phẫu thuật nội soi, điều trị nội soi.

ABSTRACT
LAPAROSCOPIC REPAIR OF PERFORATED PEPTIC ULCER OR DUODENAL ULCER
Ho Huu Duc, Tran Van Quang, Nguyen Hai Au
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 2 - 2011: 276 - 280
Objectives: Clear patient selection criteria and indications for laparoscopic repair of perforated peptic ulcer
or duodenal ulcer are still of relevance. The purpose of our paper is to describe the early outcome results after this
operation and to define the risk factors influencing the genesis of postoprative morbility.
Methods: A cross – sectional descriptive study was conducted in 78 patients were operated on
laparoscopically between Febnuary 2007 and September 2010 for 45 perforated peptic ulcer and 33 duodenal
ulcer.


Results: Patients’s age was 53.8 ± 18.4. 6 patients had postoperative complications. Hospital stay was 8.8 (7
– 14) days. There was no mortality. Size of duodenal ulcer perforation and duration of ulcer perforation symptoms
were found to be risk factors influencing the rates of conversion to open repair and genesis of postoperative
morbility.
Conclusions: Laparoscopic repair of perforated peptic ulcer or duodenal ulcer is a safe, feasible treatment.
Key words: Peptic ulcer perforation, duodenal ulcer perforation, laparoscopy, laparoscopic repair.
những bệnh nhân có bệnh kèm theo có dùng
MỞ ĐẦU
liều cao thuốc kháng viêm NSAID. Bản thân
Thủng ổ loét dạ dày tá tràng là một cấp
chúng ít khi gây tác hại nhưng khi phối hợp
cứu ngoại khoa thường gặp và là một nguyên
với nhau sẽ làm tăng tỉ lệ tử vong chu phẫu
nhân thường gặp gây tử vong ở người cao
và biến chứng. Helicobacter pylori là thủ phạm
tuổi. Trong 2 thập kỉ trước, đã có những bước
chính gây loét dạ dày tá tràng và loét tái phát
thay đổi về phác đồ điều trị thủng ổ loét dạ
sau điều trị khá ít gặp. Giảm tiết acid không
dày tá tràng ở những bệnh nhân lớn tuổi và
cần áp dụng cho nhóm bệnh nhân này. Xét về
* Bệnh viện Thống Nhất Tp Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: ThS. BS. Hồ Hữu
Đức ĐềĐT:
0908366367

276
Chuyên
Hội
Nghị Khoa Email:

Học Kỹ
Thuật BV. Thống Nhất 2011


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011
mặt kết quả, phương pháp khâu lỗ thủng đơn
thuần ngày càng được yêu thích. Kỹ thuật này
dễ làm, đáng tin cậy và cũng được ưa thích áp
dụng cho những bệnh nhân có nguy cơ cao (1,2).
Phẫu thuật nội soi cắt túi mật đã trở thành
một phương pháp chuẩn để cắt bỏ túi mật, thay
thế cho phương pháp mổ mở cắt túi mật vì ít
đau, ít tai biến vết mổ và thời gian nằm viện
ngắn. Những lợi thế của phẫu thuật nội soi điều
trị thủng ổ loét dạ dày tà tràng vẫn chưa rõ ràng.
Chúng tôi thực hiện nghiên cứu này nhằm đánh
giá kết quả của phương pháp phẫu thuật nội soi
điều trị thủng ổ loét dạ dày tá tràng(11).

ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
Chúng tôi tiến hành hồi cứu những trường
hợp được phẫu thuật khâu thủng ổ loét dạ dày
tá tràng. Bệnh nhân lớn hơn 16 tuổi có thủng ổ
loét dạ dày tá tràng được chọn vào nghiên cứu
trừ khi có tiền căn phẫu thuật vùng bụng trên
rốn, đang có bằng chứng ổ loét xuất huyết hoặc
bị hẹp môn vị. Những bệnh nhân có biểu hiện lỗ
thủng được bịt kín mà không có triệu chứng
viêm phúc mạc hoặc nhiễm trùng không phẫu
thuật. Những bệnh nhân được phẫu thuật có

chẩn đoán khác với thủng ổ loét dạ dày tá tràng
bị loại trừ và những dấu hiệu lâm sàng đã được
ghi nhận. Tất cả những bệnh nhân đều được
truyền dịch, đặt ống thông mũi dạ dày hút và
giảm đau trước khi phẫu thuật. Kháng sinh
đường tĩnh mạch cũng được sử dụng sau khi
lâm sàng chẩn đoán thủng ổ loét dạ dày tá tràng
và phẫu thuật được tiến hành ngay khi phòng
mổ chuẩn bị xong.
Phẫu thuật nội soi được thực hiện bởi những
phẫu thuật viên đã trãi qua khóa huấn luyện.
Sau khi được gây mê nội khí quản thông thường
và dùng thuốc dãn cơ, bệnh nhân được đặt ở vị
trí
Lloyd-Davis,
ngược
với

thế
Trendelenburg. Phẫu thuật viên chính đứng bên
trái bệnh nhân. Một trocar 10mm được đặt vào
rốn. Chúng tôi sử dụng ống kính 30o đưa vào ổ
bụng để quan sát sau khi ổ bụng bơm hơi. Hai

Nghiên cứu Y học

trocar còn lại chúng tôi đặt tại điểm giao giữa
đường ngang môn vị và đường trung đòn ở 2
bên. Trocar 10mm ở bên trái và trocar 5mm ở
bên phải. sau khi quan sát toàn bộ khoang phúc

mạc, chúng tôi tiến hành xác định vị trí tổn
thương. Độ bẩn của phúc mạc được ghi nhận và
dịch trong phúc mạc được gởi đi cấy làm kháng
sinh đồ. Kích thước của lỗ thủng được đo tương
ứng với kích thước của phần kẹp của dụng cụ
kẹp nội soi.
Chúng tôi sử dụng kỹ thuật mũi khâu đơn
hoặc khâu chữ “X” với chỉ Vicryl 2.0 hoặc Soire
2.0 kim tròn. Chỉ được đưa vào ổ bụng qua lỗ
trocar 10mm. Trước khi tiến hành khâu, chúng
tôi sinh thiết ổ loét gởi khoa giải phẫu bệnh lý
đánh giá tế bào học. Sau đó đánh giá tình trạng
bờ ổ loét và tiến hành mũi khâu lấy toàn bộ
thanh, cơ, niêm mạc. Bệnh nhân được rửa ổ
bụng với 1000ml nước muối sinh lý đẳng trương
ấm trở lên và đươc đặt dẫn lưu dưới gan,
Douglas tùy theo phẫu thuật viên.
Sau mổ, giảm đau được tiếp tục duy trì
trong 3 ngày. Kháng sinh được sử dụng ít nhất 5
ngày, tùy theo tình trạng của bụng có thể phối
hợp thêm kháng sinh. Bệnh nhân được thăm
bệnh mỗi ngày để ghi nhận những dấu hiệu.
Chế độ ăn của bệnh nhân được thiết lập trở lại
tùy thuộc vào tình trạng ổ loét đánh giá trong
mổ, lâm sàng sau mổ. Thông thường bệnh nhân
được cho ăn lỏng sau 5 ngày. Theo y văn lỗ
thủng thường lành sau 48-72 giờ hậu phẫu, nên
cho ăn sớm sau khi ruột hoạt động. Bên cạnh
đó, thuốc PPI được dùng liên tục trong thời gian
hậu phẫu. Kết quả giải phẫu bệnh được trả về

khoa trong vòng 1 tuần, ghi nhận tế bào và
nhiễm Helicobacter. Nếu bệnh nhân có Hp(+) sẽ
được điều trị Hp. Bệnh nhân được hẹn tái khám
sau đó 1 tháng và nội soi dạ dày tá tràng được
thực hiện sau 2 tháng để đánh giá.

KẾT QUẢ
Từ tháng 2/2007 đến 9/2010, 78 bệnh nhân
được phẫu thuật nội soi khâu lỗ thủng dạ dày tá

Chuyên Đề Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất 2011

277


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011

tràng, với 67 nam và 11 nữ.
Bảng 1: một số đặc điểm bệnh nhân
Tuổi trung bình
53,8 ± 18,4
Giới tính
67 Nam (85,9%) 11 Nữ (14,1%)
Tiền căn bệnh dạ dày
9
3
tá tràng
Liềm hơi dưới hoành

62
11
Sử dụng thuốc kháng
15
2
viêm NSAID
Vị trí thủng
Tá tràng
23
10
Dạ dày
44
1

Bảng 2: Kết quả phẫu thuật
Thời gian phẫu thuật
Thời gian rút thông mũi dạ dày
Thời gian trung tiện
Số ngày ở nằm viện

42,3 ± 25,1 phút
3,3 ngày (3 – 5)
3,4 ngày (2 – 5)
8,8 ngày (7 – 14)

Bảng 3: Một số biến chứng sau mổ
Nhiễm trùng vết mổ
Viêm phổi
Xì lỗ thủng
Tụ dịch sau mổ

Áp xe tồn lưu

2
0
0
4
0

2,6%

5,1%

BÀN LUẬN
Những tiến bộ về thuốc điều trị bệnh loét
dạ dày tá tràng đã làm giảm đáng kể số lượng
trường hợp phẫu thuật điều trị loét. Tuy
nhiên, số lượng bệnh nhân cần phẫu thuật can
thiệp cho những biến chứng như thủng vẫn
không thay đổi đáng kể. Phẫu thuật với
đường mổ nhỏ đã được thừa nhận và ngày
càng mở rộng vai trò trong phẫu thuật đường
tiêu hóa kể từ khi phẫu thuật nội soi cắt túi
mật giới thiệu. Phẫu thuật nội soi cắt túi mật
đã nhanh chóng trở thành tiêu chuẩn cho hầu
hết các trường hợp cắt túi mật trên thế giới
nhưng vai trò phẫu thuật nội soi điều trị
thủng ổ loét dạ dày tá tràng vẫn chưa rõ
ràng(8).
Toàn bộ vết thương mà bệnh nhân trải qua
phẫu thuật phải chịu là tổng vết thương cần

mở bụng để can thiệp và vết thương nơi tạng
bị tổn thương. Khi mổ mở với đường rạch
giữa bụng sẽ có vết thương tương đối lớn so
với vết thương thủng ổ loét dạ dày tá tràng
cần can thiệp, lợi ích của phẫu thuật nội soi

278

với đường mổ nhỏ sẽ rất lớn. Phương pháp
phẫu thuật nội soi làm giảm vết thương mở
bụng, có thể khẳng định hoặc bác bỏ chẩn
đoán và có thể sử dụng thực hiện cùng một
thao tác điều trị và rửa bụng như mổ mở. Có
những ý kiến ủng hộ xem phẫu thuật nội soi
như là cách để xác định hoặc bác bỏ chẩn
đoán và nếu có thủng ổ loét dạ dày tá tràng
thì sẽ được can thiệp có hoặc không kèm theo
rửa ổ bụng thông qua phẫu thuật nội soi(1,10).
Sau những báo cáo đầu tiên về phẫu thuật
nội soi điều trị thủng ổ loét dạ dày tá tràng,
những khó khăn về kỹ thuật đóng lỗ loét đã
được thử nghiệm. Sử dụng chỉ, miếng xốp
gelatin và keo dán fibrin, dụng cụ khâu nối,
nội soi dạ dày hỗ trợ đính dây chằng liềm đều
được nghiên cứu. Một số tác giả khác ủng hộ
việc sử dụng ống nội soi dạ dày dẫn đường
tạo nút mạc nối lớn để đóng lỗ thủng. Trong
nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng phương
pháp chỉ khâu lỗ thủng vì dựa trên nguyên lý
cơ bản của mổ mở và không sử dụng những

vật thể lạ đối với cơ thể(9).
Những nghiên cứu ngẫu nhiên đầu tiên so
sánh giữa nội soi và mổ mở khi điều trị thủng ổ
loét dạ dày tá tràng cho thấy nội soi thời gian
phẫu thuật nội soi dài hơn có ý nghĩa nhưng lại
sử dụng ít thuốc giảm đau hơn sau mổ. Phương
pháp phẫu thuật nội soi được sử dụng trong
nghiên cứu trên thì khác với báo cáo của chúng
tôi. Thời gian phẫu thuật nội soi khâu lỗ thủng
là 112,9 phút so với thời gian phẫu thuật nội soi
không khâu là 74,8 phút trong nghiên cứu của
Wing Siu. Thời gian phẫu thuật ngắn trong
phẫu thuật nội soi điều trị phần lớn liên quan
đến sự thay đổi kỹ thuật đóng kín nội soi. Bằng
việc áp dụng mũi khâu đơn và sử dụng cùng
một mũi khâu giữa chắt mạc nối lớn, kỹ thuật
nhiều mũi khâu ngổn ngang đã không được áp
dụng. phần lớn thủng ổ loét đều nhỏ và chúng
tôi áp dụng kỹ thuật mũi khâu đơn đóng kín an
toàn tuy. Tuy nhiên, phẫu thuật nội soi có kỹ
thuật khắt khe và phẫu thuật viên cần rèn luyện
kỹ thuật khâu nội soi(4).

Chuyên Đề Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất 2011


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy
khi so sánh với mổ mở, phẫu thuật nội soi giảm
đau sau mổ và lượng thuốc giảm đau, thời gian

ở bệnh viện ngắn hơn, trỏ lại hoạt động thường
ngày sớm hơn. Tỉ lệ biến chứng của phương
pháp nội soi thấp. Phẫu thuật nội soi giảm đau
vết thương sau mổ đến mức thấp nhất, khuyến
khích vận động sớm và trở lại hoạt động thường
ngày. Lợi ích của việc xuất viện sớm và nhanh
chóng trở lại công việc có thể có giá trị hơn so
với chi phí mà bệnh nhân phẫu thuật nội soi
phải gánh chịu(1,3).
Vai trò của phẫu thuật nội soi trong cấp cứu
đã được chứng minh rõ ràng. Sự thay đổi đặc
điểm bệnh thủng ổ loét dạ dày tá tràng đang
ủng hộ phương pháp can thiệp đơn giản. Với
những lợi ích đã được chứng minh trong nghiên
cứu của chúng tôi, phẫu thuật nội soi khâu lỗ
thủng dạ dày tá tràng nên là phương pháp được
chọn. phẫu thuật nội soi nên gắn với phẫu thuật
viên tổng quát để giải quyết cho bệnh nhân bị
viêm phúc mạc(6).
Ngoài những ưu điểm, phương pháp phẫu
thuật nội soi có một số bất lợi. Trong tình huống
này cho thấy không có sự khác biệt về sự phục
hồi chức năng của đường tiêu hoá hoặc thời
gian nằm viện ngắn hơn. Mô của tổn thương bở
hơn bình thường và khả năng xúc giác bị hạn
chế khi mổ nội soi có thể gây tổn thương những
cơ quan lân cận. Sợi chỉ khâu bị kéo căng có thể
nguyên nhân gây tổn thương mô, thậm chí cắt
đứt mô. Ngoài ra khi sử dụng ống soi 30o cũng
gây khó khăn khi quan sát lỗ thủng trong một

số trường hợp. Tuy nhiên, một lỗ thủng lớn
không nên khâu bằng nội soi mà nên chuyển
sang mổ mở hoặc một lỗ thủng không thấy bằng
nội soi thì cần thiết chuyển sang mổ mở để tìm
kiếm(5,7).
Mối quan tâm lớn là ảnh hưởng sinh lý bệnh
của phương pháp nội soi lên bệnh nhân lớn tuổi
trong trường hợp viêm phúc mạc. Những bệnh
nhân đang ở ranh giới suy thận, suy hô hấp và
suy tim thêm tác động của bơm hơi CO2 trong
khoảng thời gian lên đến 2 giờ có thể đưa đến

Nghiên cứu Y học

suy đa cơ quan. Sự thay đổi chức năng tim mạch
và hô hấp trong lúc phẫu thuật nội soi đã được
chứng minh. Đã có những bằng chứng rõ ràng
khi tăng áp lực ổ bụng lên 12mmHg có thể dẫn
đến giảm lưu lượng máu đến thận và độ lọc cầu
thận, đưa đến thiểu niệu. Ngoài ra còn gây giảm
lưu lượng máu động mạch mạc treo và lưu
lượng máu ở niêm mạc ruột non gây tình trạng
nhiễm axit trong niêm mạc và có thể tăng sự di
chuyển của vi khuẩn từ trong lòng ruột. Việc
giảm lưu lượng máu ở gan, tĩnh mạch cửa và
tuần hoàn mao mạch của gan cũng đã được
chứng minh. Những tác động này rất có ý nghĩa
trong tình trạng nhiễm trùng và giảm thể tích
máu của bệnh nhân(12).
Đã có vài tranh cải về những tác động của

phẫu thuật nội soi và mổ mở trên hệ thống
miễn dịch và phản ứng căng thẳng. Có những
tài liệu chứng minh phẫu thuật nội soi làm
giảm sự trì trệ trong tế bào trung gian miễn
dịch; phản ứng nội tiết thần kinh và quá trình
dị hoá được chứng minh sau mổ mở. Sự tác
động lẫn nhau của những hiệu quả này với
những yếu tố phản ứng của suy đa cơ quan có
thể chỉ là ước đoán nhưng có sự xuất hiện có
ý nghĩa những thay đổi chất trung gian hoà
giải như CRP và TNFα(7).
Mặc dù không có trường hợp tử vong rõ
ràng nào quy cho giảm sinh lý trước mổ nhưng
chúng tôi cảm thấy tồn tại những tranh luận
trong lĩnh vực này, chưa có sự rõ ràng tỉ lệ giữa
nguy cơ và lợi ích của phẫu thuật nội soi trên
bệnh nhân có viêm phúc mạc toàn thể, những
người có cơ thể không khoẻ mạnh(3,10).
Thời gian phẫu thuật của phương pháp
phẫu thuật nội soi dài hơn có ý nghĩa thống kê,
so sánh với những báo cáo trong y văn. Giải
thích cho lý do thời gian mổ dài hơn vì khâu
trong nội soi đòi hỏi kỹ năng khó khăn, đặc biệt
với những trường hợp bờ của lỗ thủng bị thâm
nhiễm và bở. Mũi khâu dễ dàng xé ra, càng khó
khăn lấy trọn lỗ thủng và cột nơ một cách hợp
lý. Một lý do khác làm tăng thời gian mổ là rửa
ổ bụng. Rửa thông qua trocar 5mm hoặc thậm

Chuyên Đề Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất 2011


279


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011

chí là 10mm là khoảng thời gian chiếm đa số và
việc hút dịch làm giảm thể tích khí, giảm khí
bơm ổ bụng. Không có bằng chứng việc rửa
bụng làm giảm nguy cơ nhiễm trùng vì thế nó
chỉ cần thiết nếu có thức ăn trong ổ bụng. Tuy
nhiên, hầu hết các phẫu thuật viên đều rửa
bụng trong những trường hợp này. Một trong
những nghi ngờ là yếu tố nguy cơ của phẫu
thuật nội soi là nhiễm trùng do việc tăng di
chuyển của vi khuẩn trong khi bơm hơi ổ
bụng. Yếu tố này có thể không được xác nhận
trong nghiên cứu của chúng tôi. Vả lại, dữ
kiện cho thấy tăng biến chứng nhiễm trùng ổ
bụng khi thực hiện phẫu thuật nội soi. Tuy
nhiên chúng tôi nhận thấy phẫu thuật nội soi
rất có lợi trong việc rửa bụng do quan sát
được toàn bộ ổ bụng. Với sự cơ động của ống
soi, chúng tôi có thể di chuyển đến những
vùng mà khả năng tụ dịch cao, có thể gây áp
xe trong ổ bụng. Tuy nhiên điều này khiến
cho thời gian mổ bị kéo dài, có thể ảnh hưởng
đến kết quả sau mổ(7,8).

Bằng chứng cho thấy phẫu thuật nội soi
điều trị thủng ổ loét dạ dày tá tràng giúp giảm
đau sau mổ. Nhiều nghiên cứu cho thấy giảm
đáng kể liều thuốc giảm đau ở nhóm bệnh nhân
phẫu thuật nội soi. Dù gì đi nữa, phẫu thuật nội
soi cũng đem lại chất lượng cuộc sống tốt hơn
cho bệnh nhân, đặc biệt là tuần đầu tiên sau mổ.
Mặc dù những bệnh nhân trong nghiên cứu của
chúng tôi được phẫu thuật nội soi có giảm mức
độ đau sau mổ nhưng không có sự khác biệt về
thời gian nằm viện. Thực tế thời gian nằm viện
của bệnh nhân chúng tôi khá dài. Nguyên nhân
hầu hết là nhiều bệnh nhân, nhất là những bệnh
nhân lớn tuổi, không chịu xuất viện. Tuổi của
những bệnh nhân càng tăng thì sẽ xuất hiện
những vấn đề càng đáng kể trong tương lai. Một
trong những lợi điểm của phương pháp nội soi
mà không thường nhắc đến trong y văn đó là
thẩm mỹ. Ngày nay bệnh nhân khá quan tâm
đến lợi điểm này. Thỉnh thoảng vì lý do này mà
tại sao họ yêu cầu phẫu thuật nội soi(2,11).

280

KẾT LUẬN
Nghiên cứu của chúng tôi xác định kết quả
của phương pháp phẫu thuật nội soi điều trị
thủng ổ loét dạ dày tá tràng là an toàn, khả thi
đối với những phẫu thuật viên kinh nghiệm và
giúp giảm mức độ đau sau mổ. Thời gian phẫu

thuật dài hơn so với mổ mở nhưng không có sự
khác biệt về thời gian nằm viện hoặc tỉ lệ biến
chứng sau mổ.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

2.

3.

4.

5.

6.

7.

8.

9.
10.

11.

12.

Bertleff MJOE, Halm JA., Bemelman WA., Van Der Ham AC.,
Van Der Harst E, Oei HI., Smulders JF., Steyerberg EW. and

Lange JF (2009): Randomized clinical trial of laparoscopic versus
open repair of the perforated peptic ulcer: the LAMA trial.
World J. Surg. Vol 33:1368-73.
Katkhouda N, Mavor E, Mason RJ., Campos GMR., Soroushyari
A and Berne TV. (1999):. Laparoscopic repair of perforated
duodenal ulcers. Arch Surg. Vol 134, Aug: 845-850.
Lau WY (2002): Perforated peptic ulcer: open versus
laparoscopic repair. Asian Journal of Surgery. Vol 25, No.4;
October: 267-9.
Lau WY, Leung KL, Kwong KH, Davey IC., Robertson C,
Dawson JJW, Chung SCS. and Li AKC. (1996):. A randomized
study comparing laparoscopic versus open repair of the
perforated peptic ulcer using suture or sutureless technique.
Annals of Surgery. Vol 224, No.2:131-138.
Lee FYJ, Leung KL, Lai BSP, Ng SSM, Dexter S and Lau WY.
(2001): Predicting mortality and morbidity of patients operated
on for perforated peptic ulcers. Arch Surg. Vol 136: 90-4.
Lunevicius R and Morkevicius M. (2004): Perforated duodenal
ulcer: benefits and risks of laparoscopic repair. Medicina
(Kaunas); 40(6): 522-37.
Lunevicius R, Morkevicius M and Stanaitis J (2004):.
Laparoscopic repair of perforated duodenal ulcer: early
postoperative results ans risk factors. Medicina (Kaunas); 40(11):
1054-68.
Matsuda M, Nishiyama M, Hanai T, Saeki S and Watanabe T.
(1995): Laparoscopic omental patch repair for perforated peptic
ulcer. Annal of Surgery. Vol 22, No.3:236-40.
Pappas TN. and Lagoo SA (2002): Laparoscopic repair for
perforated peptic ulcer. Annals of Surgery. Vol 235, No 3: 320-1.
Robertson GSM, Holden SAW and Maddern GJ (2000):.

Laparoscopic repair of perforated peptic ulcers. The role of
laparoscopy in generalised peritonitis. Ann R Coll Surg Engl; 82:
6-10.
Siu WT., Leong HT., Law BKB., Chau CH., Li ACN., Fung KH.,
Tai YP. and Li MKW.. (2002): Laparoscopic repair for perforated
pepti ulcer. Annals of Surgery. Vol 235. No.3: 313-319.
Trullen XV, Pala XF, Terceros DS, Sanz EM, C. Castro I, Bacardit
JB, Ribalta JMA, Canal PB, Puig RC and Sallent EF. (2007):
Laparoscopic treatment of perforated duodenal ulcer. Cir Esp;
81(2): 96-8.

Chuyên Đề Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất 2011



×