Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Đánh giá kết quả điều trị bằng phẫu thuật trong bệnh thoát vị bẹn ở trẻ em tại bệnh viện Trung ương Huế và trung tâm NCYHLS Đại học y Huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (363.72 KB, 6 trang )

TẠP CHÍ KHOA HỌC, Đại học Huế, Số 15, 2003

ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ BẰNG PHẪU THUẬT 
TRONG BỆNH THOÁT VỊ BẸN Ở TRẺ EM TẠI BỆNH VIỆN TW HUẾ 
VÀ TRUNG TÂM NCYHLS ĐẠI HỌC Y HUẾ
Nguyễn Văn Liễu
Trường Đại học Y khoa, Đại học Huế

I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Thoát vị bẹn ở trẻ em là một bệnh lý bẩm sinh, tần suất thoát vị bẹn cao 
nhất trong những năm đầu của đời sống. Đây là một bệnh khá phổ biến xảy ra  
chủ  yếu  ở  trẻ  em dưới 15 tuổi với tỉ  lệ  1­ 3%,  ở trẻ đẻ  non tỉ  lệ  này từ  3 ­ 
4,8% [5], [6]. Trong đó, có khoảng 1/3 trẻ em bị thoát vị bẹn dưới 6 tuổi.
Trong thực tế, bệnh lý thoát vị bẹn ở trẻ em có ảnh hưởng rất lớn đến 
tình trạng sức khoẻ và mọi sinh hoạt của bệnh nhi. Hiện nay, theo quan điểm  
của nhiều tác giả  trên thế  giới, thoát vị  bẹn  ở  trẻ  em cần được chẩn đoán và 
điều trị  phẫu thuật sớm nhằm giảm thiểu các biến chứng thường gặp như: 
nghẽn, nghẹt, tắc ruột, hoại tử ruột gây viêm phúc mạc...dẫn đến tử vong cũng 
như ảnh hưởng xấu đến kết quả điều trị.
Trong điều trị  phẫu thuật bệnh thoát vị  bẹn  ở  trẻ  em chủ  yếu có hai 
phương pháp: cột, cắt cao cổ túi thoát vị đơn thuần và cột, cắt cao cổ túi thoát  
vị  kèm với khâu hẹp lỗ  bẹn sâu. Vấn đề  quan trọng trong khi mổ  nên chọn 
phương pháp nào nhằm giảm tỉ lệ tái phát và một số  biến chứng khác thường  
gặp. Trong thời gian qua tại Khoa Ngoại, Bệnh viện Trung ương Huế và Trung  
tâm Nghiên cứu Y học Lâm sàng Đại học Y Huế  đã tiến hành điều trị  phẫu 
thuật thoát vị bẹn ở 84 bệnh nhi với 2 phương pháp nêu trên. Do đó, việc đánh  
giá kết quả  điều trị  bằng phẫu thuật trong bệnh thoát vị  bẹn ở  trẻ  em là điều 
cần thiết.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Gồm 84 bệnh nhi dưới 15 tuổi được chẩn đoán thoát vị bẹn nghẹt hoặc 
thoát vị bẹn thường và đã được điều trị tại Khoa Ngoại Bệnh viện Trung ương  


Huế  (gồm 48 bệnh nhi) và Trung tâm Nghiên cứu Y học Lâm sàng Đại học Y  
Huế (gồm 36 bệnh nhi). Từ tháng 7 năm 1998 đến tháng 4 năm 2001.
Chúng tôi đã áp dụng 2 phương pháp phẫu thuật cột, cắt cao cổ túi thoát 
vị  đơn thuần và cột, cắt cao cổ  túi thoát vị  kèm với khâu hẹp lỗ  bẹn sâu. Mổ 
167


cấp cứu trong những trường hợp nghẽn, nghẹt, tắc ruột..., và các trường hợp  
còn lại mổ theo chương trình.
Tiến hành ghi nhận những biến chứng sớm sau mổ, đánh giá kết quả 
sớm sau mổ và tiến hành tái khám trực tiếp tại nhà hoặc gửi thư mời tới bệnh  
viện để  khám hoặc gửi thư kèm với phiếu kiểm tra sức khỏe sau mổ thoát vị 
bẹn nhờ nhân viên y tế địa phương hướng dẫn trả lời  ở các bệnh nhi đã được 
mổ tại Bệnh viện Trung  ương Huế và Trung tâm Nghiên cứu Y học Lâm sàng 
từ 03 tháng tới 32 tháng.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Qua 84 bệnh nhi được khám, mổ  và theo dõi sau mổ  thoát vị  bẹn từ 
tháng 7/1998 đến tháng 4/2001 chúng tôi có kết quả cụ thể như sau.
                       Bảng 1: Phân bố theo tuổi, giới và địa dư
Tuổi bệnh nhân (năm)
Lứa tuổi
<1
1 ­ 6
> 6
Sô úca
7
65
12
Tỉ lệ %
8,3

77,4
14,3

Giới tính
Nam Nữ
72
12
85,7 14,3

Địa dư
Nông thôn Thành phố
51
33
60,7
39,3

­ Tuổi nhỏ nhất 8 tháng tuổi.
­ Tuổi lớn nhất 15 tuổi.
Trẻ  em thoát vị  bẹn xảy ra trong độ  tuổi biết đi, chạy, nhảy và đi học  
mẫu giáo chiếm ưu thế.
­ Chủ yếu gặp ở nam giới. Tỉ lệ nam/nữ là 7/1.
­ Trẻ em sống ở nông thôn mắc bệnh nhiều hơn thành thị.
Bảng 2: Thời gian trẻ mắc bệnh đến khi vào viện để can thiệp phẫu thuật

Thời gian
<1 năm
1­3 năm
3­5 năm
>5 năm
Tổng số


Số ca
09
45
17
13
84

Tỉ lệ
10,8
53,6
20,2
15,4
100%

Số bệnh nhi mắc bệnh thoát vị bẹn trong thời gian kéo dài từ  1 ­ 5 năm  
chiếm 62 trường hợp (73,8%).

168


Bảng 3: Phân loại thoát vị bẹn của bệnh nhi khi vào viện để phẫu thuật

Loại thoát vị
Số cas
Tỉ lệ

Thoát vị thường
49
58,3


Thoát vị nghẹt
35
41,7

Tổng số
84
100%

Thoát vị bẹn thường chiếm tỉ lệ cao hơn thoát vị bẹn nghẹt.
Trong các biến chứng thường gặp  ở trẻ em thoát vị  bẹn khiến trẻ phải  
nhập viện để  can thiệp phẫu thuật là biến chứng tắc ruột có 32 trường hợp  
chiếm tỉ lệ 38,1%.
Thoát vị bẹn bên phải ở trẻ em xảy ra 62 trường hợp chiếm tỉ lệ 61,9%,  
xảy ra bên trái 25 trường hợp chiếm tỉ  lệ  29,8%, thoát vị  bẹn cả  hai bên 7  
trường hợp chiếm 8,3%.
Trong số  84 bệnh nhi vào điều trị  phẫu thuật thoát vị  bẹn. Phẫu thuật 
lần đầu có 75 trường hợp (89,3%), tái phát 1 lần có 7 trường hợp (8,3%), tái  
phát phải mổ lần hai có 1 trường hợp (1,2%) và mổ  tái phát lần 3 có 1 trường 
hợp (1,2%).
Phương pháp điều trị  thoát vị bẹn ở trẻ em tại Khoa Ngoại Bệnh Viện  
Trung  ương Huế  và Trung tâm Nghiên cứu Y học Lâm sàng. Chúng tôi đã áp 
dụng cột, cắt cao cổ túi thoát vị  84 trường hợp chiếm tỉ lệ 100%, cột, cắt cao  
cổ thoát vị đơn thuần 37 trường hợp (44%) và cột, cắt cao cổ thoát vị kèm khâu  
hẹp lỗ bẹn sâu 47 trường hợp (56%). 
Những biến chứng sớm sau mổ như: tử vong, chảy máu vết mổ, nhiễm 
trùng vết mổ, tụ máu vùng bìu, áp xe thành bụng chúng tôi không gặp.
Tỉ lệ tái phát được theo dõi và tái khám:
­ Nhóm được tái khám sau mổ từ 3­8 tháng: Có 1 trường hợp 
­ Nhóm được tái khám sau mổ từ 8­16 tháng: Có 2 trường hợp

   ­ Nhóm được tái khám sau mổ từ 16­32 tháng: Có 4 trường hợp .
Như  vậy tỉ  lệ  tái phát chung là 7 trường hợp trong đó có 5 trường hợp  
cho phương pháp điều trị  cột, cắt cao cổ thoát vị đơn thuần chiếm tỉ  lệ 13,5% 
và có hai trường hợp cho phương pháp điều trị cột, cắt cao cổ thoát vị kèm với 
khâu hẹp lỗ bẹn sâu chiếm tỉ lệ 4,3%.
Ngoài những biến chứng muộn sau phẫu thuật là tái phát được nêu trên. 
Các biến chứng khác như đau dai dẳng vết mổ, teo tinh hoàn, nhiễm trùng kéo 
dài, tê vùng bẹn bìu... Chúng tôi không gặp.
Các biến chứng trong quá trình gây mê không có trường hợp nào xảy ra  
tai biến trong và sau gây mê.
169


IV. BÀN LUẬN
Thoát vị  bẹn là 1 bệnh khá phổ  biến  ở trẻ  em, trong thực tế đã có ảnh  
hưởng   đến   tình   trạng   sức   khỏe   và   sinh   hoạt   của   trẻ.   Theo   Develin   và 
Kingsnorth:  “Ở  trẻ  em thoát vị  bẹn, trung thực mà nói nên tiến hành phẫu  
thuật” [2].
Đúng vậy nếu bệnh nhi không được chẩn đoán và điều trị  sớm, đúng 
phương pháp thoát vị  bẹn có thể  có các biến chứng như: nghẹt, nghẽn, tắc 
ruột, hoại tử  ruột đưa đến viêm phúc mạc dẫn đến tử  vong hoặc  ảnh hưởng  
xấu đến kết quả điều trị.
Trong đề tài này chúng tôi thấy có những điểm nổi bật sau:
* Thoát vị  bẹn  ở  trẻ  em nam nhiều hơn nữ  chiếm tỉ  lệ  nam/nữ  là 7/1.  
Thoát vị  bẹn bên phải nhiều hơn bên trái điều này phù hợp với ghi nhận của  
Scorrer, Farrington và của Grosfield [1], [4].
* Lứa tuổi 1­ 6 tuổi chiếm tỉ  lệ  77,4%. Do độ  tuổi này cổ  thoát vị  có 
khuynh hướng hẹp lại và trẻ  bắt đầu biết đi, chạy, nhảy nên khi ruột thoát vị 
tụt xuống không tự lên để trở vào ổ bụng được, rất nhanh chóng trở thành thắt  
nghẹt.

* Thời gian bệnh nhi kể  từ  khi mắc bệnh đến khi được can thiệp phẫu  
thuật cấp cứu là 32 trường hợp chiếm tỉ lệ 38,1%. Theo Tintinualli trong bệnh  
lý thoát vị bẹn, dù biến chứng nặng hay nhẹ trong phẫu thuật cấp cứu là điều 
cần được xem xét và hạn chế tối đa [3].
* Tỉ lệ tái phát trong 2 nhóm có sự khác biệt rõ rệt. Đối với nhóm cột, cắt  
cao cổ  túi thoát vị  kèm khâu hẹp lỗ  bẹn sâu chúng tôi đã thực hiện 47 trường  
hợp, tái phát có 2 trường hợp chiếm tỉ  lệ  4,3%, đối với nhóm cột, cắt cao cổ 
thoát vị  đơn thuần chúng tôi đã thực hiện 37 trường hợp, tái phát có 5 trường  
hợp chiếm tỉ lệ 13,5%. Điều đáng quan tâm nhất đối với phẫu thuật viên trong  
những bệnh nhi có khối thoát vị lớn, lỗ bẹn sâu rộng tốt nhất nên tiến hành cột, 
cắt cao cổ thoát vị kèm khâu hẹp lỗ bẹn sâu.
KẾT LUẬN
­ Các biến chứng thường gặp trong và sau khi phẫu thuật bệnh lý thoát  
vị bẹn ở trẻ em ở công trình này nổi bật nhất là tỉ  lệ tái phát của phương pháp 
phẫu thuật cột, cắt cao cổ  thoát vị  đơn thuần khá cao (13,5%) so với phương  
pháp phẫu thuật cột, cắt cao cổ thoát vị  kèm với khâu hẹp lỗ  bẹn sâu (4,3%). 
Điều này đã khuyến cáo cho phẫu thuật viên trong quá trình phẫu thuật cần  
170


đánh giá một cách chính xác để áp dụng từng phương pháp phẫu thuật cho từng 
bệnh nhi, mặc dù đều là bệnh lý thoát vị bẹn.
­ Cần tuyên truyền rộng rãi loại bệnh này để  tránh những trường hợp  
khi có biến chứng xảy ra mới đưa đến bệnh viện mổ  cấp cứu. Bệnh nhi đến  
mổ  còn quá muộn 62 trường hợp (73,8%), số bệnh nhi bị thoát vị  bẹn có biến  
chứng nghẹt mới đến mổ có 32 trường hợp (38,1%). Chính với những lý do này 
có thể  đưa đến những hậu quả  tỉ  lệ  biến chứng sau mổ cao và nhất là có khi  
dẫn đến tử vong.
TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. C.   G.   Scorer,   G.   H.   Farrington.  Congenital   Deformities   of   the   Testis   and  
Epididymis. London, Butter Worths (1971)
2. H.   B.   Develin   and   A.  Kingsnorth.   Groin  Hernias   in   Babies   and  Children.  
Management of Abdominal Hernias. Chapman and Hall Medical, 9, (2) 126 
(1998).
3. J. E. Tintimalli.  Emergency Medecin. A Comprehensive Study Guide. Third 
Edition. Mc Graw Hill, Inc. Health Professions Division (1992) 326­327
4. J. L. Grosfield. Current Concepts in Inguinal Hernias in Infants and Children. 
World Journal of Surgery, 13, 506­515 (1989).
5. K.   J.   Pecvy,   C.   J.   Hoff.  Epidemiology   of     Inguinal   Hernias   in   Pre­term  
Neonates. Pediatrics 77 (1986) 246­247 
6. R. Witherington.  Cryptorchism and Approaches to Its Surgical Management. 
Surgical Clinics of  North America, 64 (1984) 367­384

TÓM TẮT
Mổ thoát vị bẹn  ở trẻ em, là một phẫu thuật thường xuyên được thực hiện ở  
lĩnh vực phẫu thuật nhi khoa.
Từ  tháng 7/1998 đến tháng 4/2001. Chúng tôi đã tiến hành phẫu thuật cho 84  
bệnh nhi bị thoát vị  bẹn. Chúng tôi đã áp dụng hai phương pháp để điều trị  mổ thoát  
vị bẹn ở trẻ em: Cột, cắt cao cổ thoát vị đơn thuần và cột, cắt cao cổ thoát vị kèm với  
khâu hẹp lỗ bẹn sâu.
Kết quả của công trình này cho thấy:
­ Tỉ lệ mắc bệnh nam/nữ là 7/1.
­ Lứa tuổi thường gặp là 1­6 tuổi.
­ Số  bệnh nhi bị  thoát vị  bẹn có biến chứng nghẽn, nghẹt ruột mới đến mổ  
chiếm tỉ lệ 38,1%.
171


­ Tỉ  lệ  tái phát đối với phương pháp cột, cắt cao cổ  thoát vị  đơn thuần là  

13,5%.
 ­ Tỉ lệ tái phát đối với phương pháp cột, cắt cao cổ thoát vị kèm với khâu hẹp  
lỗ bẹn sâu là 4,3%.

EVALUATING THE EFFECTIVENESS 
OF SURGICAL TREATMENT INGUINAL HERNIOTOMY
 IN THE CHILDREN AT HUE CENTRAL HOSPITAL AND CLINICAL 
RESEARCH CENTER OF THE HUE MEDICAL COLLEGE
Nguyen Van Lieu
College of Medicine, Hue University 

SUMMARY
Inguinal Herniotomy in the children is the operation most frequently performed  
in paediactric practice.
From Jul.1998 to Apr.2001. We have made 84 operations Inguinal Hernia in the  
children. We have been used two methods: The sac is ligated circumferentially and the  
sac is ligated circumferentially associated with the internal ring is suture narrower.
The results of these cases are as follows:
­ The incidence of Inguinal Hernia, boy to girl is about 7/1.
­ The incidence of Inguinal Hernia is higher in 1 to 6 years (77.4%).
­   38.1%   of   children   with   Inguinal   Hernia   present   as   emergencies   with  
incarceration or strangulation.
­ The recurrence rate of the method the sac is ligated circumferentially is 13.5%
­ The recurrence rate of the method the sac is ligated circumferentially  
associated with the internal ring is suture narrower is  4.3%.

172




×