Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Kết quả bước đầu của phẫu thuật tái tạo thành sau ống tai và vá màng nhĩ trên các bệnh nhân có bệnh lý hố mổ chũm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (248.79 KB, 4 trang )

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013

KẾT QUẢ BƯỚC ĐẦU CỦA PHẪU THUẬT TÁI TẠO THÀNH SAU ỐNG
TAI VÀ VÁ MÀNG NHĨ TRÊN CÁC BỆNH NHÂN
CÓ BỆNH LÝ HỐ MỔ CHŨM
Phạm Kiên Hữu*

TÓM TẮT
Mục đích: Đánh giá kết qủa sau mổ tái tạo thành sau ống tai và vá màng nhĩ trên bệnh nhân có bệnh lý hố
mổ chũm.
Phương pháp: Tiến cứ mô tả hàng loạt ca. Các bệnh nhân trong lô nghiên cứu là các bệnh nhân có các triệu
chứng của bệnh lý hố mổ khoét rộng đá chũm, được phẫu thuật và theo dõi từ tháng 1 năm 2011 đến tháng 10
năm 2012. Các biến số theo dõi: sự thuyên giảm các triệu chứng cơ năng của bệnh nhân, tình trạng lành màng
nhĩ, tình trạng ống tai ngoài (thể tích hố mổ chũm sau mổ 3 tháng)
Kết quả: Trong số 21 trường hợp phẫu thuật, có sự thuyên giảm hoàn toàn các triệu chứng co năng trước
mổ, màng nhỉ đóng chiếm tỉ lệ 90%, ống tai được tái tao tương đối tốt trong 76% trường hợp, không có ca nào
chảy mủ tai sau mổ tháng.
Kết luận: Phẫu thuật tái tạo thành sau ống tai bằng sụn và xương có kết hợp vá màng nhĩ trên bệnh nhân có
bệnh lý hố mổ chũm là l một kỹ thuật an toàn và hiệu quả.
Từ khóa: Khoét rổng đá chũm, tái tạo thành sau ống tai, vá màng nhĩ.

ABSTRACT
TO EVALUATE SURGICAL OUTCOMES OF RECONSTRUCTION POSTERIOR EAR CANAL AND
TYMPANOPLASTY ON PATIENTS POST MASTOIDECTOMY
Pham Kien Huu* * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 - Supplement of No 1 - 2013: 164 - 167
Purpose: To evaluate surgical outcomes of reconstruction posterior ear canal and tympanoplasty on patients
with large mastoid cavity post CWD mastoidectomy.
Method: Prospective, cases review.
Setting: 21 patients whose had been sustained from mastodectomy before and a large mastoid cavity were


enrolled in my study from January 2011 to October 2012. Main outcome measures: patient’s symptoms
alleviation, tympanic membrane healing, volume of mastoid cavity and whether the ear is dry or not.
Results: Of the 21 consecutive surgical patients, we noticed: there were complete ease up preoperative
symptoms, the tympanic membrane closed in 90% cases, the posterior wall was filled in 76%, and no ear
discharge was noticed 3 months post operatively.
Conclusion: It is likely that the technique reconstruction the posterior ear canal wall is an effectively and
safety ones.
Key words: Mastoidectomy, reconstruction posterior canal wall, tympanoplasty
xương chũm đã được lấy sạch, ống tai ngoài đã
ĐẶT VẤN ĐỀ
được mở rộng, sào bào, thượng nhĩ được mở
Sau phẫu thuật khoét rộng đá chũm kinh
thông ra ống tai ngoài khiến tình trạng viêm tai
điển, trong đó các bệnh tích trong tai giữa và
* BM Tai Mũi Họng ĐH Y Dược TPHCM
Tác giả liên lạc: PGS TS Phạm Kiên Hữu ĐT: 0903851569

164

Email:

Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
mạn tính ổn định, an toàn khỏi biến chứng cũng
như việc theo dõi, kiểm soát các đợt tái phát sau
mổ được dễ dàng hơn(7).
Tuy vậy, hố mổ chũm cũng gây nên một số
di chứng ảnh hưởng nặng nề đến chất lượng

sống và các chức năng của tai giữa như: giảm
sức nghe, tích tụ biểu bì, nhiễm trùng hố mổ
chũm, nhiểm nấm, ù tai chóng mặt khi đi xe
nhanh mà không che chắn tai…
Đã có nhiều kỹ thuật bít lấp hố mổ chũm đã
và đang được thực hiện nhằm làm giảm bớt các
triệu chứng khó chịu kể trên cho các bệnh nhân
có bệnh lý hố mổ chũm như: phẫu thuật bít lấp
hố mổ chũm bằng bột xương tự thân, bằng các
vạt mô mềm lấy từ cân-cơ thái dương như vạt
Palva, vạt Hong Kong. Ngoài ra, các tác giả khác
còn đề xuất một quy trình hoặc sử dụng một số
vật liệu ngoại lai như Hydroxy apatide, san hô
sinh học, ceramic, thuỷ tinh sinh học…(5,6).
Các vật liệu ngoại lại ty bước đầu chứng tỏ
được tính tương thích tốt, kết quả ban đầu là tốt,
tuy nhiên giá thành còn khá cao, một số vật liệu
không dễ dàng mua được trên thị trường trong
nước cũng như kết quả lâu dài của phẫu thuật
vẫn chưa được khảo sát rõ ràng.
Từ tháng 12 nămg 2011 đến nay, chúng tôi
đã thực hiện bít lấp hố mổ chũm bằng sụn hố
thuyền và xương chũm với mục tiêu thu nhỏ
hố mổ chũm và thực hiện chỉnh hình tai giữa
một thì, sau đây là các kết quả ban đầu thu
thập được.

ĐỐI TƯỢNG-PHƯƠNGPHÁP NGHIÊNCỨU
Đối tượng nghiên cứu
Các bệnh nhân viêm tai giữa mạn tính đã

được phẫu khoét rỗng đá chũm toàn phần.

Nghiên cứu Y học

Kỹ thuật mổ
Vô cảm mê toàn thân.
Tư thế bệnh nhân: nằm ngửa, tai hơi nghiêng
về phía phẫu thuật viên.
Rạch da: bắt đầu theo đường Shambaugh,
khi hố mổ chũm rộng thì đường rạch mở rộng ra
sau thành đường Heermann.
Bóc tách bộc lộ mặt ngoài xương chũm.
Trong trường hợp hố mổ trơn láng, lớp biểu
bì sẽ được tách ra khá dễ dàng, trong trường hợp
này cần bóc tách hết sức cẩn thận để giữ cho lớp
biểu bì này nguyên vẹn.
Nếu hố mổ không trơn láng, cần dùng khoan
mài láng hố mổ để bảo đảm lấy sạch biểu bì
trong các ngách, các tế bào còn sót lại.
Đo thể tích hố mổ chũm sau khi mài láng:
dùng ống tiêm bơm dung dịch nước muối sinh
lý vào hố mổ cho đến khi đầy.
Sau khi đã chuẩn bị vạt biểu bì và làm sạch
hổ mổ chũm, chúng tôi rạch da vành tai, bóc tách
lấy sụn của toàn bộ hố thuyền làm vật liệu để tái
tạo ống tai ngoài và bít hố mổ chũm.
Cắt mảnh sụn tạo hình ống tai ngoài.
Dùng mũi khoan đường kính 1mm tạo 2
rảnh trên xương thài dương ở 2 vị trí: đường thái
dương phía trên và mỏm chũm bên dưới.

Đặt mảnh sụn đã được cắt gọt thành ống tai
ngoài mới) vào vị trí, cạnh trên và cạnh dưới của
mảnh sụn nằm trong các rãnh xương vừa được
tạo ra.
Nếu thể tích hô mổ dưới 10ml:
Lấp khoảng trống giữa mảnh ống tai ngoài
mới và hố mổ chũm còn lại bằng sụng vành tai.
Nếu thể tích hố mổ khoảng 10-15ml:

Có các khó chịu do bệnh lý hố mổ chũm:
chảy tai tái phát, mùi hôi trong tai, chóng mặt
khi lái xe mà không che ống tai, không thể đeo
máy trợ thính…

Dùng đục 3mm thẳng, đục mặt ngoài xương
chũm thành những vẫy xương mỏng để xếp các
mảnh xương vừa được đục ra vào hố mổ nếu hố
mổ chũm quá rộng.

Phương pháp nghiên cứu

Nếu thể tích hố mổ>15ml ngoài sụn, xương
chúng tôi còn dùng thêm vạt mô mềm dưới da
sau tai (vạt Palva).

Tiến cứu, mô tả hàng loạt ca.

Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng

165



Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013

Nghiên cứu Y học

Đặt mảnh cân cơ thái dương dưới khung nhĩ
vá nhĩ kiểu underlay.
Trong trường hợp da hố mổ mỏng, rách
nhiều, không bảo đảm nuôi sống mô ghép,
chúng tôi lấy thêm một đảo da tự do vùng rảnh
sau tai để che lên ống tai ngoài mới.
Nhét spongel cố định mảnh ghép.
Khâu da 2 lớp.
Săn sóc sau mổ.
Bệnh nhân nằm lại viện 1 đêm. Sáng hôm
sau, sau khi được khám lại và dặn dò, bệnh nhân
được xuất viện.
Theo dõi, đánh giá sau mổ.
Bệnh nhân được hẹn tái khám định kỳ sau 1
tuần, 1 tháng, 3 tháng.
Mỗi lần khám, bệnh nhân được khám xem
có dấu hiệu nhiễm trùng, thải loại mô ghép, tình
trạng màng nhĩ và tình trạng của ống tai ngoài
(của hố mổ chũm) sau mổ.
Bảng 1: Đánh giá qua nội soi màng nhĩ.

Xấu

Tình trạng sau mổ

Lành, không có túi co lõm
Lành, có túi co lõm
Xóa góc trước (blunting)
Màng nhĩ tách khỏi xương búa
(Lateralization)
Thủng nhĩ

Trung bình
Xấu

Tình trạng sau mổ
Như bên lành (bình thường)
Hẹp ống tai ngoài
Ống tai ngoài rộng hơn bên lành (thu
hẹp >1/2 so với trước mổ)
Hở ống tai sụn phía dưới (gần xương
đe)
ống tai ngoài không thu hẹp được ½ so
với trước mổ
Tai không khô sau 3 tháng

KẾT QUẢ
Bảng 3: Sự thuyên giảm các triệu chứng cơ năng sau
mổ.
Triệu chứng

Hết

Chảy tai (N=30)


30

166

Chóng mặt khi lạnh
tai (N=17)
Hôi tai (N=25)

17

Ù tai khi đi xe
nhanh (N=4)

4

Giảm
nhiều


giảm

Không
giảm

25

Bảng 4: Phân bố theo thể tích hố mổ.
Thể tích
<10ml
10-15ml

>15 ml

Số BN
2
5
14

%
1
24
67

Bảng 5: Vật liệu bít lấp hố mổ chũm.

Sụn
Xương sụn
Xương +sụn+ vạt mô mềm

Số BN
13
3
5

%
62
18
24

Bảng 6: Tình trạng màng nhĩ sau mổ.
Màng nhĩ

Lành
Co lõm, blunting hoặc
lateralization
Không lành

Số BN
13
4

%
71
19

4

10

Thể tích
Như tai bên đối diện
ống tai ngoài rộng ra (thể
tích ố mổ có thu hẹp >1/2
so với trước mổ)
ống tai ngoài rộng ra, thể
tích có thu hẹp < 1/2 so với
trước mổ
Tai không khô sau 3 tháng

Số BN
8
8


%
38
38

5

24

0

0

BÀN LUẬN

Bảng 2: Ống tai ngoài.
Ống tai ngoài
Tốt
Khá (có 1 trong 3
tình trạng sau)

Hết

Bảng 7:Tình trạng hố mổ chũm/ống tai ngoài.

Tiêu chuẩn đánh giá kết quả.
Màng nhĩ
Tốt
Trung bình
(có 1 trong 3 tình

trạng sau)

Triệu chứng

Giảm
nhiều


giảm

Không
giảm

Phẫu thuật khoét rỗng đá chũm đã và đang
được thực hiện nhiều ở nước ta với một chỉ định
chủ yếu là: giảm các biến chứng của bệnh viêm
tai xương chũm mạn tính có tholesteatome. Sau
phẫu thuật, tuy phần lớn bệnh nhân được bảo vệ
an toàn khỏi các biến chứng nguy hiểm của bệnh
viêm tai xương chũm có cholesteatome, nhưng
hố mổ chũm cũng gây nên các khó chịu cho
người bệnh(1,2,3)..Do hiện tượng tưới máu lớp
thượng mô hố mổ chũm tưới máu kém, dịch tiết
dễ ứ đọng bên trong hố mổ chũm dễ gây nên
tình trạng nhiễm trùng hốmổ, bệnh nhân phải
tránh để nước chảy vào tai, ứ đọng nút biểu bì to
trong tai, ngửi thấy có mùi hôi trong tai, khó đeo

Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng



Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
máy trợ thính, cửa tai rộng gây mất thẩm mỹ…
Để giải quyết các phiền phức sau mổ cho
người bệnh, đã có nhiều công trình nghiên cứu
với mục tiêu giảm bớt thể tích hố mổ chũm(5,6).
Các vật liệu ghép để lấp đầy hố mổ chũm rất đa
dạng, từ mô mềm tự thân (như mô mỡ, cân cơ
thái dương sâu, mô mềm dưới da sau tai), mô
cứng (xương chũm, xương mào chậu, sụn hố
thuyền…), mô ghép ngoại lai (xương người đã
qua xử lý, hydroxy apatide, san hô, thủy tinh
sinh học…)(4).
Mỗi vật liệu sử dụng trong bít lấp hố mổ
chũm có các ưu và nhược điểm riêng, việc chọn
lựa các vật liệu ghép tùy theo kinh nghiệm của
từng phẫu thuật viên, tùy trường phái và tùy
tình trạng bệnh nhân; nói chung những vật liệu
sinh học thường có khuynh hướng teo dần làm
hố mổ rộng dần ra, nên các phẫu thuật viên có
khuynh hướng lấp đầy hơn để bù cho tình trạng
giảm dần kích thước mô ghép.
Trong công trình nghiên cứu, chúng tôi dùng
mô ghép chủ yếu là sụn hố thuyền tai cùng bên
và cân cơ thái dương, chúng tôi chỉ lấy mô
xương lấy từ mặt ngoài xương chũm cho những
trường hợp hố mổ chũm quá rộng, không đủ
sụn để lấp đầy.

tạo lại màng nhĩ mới. rút kinh nghiệm từ đây, ở

các trường hợp sau, chúng tôi thực hiện thay lớp
thượng bì này bằng vạt da tự do lấy từ sau tai và
đạt được kết quả rất tốt. Còn 2 trường hợp còn
lại là do phẫu thuật tai trong lúc tình trạng viêm
thượng bì hố mổ chũm vẫn chưa được ổn định,
quá trình lành thương kéo dài ảnh hưởng đến sự
di chuyển lớp thượng bì tới đóng lỗ thủng.

KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu trên 21 ca bước đầu cho
thấy phẫu thuật tái tạo thành sau ống tai bằng
sụn và xương có kết hợp vá màng nhĩ trên bệnh
nhân có bệnh lý hố mổ chũm là l một kỹ thuật an
toàn và hiệu quả trong việc giảm bớt các triệu
chứng cơ năng và là bước đầu cho các phẫu
thuật, sử dụng tốt các thiết bị phục hồi chức
năng thính giác về sau (tạo hình xương con, cấy
tai giữa, đeo máy trơ thính…) về sau

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.
4.

Trên thực tế các trường hợp hố mổ chũm
còn rộng là do chúng tôi còn thiếu kinh
nghiệm, chưa đánh giá được như vật liệu cấy
ghép đã đủ chưa.


5.

Trong 4 trường hợp màng nhĩ không lành có
2 trường hợp do chúng tôi giữ lại phần thượng
bì nằm sát màng nhĩ quá nhiều, phần này lớp
thượng bì bị teo đét, tưới máu kém, không thể tái

7.

Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng

Nghiên cứu Y học

6.

Guilford FR. (1960) Controlled cavity healing after mastoid and
fenestration operations. Arch Otolaryngol ; 71:165_171.
Minatogawa T, Machizuka H, Kumoi T. (1995) Evaluation of
mastoid obliteration surgery. Am J Otol ;16: 99_103.
Palva T. (1973) Operative technique in mastoid obliteration.
Acta Otolaryngol;75:289_290.
Schiller A. (1963) Mastoid osteoplasty, obliteration of mastoid
cavity using autogenous cancellous bone: final progress report.
Arch Otolaryngol;77:475_483.
Shea MC, Gardner G, Simpson ME. (1972) Mastoid obliteration
using homogenous bone chips and autogenous bone paste.
Trans Am Acad Ophthalmol Otolaryngol; 76:160_172.
Smith PG, Stroud MH, Goebel JA. (1986) Soft-wall
reconstruction of the posterior external ear canal wall.
Otolaryngol Head Neck Surg ;94:355_359.

Tokoro K, Chiba Y, Murai M, et al. (1996) Cosmetic
reconstruction
after
mastoidectomy
for
the
transpetrosalpresigmoid
approach:
technical
note.
Neurosurgery; 39:186_188.

167



×