Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Đánh giá sự thay đổi BIS trong gây mê TCI bằng propofol

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (411.29 KB, 6 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 

Nghiên cứu Y học

ĐÁNH GIÁ SỰ THAY ĐỔI BIS TRONG GÂY MÊ TCI BẰNG PROPOFOL 
Nguyễn Văn Chinh*, Nguyễn Văn Chừng* 

TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Theo dõi chỉ số độ mê (BIS) và gây mê tĩnh mạch kiểm soát nồng độ đích (TCI) bằng thuốc gây 
mê Propofol là những kỹ thuật mới, có nhiều tiến bộ đã được chứng minh trong các nghiên cứu ở các nước. Các 
kỹ thuật mới được áp dụng tại Việt Nam. Hiện tại, thực tế trên lâm sàng chúng ta theo dõi các yếu tố như: nhịp 
tim, huyết áp, nhịp thở, độ sâu hô hấp, trương lực cơ, chảy nước mắt, dấu hiệu của nhãn cầu,…để đánh giá mức 
độ mê của bệnh nhân. Nhưng các yếu tố này không trực tiếp và không cụ thể mà có thể thay đổi tùy theo bệnh lý, 
thuốc dùng và tình trạng phẫu thuật. Phần lớn cũng thay đổi tùy theo mỗi bệnh nhân.  
Mục tiêu: Nghiên cứu nhằm đánh giá sự thay đổi chỉ số BIS trong gây mê tĩnh mạch TCI bằng Propofol. 
Phương pháp: Nghiên cứu tiền cứu, thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên trên 70 bệnh nhân trong thời gian 
từ 7/2011 đến 07/2013. Các bệnh nhân được gây mê toàn diện để phẫu thuật. Mạch, huyết áp, nhịp thở và tình 
trạng sức khỏe của bệnh nhân được theo dõi trước và sau khi gây mê. Theo dõi chặt chẽ trong và sau phẫu thuật 
để phát hiện và xử trí kịp thời những tai biến biến chứng xảy ra. 
Kết quả: Thời gian mất ý thức: 82,14 ± 10,42 giây. Mất ý thức tại thời điểm: Cp: 1,42 ± 0,27 mcg/ml, BIS: 
63,66 ± 5,53. Giai đoạn khởi mê: liều Propofol: 1,47 ± 0,06 mg/kg, BIS: 44,11 ± 2,63. Giai đoạn duy trì mê: Cp: 3 
mcg/ml, BIS: 40 – 60. Gây mê kiểm soát nồng độ đích: liều khởi mê thấp, mất ý thức nhanh, khởi mê êm dịu, thời 
gian hồi tỉnh ngắn, trong quá trình gây mê BIS ổn định và ít thay đổi huyết động. Không ghi nhận các tác dụng 
phụ, tai biến và các biến chứng quan trọng.  
Kết luận: Gây mê kiểm soát nồng độ đích bằng Propofol là phương pháp gây mê an toàn và hiệu quả cho 
phẫu thuật. Sự theo dõi chặt chẽ độ mê BIS trong quá trình gây mê kiểm soát nồng độ đích sẽ góp phần cho sự 
thành công cuộc gây mê.  
Từ  khóa:  Gây mê kiểm soát nồng độ đích (TCI), đánh giá độ sâu trong gây mê (BIS), nồng độ thuốc mê 
trong huyết tương (Cp), nồng độ thuốc mê tại đích tác dụng (Ce). 

ABSTRACT 


EVALUATION A CHANGE OF BIS IN PROPOFOL TCI ANESTHESIA  
Nguyen Van Chinh, Nguyen Van Chung 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 4 ‐ 2013: 66 ‐ 71 
Introduction: BIS (Bispectral Index) and Propofol TCI (Target Controlled Infusion) anesthesia, which have 
been  appreciated  in  foreign  research,  are  a  newly  applicated  techniques  for  anesthesia  in  Vietnam.  In  today’s 
clinical practice: Heart rate, blood pressure, respiratory rate, rhythm & depth, muscle tone, tears, ocular signs,… 
are all used for monitoring anaesthetic adequacy. All are indirect & non‐specific & may vary over a wide range 
depending on disease, drugs and surgical technique. There is also large inter‐patient variability.  
Objectives:  This  study  is  performed  to  evaluate  a  change  of  Bispectral  Index  (BIS)  in  target  controlled 
infusion (TCI) anesthesia.  
Methods:  Prospective  study  on  70  patients  from  July  2011  to  July  2013.  All  of  them  have  undergone 
general anesthesia. Pulse, blood presure, resspiratory rate and health status of the patients were monitored right 
* Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh 
Tác giả liên lạc: TS.BS Nguyễn Văn Chinh ‐ ĐT: 0903885497 ‐ Email:   

Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học

67


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013

before and after anesthesia. Close careful monitoring during and after the operation must be applied in order to 
detect and manage in time complications. 
Results:  Loss of consciousness time: 82,14 ± 10,42 sec. Loss of consciousness at Cp: 1.42 ± 0.27 mcg/ml, 
BIS: 63.66 ± 5.53. Induction: Propofol doses: 1.47 ± 0.06 mg/kg, BIS: 44.11 ± 2.63. Maintenance: Cp: 3 mcg/ml, 
BIS:  40  –  60.  TCI  had  lower  induction  doses,  quick  loss  of  consciousness,  smooth  inductions,  short  recovery 
times, stable BIS and less hemodynamic changes in anesthesia. Side‐effects, accidents and complications were not 

noted. 
Conclusions: Propofol target controlled infusion is safe and effective. Close careful BIS monitoring during 
target controlled infusion will contribute to succesful method. 
Keywords:  Target  Controlled  Infusion  (TCI),  Bispectral  Index  (BIS),  Plasma  Concentration  (Cp),  Effect 
Concentration (Ce).  
tôi  thực  hiện  đề  tài  “Đánh  giá  sự  thay  đổi  BIS 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
trong gây mê TCI bằng propofol”, với mục tiêu  
Có  nhiều  phương  pháp  vô  cảm  cho  bệnh 
Đánh giá sự thay đổi chỉ số BIS trong gây mê 
nhân  khi  phẫu  thuật.  Phương  pháp  gây  mê  là 
tĩnh mạch TCI. 
phương  pháp  phổ  biến,  được  áp  dụng  từ  lâu 
Khảo sát sự thay đổi huyết động theo chỉ số 
trong  chuyên  ngành  gây  mê  hồi  sức.  Phương 
BIS qua các giai đoạn trong gây mê. 
pháp này có thể dùng các loại thuốc mê hô hấp 
hay  thuốc  mê  tĩnh  mạch  phối  hợp  với  các  loại 
thuốc giảm đau trung ương và thuốc dãn cơ để 
duy trì mê nhằm đảm bảo bệnh nhân được giảm 
đau,  dãn  cơ  và  ngủ  đủ  độ  mê  trong  suốt  quá 
trình phẫu thuật. 
Phương  pháp  gây  mê  tĩnh  mạch  kiểm  soát 
nồng  độ  đích  (TCI)  ra  đời  trong  thời  gian  gần 
đây  đã  cho  thấy  những  lợi  điểm  như:  an  toàn, 
ổn  định  huyết  động  và  nhất  là  ổn  định  độ  mê 
qua việc theo dõi được nồng độ thuốc trong não. 
Hệ thống TCI điều khiển bằng vi tính giúp kiểm 
soát  quá  trình  gây  mê  hiệu  quả  và  liên  tục. 
Phương pháp này cho phép người gây mê chọn 

và điều chỉnh nồng độ thuốc mê ở đích tác dụng 
là não để kiểm soát độ mê. Hơn nữa khắc phục 
các  nhược  điểm  của  các  loại  thuốc  mê  hô  hấp 
như: ô nhiễm môi trường phòng mổ, gây sốt cao 
ác  tính,…Vì  vậy  phương  pháp  này  đang  được 
nhiều  nhà  gây  mê  quan  tâm  và  chọn  lựa.  Tuy 
nhiên, liệu phương pháp này có thật sự an toàn 
và  kiểm  soát  độ  mê  tốt?  Phương  pháp  này  có 
những tác dụng không mong muốn gì? Chính vì 
những câu hỏi trên mà khi bệnh viện trang bị hệ 
thống  theo  dõi  độ  mê  (BIS),  một  công  cụ  cho 
phép  người  gây  mê  điều  chỉnh  độ  mê  theo  các 
thông số hiển thị trên máy theo dõi, nên chúng 

68

Ghi  nhận  những  tác  dụng  không  mong 
muốn của phương pháp này 

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Thiết kế nghiên cứu 
Nghiên cứu tiền cứu, thử nghiệm lâm sàng. 

Đối tượng nghiên cứu 
Những  bệnh  nhân  được  gây  mê  để  phẫu 
thuật tại bệnh viện Đại học Y Dược và bệnh viện 
Nguyễn Tri Phương TP. Hồ Chí Minh từ tháng 
07/2011 đến tháng 07/2013. 

Kỹ thuật chọn mẫu 

Tiêu chuẩn nhận 
Chỉ định gây mê toàn diện mổ chương trình. 
Bệnh nhân thuộc nhóm ASA I, II, III 
Tuổi từ 16 tuổi trở lên. 

Tiêu chuẩn loại 
Đang tình trạng sốc. 
Suy tim, suy gan, suy thận. 
Có bệnh lý thần kinh, tâm thần. 
Đang dùng thuốc có tác dụng tương tác với 
thuốc mê. 
Cuộc mổ dự kiến kéo dài.  

Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 
Phương tiện và phương thức tiến hành 
Thuốc  và  dịch  truyền:  thuốc  mê,  thuốc  cấp 
cứu,  dịch  truyền  dùng  trong  gây  mê  hồi  sức 
thông thường. 
Phương  tiện  gây  mê,  theo  dõi  và  hồi  sức: 
dụng cụ đặt nội khí quản, máy gây mê, nguồn 
dưỡng  khí,  ống  nghe  tim  phổi,  máy  đo  HA 
động  mạch,  nhiệt  độ,  kim  luồn  20G,  18G,  … 
Máy  monitor  theo  dõi  các  thông  số  trong  gây 
mê hồi sức… 

Nghiên cứu Y học


trong  quá  trình  duy  trì  mê  và  giai  đoạn  hồi 
tĩnh...  Tất  cả  các  số  liệu  đều  được  ghi  lại  trong 
phiếu theo dõi nghiên cứu và nhập vào máy vi 
tính.  Quản  lý  và  xử  lý  tất  cả  các  số  liệu  theo 
chương trình SPSS 13.0. 
Tính tần suất và tỷ lệ phần trăm cho các biến 
định tính. 
Tính trị số trung bình và độ lệch chuẩn cho 
các biến liên tục. Các chỉ số được biểu hiện bằng 
số trung bình ± độ lệch chuẩn. 

Dụng  cụ  chuyên  dùng:  bơm  tiêm  điện  liên 
tục TCI, máy theo dõi độ mê BIS. 

Tính  trị  số  P  value  và  khác  biệt  có  ý  nghĩa 
thống kê khi p < 0,05. 

Thăm khám và chuẩn bị bệnh nhân như khi 
gây mê ‐ phẫu thuật thông thường. 

KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN 

Chuẩn  bị  trang  thiết  bị,  dụng  cụ  và  thuốc 
men đầy đủ: máy TCI, BIS. 
Dán  các  điện  cực  theo  dõi  BIS,  khởi  động 
máy để ghi nhận tình trạng tri giác bệnh nhân, 
các tín hiệu điện não đồ dạng sóng (EEG), Điện 
cơ đồ (EMG), Chỉ số chất lượng tín hiệu (SQI)… 
Thực hiện phương pháp gây mê toàn diện với 
Tiền  mê:  Midazolam  0,04  –  0,05  mg/kg  và 

Fentanyl 2 – 3 mcg/kg 
Thở dưỡng khí 3‐5 phút trước khởi mê. 
Propofol TCI: cài Cp: 6mcg/ ml 
Rocuronium: 0,3‐0,6 mg/kg. 
Tiến  hành  đặt  mask  thanh  quản  proseal 
(PLMA) hay NKQ khi Ce: 3,5 – 4mcg/ml. 
Duy  trì  mê:  Giảm  Cp:  3mcg/  ml  sau  đặt 
PLMA  hay  NKQ,  thở  máy,  Fentanyl  và 
Rocuronium. 
Duy trì huyết động học ổn định trong phẫu 
thuật. 
Theo  dõi  bệnh  nhân  trong,  sau  gây  mê  ‐ 
phẫu thuật tới cho tới khi người bệnh xuất viện, 
xử lý tình huống bất thường xảy ra. 

Thu thập và xử lý số liệu 
Dữ  liệu  nghiên  cứu:  tuổi,  giới,  cân  nặng, 
bệnh kèm theo, tình trạng thay đổi huyết động 
qua các giai đoạn gây mê như: trước khi tiền mê, 
trước  khi  khởi  mê,  sau  khi  đặt  nội  khí  quản, 

Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học

Từ tháng 07/2011 đến tháng 07/2013tại bệnh 
viện  Đại  học  Y  Dược  cơ  sở  1  và  bệnh  viện 
Nguyễn Tri Phương TP. Hồ Chí Minh. Kết quả 
thu thập và phân tích như sau 

Đặc điểm chung 
Bảng 1 

Đặc điểm chung
Tuổi bệnh nhân
Cân nặng (kg)
Chiều cao (cm)
N

Trung bình ± độ lệch chuẩn
47,21 ± 5,52
53,17 ± 8,63
151,06 ± 12,13
54

Về đặc điểm chung: Tuổi bệnh nhân trung 
bình  47,21  ±  5,52  tuổi,  cân  nặng  trung  bình 
53,17  ±  8,63  và  chiều  cao  trung  bình  151,06  ± 
12,13  (bảng  1),  không  khác  biệt  so  với  các  tác 
giả  khác,  mẫu  nghiên  cứu  này  chúng  tôi  áp 
dụng trên 54 bệnh nhân, tuy mẫu  nghiên  cứu 
không  nhiều  nhưng  vì  bước  đầu  bệnh  viện 
được  trang  bị  cả  2  lọai  máy  TCI  và  BIS,  đồng 
thời  chưa  cung  cấp  nhiều  những  điện  cực  đo 
BIS  (hơn  20  USD  cho  1  bộ  điện  cực)  nên  có 
những trường hợp chúng tôi dùng đi dùng lại 
nhiều  lần  loại  điện  cực  miễn  sao  các  tín  hiệu 
đo còn tốt. Quan trọng là sau mỗi bệnh nhân, 
chúng tôi bảo quản các điện cực thật tốt bằng 
cách  giữ  lại  các  vỏ  bao  điện  cực  để  bảo  quản 
điện cực sau mỗi lần dùng và lau sạch vùng da 
sẽ  dán  các  điện  cực  bằng  cồn,  vừa  tránh  dơ 
điện cực vừa có tính hiệu tốt cho mỗi lần đo. 


69


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013

Các bệnh kèm theo 
 Bảng 2: Bệnh kèm theo 

chất  chính,  tính  ưu  việt  của  mỗi  loại  thuốc  với 
liều lượng thích hợp của từng loại thuốc để hạn 
chế  những  tác  dụng  không  mong  muốn  của 
những thuốc này.  

Bệnh kèm theo
Tuần hoàn
Hô hấp
Tiểu đường
Bệnh khác

Số TH
5
2
4
3

Tỷ lệ %
9,25

3,70
7,41
5,56

Kết quả thăm khám trước mổ cho thấy tỷ lệ 
bệnh  nhân  mang  những  bệnh  kèm  như  tim 
mạch có 5 TH (9,25%) như: cao huyết áp, thiếu 
máu cơ tim, rối loạn nhịp tim; bệnh hô hấp như: 
COPD, hen suyễn: có 2 bệnh nhân (3.7%); bệnh 
tiểu  đường:  4  TH  (7,41%)  và  bệnh  khác:  3  TH 
(5,56%)  (bảng  2).  Theo  y  văn,  chỉ  riêng  những 
vấn đề bệnh lý kèm theo này đã gây nhiều khó 
khăn  trong  công  tác  gây  mê  hồi  sức  nhằm  giữ 
vững  độ  an  toàn  cho  bệnh  nhân,  chưa  kể  đến 
tình  trạng  bệnh  lý  mà  bệnh  nhân  đang  có  cần 
phải phẫu thuật. (6) 
Thuốc mê tĩnh mạch Propofol, chúng tôi sử 
dụng  trong  100%  các  TH,  là  thuốc  gây  giảm 
huyết áp động mạch đáng kể nên khi dùng cần 
chú  trọng  về  đặc  điểm  này  và  nên  bắt  đầu  với 
liều lượng thấp và tăng lên từ từ để đạt được kết 
quả  mong  muốn,  tuy  nhiên  với  kích  thích  khi 
đặt nội khí quản hoặc phẫu thuật có thể làm đảo 
ngược  tác  dụng  dãn  mạch  của  Propofol,  thêm 
vào đó Propofol được biến dưỡng nhanh, ít gây 
tích lũy thuốc và khi ngưng cung cấp thuốc thì 
bệnh nhân sẽ tĩnh dậy trong thời gian ngắn cũng 
như sự phục hồi tri giác hoàn toàn so với những 
thuốc  khác.  Hơn  nữa,  trong  nghiên  cứu,  chúng 
tôi  sử  dụng  phương  pháp  gây  mê  tĩnh  mạch 

kiểm soát nồng độ đích (TCI), vừa phát huy tác 
dụng tối ưu của Propofol, vừa hạn chế tối đa tác 
dụng phụ của thuốc này. Với những chất thuốc 
mê, nhất là thuốc an thần Midazolam giúp cho 
người  bệnh  đi  vào  một  giấc  mê  êm  dịu,  ít  xáo 
trộn  huyết  động,  lại  có  tính  làm  quên  thuận 
chiều rất cao sẽ giúp ổn định được hệ thần kinh 
cao cấp, hệ thần kinh tự trị. Vì vậy, một cuộc gây 
mê  muốn  đạt  được  cùng  lúc  nhiều  mục  đích: 
giảm  đau,  dãn  cơ,  an  định  thần  kinh…  trong 
hoàn cảnh hiện tại chỉ có phương pháp gây mê 
phối hợp nhiều loại thuốc để sử dụng được tính 

70

Thời điểm mất ý thức 
Bảng 3 
Nghiên cứu
Chúng tôi
Macquaire,
Absalom và
Struys

Cp
(mcg/ml)

Giá trị BIS

Thời gian mất
ý thức


1,42 ± 0,27 63,66 ± 5,53 82,14 ± 10,42
1,4 – 1,9

68,37 ± 8,22

90 - 110

Thời  điểm  mất  ý  thức  (bảng  3):  Chúng  tôi 
nhận thấy nồng độ huyết tương (Cp) làm mất ý 
thức  trong  nghiên  cứu  này  là  1,42  ±  0,27  tương 
đương  những  nghiên  cứu  khác  như  Macquaire 
(5),  Absalom  (1)  và  Struys  (10)  là  1,4  –  1,9.  So 
sánh  giá  trị  BIS  của  nghiên  cứu  chúng  tôi  là 
63,66  ±  5,53,  trong  khi  của  Macquaire  (5), 
Absalom  (1)  và  Struys  (10)  là  68,37  ±  8,22.  Sự 
khác biệt này không có  ý  nghĩa  thống  kê  với  P 
>0,05. Về thời gian mất ý thức trong nghiên cứu 
chúng  tôi  thấp  hơn  so  với  các  tác  giả  khác  với 
82,14 ± 10,42 giây và 90 – 110 giây, có lẽ do thể 
trạng chung bệnh nhân chúng tôi nhỏ hơn bệnh 
nhân các nước phương tây. 

Giai đoạn khởi mê 
Bảng 4 
Nghiên cứu
Chúng tôi
Macquaire
Struys


Liều Propofol
(mg/kg)
1,47 ± 0,06
1,41 ± 0,09
1,31 ± 0,11

Giá trị BIS
44,11 ± 2,63
40 – 60
40 – 60

Giai  đoạn  khởi  mê  (bảng  4):  Liều  khởi  mê 
của Propofol trong nghiên cứu chúng tôi là 1,47 
± 0,06 thấp hơn so với việc dùng không có kiểm 
soát nồng độ đích, nghĩa là liều khởi mê  thông 
thường  chúng  tôi  dùng  là  2  –  2,5mg/kg.  Điều 
này cũng  phù  hợp  theo  nghiên  cứu  của  các  tác 
giả Macquaire(5) và Struys(10) 1,41 ± 0,09 và 1,31 ± 
0,11. Giá trị BIS cũng tương đương nhau và nằm 
trong giới hạn cho phép là 44,11 ± 2,63. Điều này 
cho  thấy  khởi  mê  với  TCI  nhanh,  êm  dịu,  an 
toàn  và  tiết  kiệm  thuốc  mê  hơn  so  với  phương 
pháp khởi mê tĩnh mạch thông thường, điều này 

Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 

Nghiên cứu Y học


cũng  được  khẳng  định  bởi  nghiên  cứu  của  các 
tác  giả  Châu  Thị  Mỹ  An,  Nguyễn  Ngọc  Anh, 
Nguyễn Văn Chừng(2), và Ngô Văn Chấn, Phan 
Tôn Ngọc Vũ, Nguyễn Văn Chừng(7). 

HA trung
bình

SpO2

10,6 ± 1,8

99,1 ± 2,7

Giai đoạn duy trì mê 
Bảng 5 
Nghiên cứu
Chúng tôi
Irwin
Ngai Liu
Struys

Cp (mcg/ml)
3
3,82
3,8
5,4

Giá trị BIS

40 – 60
45
40 – 60
40 – 60

Giai  đoạn  duy  trì  mê  (bảng  5):  nghiên  cứu 
của chúng tôi chọn lựa nồng độ duy trì mê Cp: 3 
mcg/ml  thấp  hơn  so  với  các  nghiên  cứu  khác 
như Irwin(3) Cp: 3,82mcg/ml, của Ngai Liu(6) Cp: 
3,8  mcg/ml  và  của  Struys(10)  Cp:  5,4  mcg/ml 
nhưng tất cả nghiên cứu trên đều có giá trị BIS 
nằm trong khoảng 40 – 60. Đặc điểm này chứng 
tỏ  gây  mê  TCI  giúp  ổn  định  nồng  độ  thuốc  ở 
não hơn nên an toàn hơn và tránh được những 
trường hợp gây mê quá nông hay  quá  sâu  đều 
không tốt cho bệnh nhân(8). 

Giai đoạn thức tỉnh 
Bảng 6 
Nghiên cứu
Chúng tôi
Leslie
Sandin

Khả năng thức tỉnh và nhớ lại sau mổ
Không BN nào thức tỉnh trong mổ và nhớ
lại sau mổ
Mức Cp mất ý thức sẽ loại bỏ khả năng
nhớ lại sau mổ
Nhớ lại trong gây mê khoảng 0,16%


Giai đoạn thức tỉnh (bảng 6): nghiên cứu của 
chúng tôi không bệnh nhân nào thức tỉnh trong 
mổ và nhớ lại sau mổ. Trong khi nghiên cứu của 
Leslie(4): mức Cp mất ý thức sẽ loại bỏ khả năng 
nhớ  lại  sau  mổ  và  nghiên  cứu  của  Sandin(9)  thì 
nhớ lại trong gây mê khoảng 0,16%. Điểm chung 
của các nghiên cứu là gây mê TCI ngưng truyền 
thuốc  mê  là  bệnh  nhân  tỉnh  nhanh  và  êm  dịu. 
Hơn nữa, bản thân thuốc Propofol cũng là thuốc 
mê tĩnh mạch có tác dụng nhanh, mau ngủ, mau 
tỉnh,  kết  hợp  với  kỹ  thuật  TCI  thì  vừa  ổn  định 
nồng độ thuốc vừa giảm nguy cơ tích lũy thuốc 
mê nên càng  phù  hợp  để  chọn  lựa  gây  mê  cho 
bệnh nhân(2). 

Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học

Thay đổi huyết động trong các giai đoạn mê 
Bảng 7 
Thay đổi huyết
Mạch
động
Trước khi tiền mê 71,6 ± 2,6
Trước khi khởi mê 73,5 ± 2,8

9,7 ± 1,5

99,2 ± 3,1


Sau khi đặt NKQ

81,6 ± 4,1

9,6 ± 1,4

99,5 ± 3,3

Trước rạch da

74,6 ± 2,9

8,6 ± 1,1

99,2 ± 3,1

Sau rạch da

77,8 ± 3,4

8,7 ± 1,1

99,0 ± 2,6

Trong duy trì mê

76,6 ± 3,2

10,8 ± 1,9


98,5 ± 2,1

Giai đoạn hồi tỉnh 87,5 ± 4,9

9,7 ± 1,5

97,2 ± 2,0

Thay đổi sinh hiệu qua các giai đoạn gây mê 
như tiền mê, khởi mê, sau đặt nội khí quản, duy 
trì mê và giai đoạn hồi tỉnh (bảng 7) không có ý 
nghĩa thống kê, nghiên cứu chúng tôi không có 
trường hợp nào thay đổi huyết động quá 20% so 
với ban đầu. điều này cũng phù hợp theo các tác 
giả  Macquaire(5)  (15,2%).  Theo  Struys(10)  thì  sự 
biến đổi huyết động ở nhóm TCI ít hơn gây mê 
không  kiểm  soát  nồng  độ  đích  là  19,7%  so  với 
28,8% (p<0,05). 

KẾT LUẬN 
Kết  quả  nghiên  cứu  cho  thấy  Gây  mê  kiểm 
soát  nồng  độ  đích  (TCI)  có  chỉ  số  BIS  ổn  định, 
phù  hợp  với  độ  mê  qua  các  giai  đoạn  gây  mê. 
Các  chỉ  số  huyết  động  ổn  định  theo  giá  trị  BIS 
trong suốt quá trình mổ. Ngoài ra, với việc chọn 
nồng độ Cp và Ce thích hợp, TCI sẽ là phương 
pháp  khởi  mê  nhanh,  êm  dịu,  duy  trì  mê  ổn 
định,  kiểm  soát  tốt  độ  sâu  gây  mê,  không  thức 
tỉnh và cử động trong lúc gây mê. Đồng thời, dự 
đoán  được  thời  gian  hồi  tỉnh  và  không  gây  ô 

nhiểm môi trường. Đây là phương pháp gây mê 
an toàn và hiệu quả cho phẫu thuật. 

TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.

2.

3.

4.

Absalom  AR,  Sutcliffe  N,  Kenny  GN  (2002),  “Closed  –  loop 
control of anesthesia using bispectral index”, Anesthesiology. 
96 (1), pp. 67 – 73.  
Châu  Thị  Mỹ  An,  Nguyễn  Ngọc  Anh,  Nguyễn  Văn  Chừng 
(2010), “Nghiên cứu hiệu quả của gây mê tĩnh mạch tòan diện 
bằng  Propofol  kiểm  soát  nồng  độ  đích  trong  phẫu  thuật 
bụng”. Y học TP Hồ Chí Minh; 14 (1), tr. 204 ‐ 210 
Irwin MG, Hui TWC, Milne SE, Kenny GN (2002), “Propofol 
effective  concentration  50  and  its  relationship  to  bispectral 
index”, Anesthesia. 57, pp. 242 – 248 
Leslie K, Sessler DI, Schroeder M, Walters K (1995), “Propofol 
blood  concentration  and  the  bispectral  index  predict 

71


Nghiên cứu Y học 


5.

6.

7.

8.

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013

suppression of learning during propofol”, Anesth Analg. 81, 
pp. 1269 – 1274. 
Macquaire  V  et  al  (2002),  “Target  ‐  controlled  infusion  of 
propofol  induction  with  or  without  plasma  concentration 
constraint  in  high  –  risk  adult  patients  undergoing  cardiac 
surgery”, Acta Anesth Scand, 46 (8), pp. 1010 – 1016.  
Ngai Liu, Chazot T, Genty A, Landais A (2006), “Titration of 
propofol for anesthetic induction and maintenance guided by 
the  bispectral  index:  closed  –  loop  versus  manual  control”, 
Anesthesiology. 104, pp. 686 – 695.  
Ngô  Văn  Chấn,  Phan  Tôn  Ngọc  Vũ,  Nguyễn  Văn  Chừng 
(2010), “Sử dụng gây mê tĩnh mạch kiểm soát nồng độ đích 
(TCI) trong phẫu thuật nội soi lồng ngực”. Y học TP Hồ Chí 
Minh; 14 (1), tr. 199 – 203 
Phạm  Văn  Hùng,  Nguyễn  Anh  Tuấn,  Phan  Tôn  Ngọc  Vũ 
(2012),  “Đánh  giá  hiệu  quả  và  an  toàn  của  sử  dụng  mặt  nạ 

9.

10.


thanh quản Proseal với gây mê tĩnh mạch kiểm soát nồng độ 
đích  Propofol  cho  phẫu  thuật  cắt  hạch  thần  kinh  giao  cảm 
ngực nội soi”. Y học TP Hồ Chí Minh; 16 (2), tr. 84 ‐ 89 
Sandin RH, Enlund G, Samuelsson P, Lennmarken C (2000), 
“Awareness  during  anesthesia:  a  prospective  case  study”, 
Lancet. 355, pp. 707 – 711. 
Struys M (2000), “Comparison of plasma compartment versus 
two  methods  for  effect  compartment  target  controlled 
infusion for propofol”, Anesthesiology. 92 (2), pp. 399 – 460.  

 
Ngày nhận bài 
 
 
Ngày phản biện nhận xét bài báo 
Ngày bài báo được đăng: 
 
 

 29/07/2013. 
 04/09/2013. 
18/10/2013 

 

72

Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học  




×