Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Đặc điểm bệnh nhân đái tháo đường bị hạ đường huyết tại Bệnh viện Đa khoa Tiền Giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (377.24 KB, 7 trang )

Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 5 * 2014

ĐẶC ĐIỂM BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG  
BỊ HẠ ĐƯỜNG HUYẾT TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TIỀN GIANG 
 Nguyễn Thị Ngọc Tiến*, Tạ Văn Trầm** 

TÓM TẮT 
Đặt  vấn  đề:  Tai biến hạ đường huyết (HĐH) ở bệnh nhân đái tháo đường (ĐTĐ) là vấn đề đáng được 
quan tâm. 
Mục  tiêu:  Mô  tả  đặc  điểm  của  nhóm  bệnh  nhân  ĐTĐ  đang  điều  trị  bằng  thuốc  HĐH  dạng  uống  hay 
insulin, bị HĐH phải nhập viện. Khảo sát các đặc điểm HĐH. 
Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang mô tả. 
Kết quả: Tuổi trung bình: 70,09 ± 11,09 tuổi, nữ chiếm 67,1%; đường huyết gần đạt mục tiêu điều trị với 
HbA1c trung bình là 7,1%; cao huyết áp chiếm 71%. 57,9% bệnh nhân đã từng HĐH trước đó. HĐH mức nặng 
chiếm 76,3%. 79,8% không được sơ cứu trước khi nhập viện và 70,5% thiếu kiến thức về cách phát hiện, xử lý 
tình trạng HĐH. 
Kết luận: Đa số bệnh nhân thiếu kiến thức về cách phát hiện và xử lý HĐH. 
Từ khóa: Hạ đường huyết, đái tháo đường. 

ABSTRACT  
CHARACTERISTICS OF HYPOGLYCEMIA IN DIABETIC PATIENT 
 IN TIEN GIANG GENERAL HOSPITAL 
Nguyen Thi Ngoc Tien, Ta Van Tram 
 * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 5‐ 2014: 60 ‐ 66 
Background: Hypoglycemia in patients with diabetes mellitus is a matter of concern.  
Objective:  Characterization  of  diabetic  patients  being  treated  with  oral  medication  or  insulin  that  being 
hypoglycemia was hospitalized; survey characteristics hypoglycemia. 
Methods: Descriptive cross‐sectional study. 
Results: Mean age: 70.09 ± 11.09 years, women accounted for 67.1%; close to achieving glycemic treatment 


with average HbA1c of 7.1%; hypertension accounted for 71%. 57.9% of patients had previous hypoglycemia. 
Severe hypoglycemia accounted for 76.3%. 79.8% of whom do not get aid before admission and 70.5% lack of 
knowledge about how to detect and handle the hypoglycemia. 
Conclusion: Most patients lack knowledge about how to detect and handle the hypoglycemia 
Keywords: Hypoglycemia, diabetes 

ĐẶT VẤN ĐỀ 
Trên  thế  giới  hiện  nay,  khi  chúng  ta  đang 
chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh 
tế  và  khoa  học  ‐  kỹ  thuật  nhằm  giúp  nâng  cao 
chất  lượng  cuộc  sống  thì  nhân  loại  lại  phải 
đương  đầu  với  sự  xuất  hiện  ngày  càng  nhiều 
những căn bệnh mạn tính đe dọa sức khỏe, tính 
mạng con người, trong đó có bệnh ĐTĐ. 
* Trường Cao đẳng Y tế Tiền Giang 
Tác giả liên lạc: PGS.TS Tạ Văn Trầm 

60

Bệnh  ĐTĐ  là  một  thách  thức  lớn  đối  với  y 
học cũng như cho cộng đồng do số lượng người 
mắc bệnh ngày càng tăng nhanh và những biến 
chứng nặng nề kèm theo. Theo Liên đoàn ĐTĐ 
Thế giới (IDF: International Diabetes Federation) 
năm  2013,  thế  giới  hiện  có  khoảng  382  triệu 
người mắc bệnh ĐTĐ (8,3% dân số), đã tăng gấp 
3 lần so với năm 2010 và dự kiến đến năm 2035 

** Sở Y tế Tiền Giang 
ĐT: 0913 771 779


Email:

Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 5 * 2014 
sẽ tăng lên 55% đạt đến số người mắc bệnh ĐTĐ 
là  592  triệu  người  (10,1%).  Gánh  nặng  do  bệnh 
ĐTĐ  gây  ra  ngày  một  tăng,  đặc  biệt  là  ở  các 
nước có thu nhập thấp và trung bình, cứ 4 trong 
5 người mắc bệnh thì thuộc những quốc gia này 
và  Việt  Nam  là  một  trong  những  nước  đó.  Tại 
Việt  Nam,  bệnh  viện  Nội  tiết  Trung  ương  đã 
công bố tỉ lệ mắc bệnh ĐTĐ tăng gấp 2 lần trong 
10  năm  qua  (năm  2002  là  2,7%  đến  2012  là 
5,78%). Đây là con số đáng báo động vì theo xu 
hướng chung tỉ lệ này cần phải mất 15 năm mới 
tăng gấp đôi. 
Bệnh  ĐTĐ  trong  giới  y  học  gọi  là  “kẻ  giết 
người thầm lặng” do diễn tiến bệnh thường âm 
ỉ,  chỉ  được  phát  hiện  khi  xuất  hiện  các  biến 
chứng  trên  thần  kinh,  tim  mạch  và  thị  giác.  Y 
học ngày nay đã tạo ra được nhiều nhóm thuốc 
điều  trị  mang  lại  hiệu  quả  đáng  khích  lệ.  Tuy 
nhiên, vẫn còn một số vấn đề đáng để chúng ta 
quan tâm, đặc biệt là tai biến HĐH với các triệu 
chứng run tay chân, vã mồ hôi, trầm trọng hơn 
là hôn mê hay tử vong. Theo nghiên cứu Accord, 
sự xuất hiện HĐH nặng là một trong những yếu 

tố dự báo mạnh nhất của tai biến tim mạch. Như 
vậy,  tai  biến  HĐH  không  chỉ  ảnh  hưởng  sức 
khỏe  mà  còn  tăng  chi  phí  điều  trị,  tăng  gánh 
nặng cho bệnh nhân, gia đình, tạo cảm giác căng 
thẳng.  Từ  đó  dễ  dẫn  đến  các  tác  động  tiêu  cực 
trong  quản  lý,  điều  trị  bệnh  ĐTĐ  khiến  bệnh 
nhân không tuân thủ điều trị và sự miễn cưỡng 
tăng cường điều trị ở các nhân viên y tế.  
Nhằm mục đích hỗ trợ cho việc điều trị bệnh 
ĐTĐ  đạt  hiệu  quả  cao,  an  toàn  và  hạn  chế  đến 
mức thấp nhất tai biến HĐH mà căn bệnh này có 
thể  gây  ra,  chúng  tôi  tiến  hành  nghiên  cứu  với 
đề tài: “Đặc điểm bệnh nhân ĐTĐ bị hạ đường 
huyết tại bệnh viện Đa khoa Tiền Giang”. 

Nghiên cứu Y học

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Dân số chọn mẫu 
Bệnh nhân ĐTĐ bị HĐH vào khoa Cấp cứu 
bệnh  viện  Đa  khoa  Trung  tâm  Tiền  Giang  từ 
ngày 20/8/2013 đến ngày 1/7/2014. 
 

Tiêu chuẩn chọn bệnh 
‐  Bệnh  nhân  được  chẩn  đoán  ĐTĐ  theo  các 
tiêu chuẩn ADA 2013. 
‐  Bệnh  nhân  ĐTĐ  đang  điều  trị  ngoại  trú 
bằng  thuốc  uống  đơn  thuần  hoặc  thuốc  chích 
đơn  thuần  hay  phối  hợp  cả  hai,  bị  tình  trạng 

HĐH phải nhập viện. 
‐ Xét nghiệm máu với kết quả đường huyết 
lúc nhập viện nhỏ hơn 70mg/dl và có hay không 
có kèm theo triệu chứng HĐH. 

Tiêu chuẩn loại trừ 
Bệnh  nhân  HĐH  nhưng  không  mắc  bệnh 
ĐTĐ;  bệnh  nhân  ĐTĐ  không  dùng  thuốc  điều 
trị; bệnh nhân đang điều trị nội trú bị HĐH. 

Phương pháp nghiên cứu 
Nghiên cứu cắt ngang mô tả. 

Xử lý và phân tích số liệu 
Phần mềm SPSS 16.0. 

KẾT QUẢ 
Đặc điểm mẫu nghiên cứu 
Tuổi 
Bảng 1‐ Nhóm tuổi 
Tuổi
< 55
55 - 70
≥ 70
Tổng
Trung bình ± SD

Số lượng
Tỉ lệ (%)
8

10,5
29
38
39
51,5
76
100
70,09 ± 11,09

Mục tiêu nghiên cứu 

 Giới tính, phân loại ĐTĐ 

  ‐ Mô tả đặc điểm của nhóm bệnh nhân đái 
tháo đường đang điều trị bằng thuốc hạ đường 
huyết dạng uống hay insulin, bị hạ đường huyết 
phải nhập viện. 

 Bảng 2‐ Giới tính, phân loại ĐTĐ 

‐ Khảo sát các đặc điểm hạ đường huyết. 

Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học

Số lượng
Tỉ lệ (%)

Giới tính
Nam
Nữ

25
51
32,9
67,1

 
Phân nhóm
Typ 1
Typ 2
4
72
5,26
94,74

61


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 5 * 2014

Nghiên cứu Y học 

Nơi cư trú, trình độ văn hóa, nghề nghiệp, thói 
quen sinh hoạt 
Bảng 3‐ Nơi cư trú, trình độ văn hóa, nghề nghiệp, 
thói quen sinh hoạt 
Đặc điểm

Tỉ lệ (%)
64,21
35,79

17,11
48,68
15,70
11,84
6,58
14,47
7,89
10,53
67,11
13,16
13,95
28,95

Nội ô
Ngoại ô
Mù chữ
Cấp 1
Cấp 2
Cấp 3
Trên cấp 3
Lao động chân tay
Buôn bán
Công việc văn phòng
Mất sức lao động
Có hút thuốc lá
Có uống rượu
Có tập thể dục

Nơi cư trú


Trình độ văn hóa

Nghề nghiệp

Thói quen sinh hoạt

TB
SD
Min
Max

 Số ngày nằm viện 
Bảng 8‐ Số ngày nằm viện 
Giá trị
Trung vị
Nhỏ nhất
Lớn nhất

BMI
kg/m2
22,45
3,75
15,40
35,71

Tỉ lệ (%)
18,4
55,3
26,3
100


Bệnh kèm theo 
80

71%

70
60
45%

50
40

26,3%

30
20

27,6%

13%

10

3,4%

2,8%

0
CHA


RLLP

Xơ gan

Bệnh thận

Biểu đồ 1: Bệnh kèm theo 

62

Đột quỵ

Bệnh mạch
vành

Bệnh lý về
mắt

Số ngày nằm viện
5
1
14

  Đặc điểm HĐH 
Bảng 9‐ Các đặc điểm HĐH 

Bảng 5: HbA1C 
Số lượng
14

42
20
76

Số năm (năm)
8
1
40

Có  sự  tương  quan  thuận  giữa  số  năm  mắc 
bệnh  ĐTĐ  và  tiền  sử  HĐH  ở  mức  độ  vừa  (r  = 
0,421; p < 0,001).  

TB: trung bình; SD: độ lệch chuẩn; Min: nhỏ nhất; Max: 
lớn nhất; ĐH:đường huyết đói của lần tái khám gần 
nhất HATT: huyết áp tâm thu; HATTR: huyết áp tâm 
trương.  
HbA1C (%)
≤ 6,5
6,5 - 7,5
≥ 7,5
Tổng

Số lượng
Tỉ lệ (%)
32
42,1
12
15,8
32

42,1
76
100
1,57 ± 1,39

Giá trị
Trung vị
Nhỏ nhất
Lớn nhất

Bảng 4‐ Lâm sàng và cận lâm sàng 
HATTR
mmHg
81,82
7,995
60
100

Số lần HĐH
Chưa lần nào
1 lần
≥ 2 lần
Tổng
Trung bình ± SD

  Thời gian mắc bệnh 
Bảng 7‐ Số năm mắc bệnh 

Kết quả lâm sàng, cận lâm sàng 
ĐH

HATT
HbA1C %
mg/dl
mmHg
137,6
7,1
144
33,8
0,78
21,2
79
4,4
100
268
8,4
200

Tiền sử HĐH 
Bảng 6‐ Tiền sử HĐH 

 

Số
lượng
Ban ngày (5-22 giờ)
34
Thời điểm
Ban đêm (22 - 5 giờ)
42
Tỉnh

22
Tri giác
lúc nhập viện
Lơ mơ
20
Hôn mê
34
Mức độ HĐH
Không nặng
18
Nặng
58
Đổ mồ hôi
35
Yếu cơ
22
Triệu chứng TK tự
chủ
Đói
4
Hồi hộp
3
67
Không
Máy thử đường huyết

9
57
Không
Biết triệu chứng HĐH


19
Không
57
Xử trí tại nhà

19
Có triệu chứng đến
31,32 ± 34,3 (phút)*
nhập viện
ĐH nhập viện (mg/dl)
31[18,66]**
Đặc điểm

Tỉ lệ
%
44,7
55,3
28,9
26,3
44,8
23,7
76,3
46,1
28,9
5,3
3,9
88,2
11,8
70,5

29,5
79,8
20,2

* Trung bình ± SD, ** Trung vị [min,max] 

Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 5 * 2014 
BÀN LUẬN 
Đặc điểm mẫu nghiên cứu 
Tuổi 
Kết quả thống kê cho thấy đa số bệnh nhân 
là người cao tuổi, trong đó số bệnh nhân trên 70 
tuổi chiếm tỉ lệ cao nhất là 51,5%. Tuổi cao là yếu 
tố  thuận  lợi  dễ  xảy  ra  HĐH  do  người  cao  tuổi 
thường  có  các  bệnh  khác  kèm  theo,  phải  dùng 
nhiều loại thuốc và là nhóm bệnh nhân thường 
phải  nhập  viện.  Độ  tuổi  trung  bình  của  nhóm 
dân số nghiên cứu là 70,09 ± 11,09, kết quả này 
gần tương đương với nghiên cứu thực hiện trên 
những ca HĐH vào cấp cứu như của Trương Thị 
Vành  Khuyên(8)  hay  tác  giả  A.  Pilotto(Error!  Reference 
source not found.)  thực  hiện  ở  57  bệnh  viện  tại  Ý  năm 
2010  thì  độ  tuổi  trung  bình  của  bệnh  nhân  lần 
lượt  là  68,34  ±  11,43;  72,4  ±  11,1;  73,3  ±  5,5  tuổi. 
Tuy nhiên, kết quả này lại cao hơn so với nghiên 
cứu của tác giả Nguyễn Bích Phượng năm 2001 
tiến  hành trên nhóm  bệnh nhân  HĐH  trong  và 

ngoài  bệnh  viện  hay  tác  giả  Zingnan  Zao  chọn 
bệnh nhân đã loại trừ bệnh lý tim mạch(9), có độ 
tuổi  trung  bình  lần  lượt  là  61  tuổi;  62,6  ±  10,69 
tuổi. Kết quả có sự khác biệt có thể vì cách chọn 
mẫu trong nghiên cứu khác nhau. 
Giới tính 
Trong các nghiên cứu thì nữ giới đều có tỉ lệ 
HĐH cao hơn ở nam giới, thường là từ 60% trở 
lên.  Điều  này  có  thể  giải  thích  theo  kết  quả 
nghiên cứu của tác giả Davis CN(1) là do đáp ứng 
điều hòa ngược để hạn chế tình trạng HĐH khác 
nhau  giữa  nam  và  nữ,  bên  cạnh  đó  ở  nữ  hệ 
thống  thần  kinh  giao  cảm  và  đáp  ứng  hormon 
tăng  trưởng  GH  thường  bị  suy  giảm  nên  các 
triệu  chứng  báo  hiệu  tình  trạng  HĐH  thường 
xảy ra chậm hơn, khiến họ xử lý muộn và dễ rơi 
vào tình trạng HĐH nặng hơn so với nam giới. 
Phân loại ĐTĐ 
Trong  dịch  tễ  bệnh  ĐTĐ  thì  ĐTĐ  typ  2 
thường chiếm tỉ lệ là 90%, typ 1 là 10%, điều này 
có thể giải thích cho kết quả số ca HĐH ở bệnh 
nhân  ĐTĐ  thường  rơi  vào  trường  hợp  là  bệnh 
nhân ĐTĐ typ 2. 

Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học

Nghiên cứu Y học

Nơi cư trú 
Cấp cứu HĐH là một cấp cứu khẩn cấp, đòi 

hỏi xử trí kịp thời với phương pháp chẩn đoán 
và điều trị tương đối đơn giản. Nhưng theo kết 
quả nghiên cứu thì có hơn 35% trường hợp bệnh 
nhân  bị  HĐH  lại  đến  từ  những  huyện  cách  xa 
bệnh  viện  Đa  khoa  Tiền  Giang.  Điều  này  làm 
nặng  thêm  tình  trạng  HĐH  do  bệnh  nhân  sẽ 
không được xử lý kịp thời. Việc hướng dẫn bệnh 
nhân, người nhà biết cách tự phát hiện các triệu 
chứng HĐH để sơ cứu và nhanh chóng đến các 
cơ sở y tế gần nhất là việc rất cần thiết.  
Trình độ văn hóa 
Nhóm  bệnh  nhân  bị  HĐH  trong  nghiên 
cứu đa số có trình độ văn hóa thấp. Điều này 
sẽ gây khó khăn cho bệnh nhân trong việc chủ 
động tìm hiểu kiến thức về bệnh, khả năng đọc 
toa thuốc để biết cách sử dụng thuốc đúng liều 
và  đúng  thời  gian.  Ngoài  ra,  bệnh  nhân  cũng 
khó kiểm soát tốt đường huyết vì điều trị bệnh 
ĐTĐ ngoài việc dùng thuốc thì hiểu biết để có 
một  chế  độ  ăn  uống,  tập  luyện  phù  hợp  là 
cũng rất cần thiết. 
Nghề nghiệp 
Có 67,11% bệnh nhân nằm trong nhóm mất 
sức lao động. Nguyên nhân có thể do đối tượng 
nghiên cứu phần lớn là người cao tuổi. 
Thói quen 
Mặc dù bệnh nhân ĐTĐ được khuyến khích 
nên  hoạt  động  thể  lực  trung  bình  30  phút  mỗi 
ngày  do  có  lợi  ích  là  giúp  tăng  nhạy  cảm  với 
insulin,  giảm  Triglycerid,  nhưng  số  bệnh  nhân 

có tập thể dục trong nghiên cứu vẫn còn tương 
đối ít, chiếm tỉ lệ 28,95%. Nguyên nhân do bệnh 
nhân chưa có ý thức về lợi ích của việc tập luyện 
thể  dục.  Bên  cạnh  đó  là  hạn  chế  về  tuổi  cao  và 
các  bệnh  kèm  theo  như  tai  biến  mạch  máu  não 
hay  biến  chứng  thần  kinh.  Điều  này  cũng  giải 
thích  cho  số  trường  hợp  bị  HĐH  do  vận  động 
thể  lực  quá  mức  trong  nghiên  cứu  chỉ  có  2 
trường hợp với tỉ lệ 2,6%.  
 BMI 
BMI trung  bình  của nhóm  bệnh  nhân  trong 

63


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 5 * 2014

nghiên cứu là 22,45 ± 3,75 kg/m2.. So với tiêu chí 
của  WHO  dành  cho  người  Châu  Á  thì  chỉ  số 
khối  cơ  thể  vẫn  còn  nằm  trong  giới  hạn  của 
người  bình  thường.  So  với  nghiên  cứu  trong 
nước  thì  kết  quả  này  gần  tương  đương.  Như 
trong  nghiên  cứu  của  tác  giả  Nguyễn  Thị  Thu 
Minh(7),  hay  tác  giả  Trương  Thị  Vành  Khuyên(8) 
với  đối  tượng  là  người  cao  tuổi  có  chỉ  số  BMI 
trung bình là 22,6 ± 2,85 kg/m2; 22,2 ± 5,0 kg/m2. 
Sự tương đương về kết quả có thể do đối tượng 
trong các nghiên cứu có độ tuổi gần như nhau là 

68,6 ± 6,1; 72,4 ± 11,1 tuổi.  

Mức độ kiểm soát đường huyết 
HbA1C  trung  bình  là  7,1  ±  0,78%.  Đường 
huyết đói trung bình ở lần tái khám gần nhất là 
137,6  ±  33,8  mg/dl.  Nghiên  cứu  trong  và  ngoài 
nước tiến hành trên đối tượng người cao tuổi bị 
HĐH có kết quả HbA1c trung bình tương tự với 
tỉ  lệ  7%(8).  So  với  mục  tiêu  kiểm  soát  đường 
huyết  của  ADA  năm  2014  thì  kết  quả  này  gần 
đạt  được  mục  tiêu,  cho  thấy  mức  độ  kiểm  soát 
đường  huyết  của  nhóm  bệnh  nhân  nghiên  cứu 
khá tốt, có 18,4% bệnh nhân kiểm soát tốt, 55,3% 
ở mức chấp nhận và 26,3% bệnh nhân kiểm soát 
kém. Bên cạnh đó những bệnh nhân chủ yếu là 
người cao tuổi, có nhiều yếu tố nguy cơ nên khi 
đường  huyết  gần  đạt  mức  đường  huyết  mục 
tiêu  sẽ  dễ  xảy  ra  tình  trạng  HĐH  hơn.  Do  việc 
kiểm soát đường huyết chặt dễ làm tăng nguy cơ 
HĐH nên mức đường huyết mục tiêu phải phù 
hợp  với  từng  trường  hợp  bệnh  nhân,  cần  cân 
nhắc đến sự an toàn khi điều trị. 
Các bệnh kèm theo 
Đối tượng trong nghiên cứu có độ tuổi trung 
bình  là  70,09  ±  11,09.  Đây  là  độ  tuổi  có  sự  suy 
giảm chức năng sinh lý của nhiều cơ quan trong 
cơ  thể  nên  thường  có  nhiều  bệnh  kèm  theo. 
Trong đó tỉ lệ bệnh cao huyết áp là 71 %, chiếm 
tỷ lệ cao nhất, kế đến là rối loạn lipid máu với tỉ 
lệ  45%,  bệnh  mạch  vành  27,6%,  đột  quỵ  26,3%, 

bệnh thận  13%,  bệnh  lý về  mắt  3,4%  và  xơ  gan 
2,8%.  Các  bệnh  nhân  có  bệnh  kèm  theo  khá 
nhiều, trung bình khoảng 3 bệnh, thay đổi từ 0 
đến 6 bệnh. Do vậy, ngoài dùng thuốc HĐH thì 

64

nhóm bệnh nhân này còn phải sử dụng cùng lúc 
những  thuốc  khác  như  thuốc  trị  cao  huyết  áp 
(thuốc  chẹn  beta,  thuốc  ức  chế  men  chuyển…), 
thuốc  trị  lipid  huyết  (nhóm  thuốc  fibrat…)  hay 
thuốc chống kết tập tiểu cầu ở bệnh nhân có tiền 
sử  đột  quỵ,  nhồi  máu  cơ  tim  (Aspirin, 
Clopidogrel….)  Điều  này  dễ  dẫn  đến  khả  năng 
tương  tác  thuốc,  làm  tăng  tác  dụng  của  thuốc 
HĐH,  khiến  bệnh  nhân  có  nguy  cơ  HĐH  cao. 
Gan  và  thận  là  hai  cơ  quan  có  khả  năng  giải 
phóng glucose vào tuần hoàn nên các bệnh nhân 
bị  bệnh  gan,  bệnh  thận  dễ  bị  HĐH.  Ngoài  ra, 
cảm giác mệt mỏi, chán ăn do bệnh nhân ĐTĐ bị 
suy thận hay xơ gan sẽ làm cho bệnh nhân ăn ít, 
thậm chí là bỏ bữa. Bệnh lý về mắt như đục thủy 
tinh  thể  gây  khó  khăn  trong  trường  hợp  thuốc 
uống hay tiêm insulin do chính bệnh nhân phân 
liều,  khả  năng  lấy  sai  thuốc,  sai  liều  là  rất  cao. 
Bệnh nhân có tiền sử HĐH trước khi nhập viện 
ít  nhất  một  lần  có  nguy  cơ  bị  biến  chứng  tim 
mạch cao hơn gấp 1,33 lần so với người chưa bị 
HĐH. Nhưng nguy cơ tăng cao biến chứng tim 
mạch của bệnh nhân khác biệt không có ý nghĩa 

thống kê vì p > 0,05. So với kết quả nghiên cứu 
của  tác  giả  Pai‐Feng  Hsu(3)  tiến  hành  trên  1.844 
bệnh nhân ĐTĐ bị HĐH trong vòng 10 năm từ 
năm  1998  đến  2009.  Kết  quả  thu  được  là  bệnh 
nhân đã từng HĐH thì có nguy cơ tai biến trên 
tim mạch cao gấp 2 lần người chưa từng HĐH. 
Sự  khác  biệt  kết  quả  có  thể  vì  số  lượng  bệnh 
nhân ít và thời gian nghiên cứu còn ngắn.  
 HĐH  dù  mức  độ  nặng  hay  nhẹ  đều  liên 
quan đến việc làm tăng nguy cơ tai biến trên tim 
mạch như đột quỵ, bệnh mạch vành(3). Tương tự 
với kết quả nghiên cứu của Accord, sự xuất hiện 
HĐH  nặng  là  một  trong  những  yếu  tố  dự  báo 
mạnh  nhất  của  tai  biến  tim  mạch(10).  Cùng  với 
thời  gian  mắc  bệnh  khá  lâu  trung  bình  gần  8 
năm  và  phần  kết  luận  trên  thì  có  thể  giải  thích 
nguyên  nhân  bệnh  nhân  ĐTĐ  bị  HĐH  có  tỉ  lệ 
mắc  bệnh  tim  mạch  cao,  tương  tự  với  kết  quả 
nghiên cứu trong nước như của tác giả Trương 
Thị  Vành  Khuyên(8)  là  25%  và  tác  giả  Nguyễn 
Mây Hồng(6) là 27,3%. 

Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 5 * 2014 
Tiền sử HĐH 
Số  lượng  bệnh  nhân  có  tiền  sử  HĐH  trên  2 
lần chiếm tỉ lệ cao 42,1%. Nguyên nhân có thể do 
sau khi HĐH lần đầu bệnh nhân vẫn chưa được 

hướng  dẫn  về  cách  ngăn  ngừa  và  xử  lý.  Mặt 
khác, có thể vì bệnh nhân chưa khắc phục được 
yếu tố nguy cơ gây HĐH nên dẫn đến tình trạng 
HĐH tái phát. Do đó, đối tượng có tiền sử HĐH 
nên được nhắc nhở về việc kiểm soát kỹ hơn yếu 
tố nguy cơ, hướng dẫn đầy đủ cách phát hiện và 
phòng tránh ngay từ lần HĐH đầu tiên. 

Thời gian mắc bệnh ĐTĐ 
Thời  gian  mắc  bệnh  trong  nghiên  cứu 
trung bình khoảng 8 năm. Đây là khoảng thời 
gian tương đối dài nên bệnh thường đã gây ra 
biến chứng. Kết quả cũng cho thấy có sự tương 
quan thuận ở mức độ vừa giữa số lần HĐH và 
thời  gian  mắc  bệnh.  Nguyên  nhân  có  thể  do 
theo thời gian thì cơ thể mất dần khả năng giải 
phóng glucagon đáp ứng với HĐH. Glucagon 
có vai trò là hàng rào đầu tiên chống lại HĐH 
khi tăng tiết insulin quá mức. Vì vậy, thời gian 
mắc bệnh lâu năm cũng là yếu tố thuận lợi cho 
tình trạng HĐH. 

Đặc điểm HĐH 
Thời điểm HĐH 
Các ca HĐH trong nghiên cứu thường xảy ra 
vào ban đêm (từ thời điểm 22 giờ đến 5 giờ sáng) 
hơn lúc ban ngày (từ 5 giờ đến 22 giờ). Mặc dù 
khoảng thời gian vào ban đêm (kéo dài 7 giờ) chỉ 
bằng phân nửa thời gian tính vào thời điểm ban 
ngày (kéo dài 17 giờ) nhưng tỉ lệ HĐH vào thời 

điểm này lại cao hơn là 55,3% so với 44,8%. Kết 
quả  này  cho  thấy  thời  gian  ban  đêm,  lúc  bệnh 
nhân ngủ dễ có nguy cơ xảy ra HĐH hơn. Theo 
nghiên cứu của DCCT thì hơn phân nửa các lần 
HĐH  nặng  xảy  ra  khi  bệnh  nhân  đang  ngủ  và 
các nghiên cứu khác cũng cho thấy HĐH thường 
diễn  ra  vào  ban  đêm  ở  bệnh  nhân  ĐTĐ  typ  1 
đang  sử  dụng  insulin(2).  Trong  nghiên  cứu  của 
tác giả Roy W.Beck tiến hành trên 176 bệnh nhân 
typ  1  có  thời  gian  mắc  bệnh  trên  1  năm  và 
HbA1c thấp hơn 10% thì thời gian thường xảy ra 

Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học

Nghiên cứu Y học

HĐH là từ khoảng nửa đêm đến 6 giờ sáng ngày 
hôm  sau.  Tỉ  lệ  HĐH  là  8,5%  và  bệnh  nhân  có 
HbA1c càng thấp sẽ dễ mắc phải tình trạng này 
hơn.  Ngoài ra,  HĐH  ban  đêm sẽ  gây khó  khăn 
cho việc kiểm soát đường huyết do nguy cơ làm 
tăng  đường  huyết  vào  buổi  sáng  hôm  sau.  Do 
đó, bác sĩ cần khuyến cáo bệnh nhân về nguy cơ 
HĐH  trong  khoảng  thời  gian  này.  Có  thể  hạn 
chế  HĐH  ban  đêm  bằng  cách  kiểm  tra  đường 
huyết  trước  khi  ngủ,  ăn  nhẹ  nếu  đường  huyết 
xuống thấp. 

Xử trí khi HĐH 
Thời gian từ khi có triệu chứng đến lúc nhập 

viện  trung  bình  là  31,32  ±  34,3  phút,  có  trường 
hợp bệnh nhân đưa vào cấp cứu sau khi xảy ra 
HĐH gần 4 giờ. Mặc dù nhóm bệnh nhân phần 
lớn sống trong nội ô thành phố Mỹ Tho nhưng 
thời gian để bệnh nhân được can thiệp đúng lại 
bị kéo dài, nguyên nhân chủ yếu có thể do hơn 
70,5%  trường  hợp  bệnh  nhân  hay  người  nhà 
không nhận ra triệu chứng của HĐH, nhầm lẫn 
với bệnh khác dẫn đến cách xử trí sai như thoa 
dầu,  cạo  gió…khi  tình  trạng  trở  nặng  thì  bệnh 
nhân mới được đưa vào bệnh viện. Can thiệp sai 
hay  làm  kéo  dài  thời  gian  HĐH  sẽ  càng  nguy 
hiểm  cho  bệnh  nhân  vì  não  đang  thiếu  năng 
lượng  để  hoạt  động  nếu  đường  huyết  tiếp  tục 
giảm mà không được xử trí nhanh chóng thì sẽ 
gây tổn thương thần kinh không hồi phục và có 
thể tử vong.  
Kiến thức về HĐH 
Số  lượng  bệnh  nhân  có  kiến  thức  về  nhận 
biết triệu chứng HĐH (biết ít nhất 1 triệu chứng) 
chiếm tỉ lệ 29,5% và chỉ có số ít bệnh nhân biết 
cách sơ cứu đúng (20,1%). Điều này cho thấy sự 
tư  vấn  kiến  thức  về  bệnh  ĐTĐ  và  HĐH  cho 
bệnh nhân là rất cần thiết. Bên cạnh đó, theo kết 
quả của các nghiên cứu trước đây thì việc hướng 
dẫn  cách  nhận  biết  dấu  hiệu  HĐH  và  phương 
pháp  xử  trí  ban  đầu  có  thể  làm  giảm  tần  xuất 
HĐH nghiêm trọng ở bệnh nhân ĐTĐ(5).  
Tri giác lúc nhập viện 
Các  bệnh  nhân  ĐTĐ  bị  HĐH  khi  vào  bệnh 


65


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 5 * 2014

viện  có  44,7%  trường  hợp  trong  tình  trạng  hôn 
mê,  26,3%  bị  lơ  mơ  và  28,9%  là  bệnh  nhân  vẫn 
còn tỉnh. Tỉ lệ tình trạng tri giác phù hợp với tỉ lệ 
mức  độ  HĐH  dựa  trên  kết  quả  xét  nghiệm 
đường  huyết  khi  nhập  viện,  tương  ứng  là  mức 
độ  HĐH  nặng  76,3%,  HĐH  không  nặng  (nhẹ 
hay trung bình) là 23,7%. Đa số bệnh nhân đều 
đến  bệnh  viện  khi  mức  đường  huyết  đã  hạ  rất 
thấp,  trung  bình  là  31  mg/dl.  Có  trường  hợp 
đường  huyết  chỉ  còn  18mg/dl  nên  phần  nhiều 
bệnh nhân đã xuất hiện triệu chứng rối loạn hệ 
thần  kinh  trung  ương  như  lơ  mơ,  hôn  mê. 
Nguyên  nhân  các  trường  hợp  thường  rơi  vào 
tình trạng HĐH nặng do sơ cứu sai, thời gian từ 
khi  có  triệu  chứng  đến  lúc  được  đưa  vào  bệnh 
viện  bị  kéo  dài  hay  có  thể  vì  phần  nhiều  bệnh 
nhân  đã  lớn  tuổi  nên  đáp  ứng  điều  hòa  ngược 
thay  đổi  khiến  cho  triệu  chứng  xuất  hiện  khi 
ngưỡng đường huyết đã hạ thấp(4). Những điều 
này  giải  thích  cho  kết  quả  HĐH  mức  độ  nặng 
trong nghiên  cứu  chiếm  tỉ  lệ  rất  cao  76,3%. Đối 
với  bệnh  nhân  ĐTĐ  nên  tránh  để  rơi  vào  tình 

trạng bị HĐH mức độ nặng vì khả năng tử vong 
sau 5 năm bị HĐH cao gấp 3‐4 lần những bệnh 
nhân không HĐH hay bị HĐH nhẹ. Để hạn chế 
HĐH nghiêm trọng điều chủ yếu là  bệnh nhân 
hay  người  nhà  cần  sớm  phát  hiện  các  triệu 
chứng lúc ban đầu và có cách sơ cứu thích hợp. 

Các đặc điểm HĐH 
 57,9% trường hợp bệnh nhân đã từng HĐH 
trước  đó.  Tỉ  lệ  HĐH  mức  nặng  chiếm  đa  số 
(76,3%). Số lượng bệnh nhân không được sơ cứu 
trước khi nhập viện khá cao (79,8%) và vẫn còn 
nhiều  bệnh  nhân  thiếu  kiến  thức  về  cách  phát 
hiện,  xử  lý  tình  trạng  HĐH  (70,5%).  Trong  việc 
phân  chia  liều  thuốc  mỗi  ngày,  phần  lớn  là  do 
bệnh nhân và người nhà thực hiện. 

TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.

2.

3.

4.

5.

6.


7.

8.

KẾT LUẬN 
Đặc điểm mẫu nghiên cứu 
Bệnh nhân có độ tuổi trung bình cao: 70,09 
±11,09  tuổi,  trong  đó  nữ  giới  chiếm  đa  số 
(67,1%).  Nhóm  bệnh  nhân  có  mức  đường 
huyết  gần  đạt  mục  tiêu  điều  trị  với  HbA1c 
trung  bình  là  7,1%.  Ngoài  ra  bệnh  nhân  có 
nhiều bệnh kèm theo, trong đó bệnh cao huyết 
áp là chủ yếu (71%).  

9.

10.

Davis  SN,  Fowler  S,  Costa  F.  “Hypoglycemic 
counterregulatory responses differ between men and women 
with type 1 diabetes”. Diabtees, 2000 Jan; 49(1): pp 65‐72. 
DCCT  Research  Group.  (1991)  “Epidemiology  of  severe 
hypoglycemia  in  the  Diabetes  Control  and  Complications 
Trial”. Am J Med 1991; 90: pp 450– 459. 
Hsu  PF,  et  al.  (2013)  “Association  of  Clinical  Symptomatic 
Hypoglycemia  With  Cardiovascular  Events  and  Total 
Mortality in Type 2 Diabetes”. Diabetes Care, April 2013, 36(4), 
pp 894‐900. 
Meneilly GS, Cheung E, Tuokko H. (1994) “Altered responses 
to  hypoglycemia  of  healthy  elderly  people”.  Diabetes  43:  pp 

403‐410. 
Miles  F  (2010).  “Hypoglycemia  in  patients  with  type  2 
diabetes:  minimizing  the  risk”.  British  Journal  of  Diabetes  and 
Vascular Diabetes,10(1), pp 35‐40. 
Nguyễn Mây Hồng, Nguyễn Thy Khuê (2008). “Tần suất và 
các yếu tố nguy cơ gây hạ đường huyết trên bệnh nhân đái 
tháo đường nằm viện tại khoa nội tiết bệnh viện Chợ Rẫy”. 
Luận án tốt nghiệp chuyên khoa II. 
Nguyễn Thị Thu Minh  (2011) “Đặc  điểm lâm  sàng, cận  lâm 
sàng ở nhóm bệnh nhân ĐTĐ type 2 cao tuổi điều trị tại bệnh 
viện Đa khoa Trung ương Thái Nguyên”. Y học thực hành, Tr 
25‐28. 
Trương Thị  Vành  Khuyên  và Nguyễn  Thị  Thy  Khuê  (2013). 
“Các yếu tố liên quan đến hạ đường huyết ở bệnh nhân đái 
tháo đường nhập bệnh viện nhân dân 115”. Luận án tốt nghiệp 
chuyên khoa II. 
Zhao Y, et al.(2012). “Impact of hypoglycemia associated with 
Antihyperglycemia medications on vascular risks in veterans 
with type 2 diabetes”. Diabetes Care, 35(5), pp 1126‐1132. 
Zoungas S, et al. “Severe hypoglycemia and risks of vascular 
events and death”. N Engl J Med, 2010; 363, pp 1410‐1418. 

 
Ngày nhận bài báo: 

 

 

Ngày phản biện nhận xét bài báo: 

Ngày bài báo được đăng: 

 

16/9/2014 

 

29/9/2014 
  20/10/2014

 

66

Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 



×