BỘ MÔN DƯỢC LÝ
HỌC VIỆN QUÂN Y
Tương tác thuốc
Người soạn: Nguyễn Bích Luyện
Tương tác thuốc
1. Một số khái niệm cơ bản
Tương tác thuốc là hiện tượng xẩy
ra khi hai thuốc trở lên được sử
dụng đồng thời. Sự phối hợp làm
thay đổi tác dụng hoặc độc tính của
một trong những thứ thuốc đó.
Khi phối hợp thuốc nhằm lợi dụng
tương tác thuốc theo hướng có lợi để
tăng hiệu quả điều trị, giảm tác dụng
phụ hoặc để giải độc thuốc. Thế
nhưng, trong thực tế điều trị có những
tình huống hoàn toàn bất ngờ: cũng một
thuốc ở mức liều điều trị mà khi phối
hợp với thuốc này lại giảm hoặc mất
tác dụng, ngược lại, dùng với thuốc kia
thì lại xẩy ra ngộ độc.
Tỷ lệ tương tác thuốc tăng theo cấp số
nhân với số loại thuốc phối hợp, có
nghĩa là nguy cơ rủi ro, thất bại cũng
tăng theo.
Do đó việc cho thuốc và phối hợp thuốc
trong điều trị là 1 vấn đề phức tạp, luôn
đặt ra cho người thầy thuốc phải cân
nhắc và luôn phải quan tâm đến hiện
tượng tương tác thuốc có thể xảy ra.
Nhận định về tương tác thuốc để
hướng dẫn cho bênh nhân khi sử
dụng thuốc và có những lời khuyên
với bác sĩ khi gặp những đơn thuốc
phối hợp không đúng.
Các tình huống có thể xảy ra khi
phối hợp thuốc được tóm tắt như
sau:
Tương tác thuốc thuốc
Tăng tác dụng = hiệp đồng
Dược lý
hoá học
Giảm tác dụng = đối kháng
dược lý
Vật lý
Dược động học Dược lực học Dược động học Dược lực học
Sau đây chúng ta sẽ lần lượt nghiên cứu từng phần của
sơ đồ này:
2. Sự phối hợp thuốc dẫn tới tăng tác
dụng tương tác có tính hiệp đồng
Sự phối hợp thuốc làm tăng hiệu quả
tác dụng là mục tiêu trong điều trị. Đó là
sự tương tác mang tính hiệp đồng
thuốc, nó xảy ra tại các receptor khác
nhau, nhưng có cùng đích tác dụng là:
làm tăng hiệu quả điều trị.
Các khả năng có thể xảy ra với loại
tương tác này là:
Hiệp đồng
Cộng
(Additive)
Tăng cường
(Synergism)
2.1.Hiệp đồng cộng (Additive)
* Khi phối hợp hai hay nhiều thuốc
với nhau mà tác dụng thu được
bằng tổng tác dụng của các chất
thành phần, ta có hợp đồng cộng.
Thí dụ:
Streptomycin + Penicillin
Viên Oletetrin
Oleandomycin
0,083
Tetraxyclin
0,167
Aspirin 0,20
Viên APC Paracetamol 0,05
Cafein 0,02
Nhờ có sự phối hợp này mà
Olcandomycin nới rộng được phổ tác
dụng, còn Tetraxyclin thì giảm được
liều, do đó giảm được độc tính.
* Những tương tác có thể xảy ra tại
các receptor khác nhau nhưng có cùng
đích tác dụng rất phổ biến trong điều
trị. Ví dụ:
Phối hợp thuốc lợi tiểu an thần với
các thuốc chống tăng huyết áp để điều
trị bệnh huyết áp cao.
Phối hợp kháng sinh với các thuốc giảm
tiết HCL để điều trị viên loét đường tiêu
hoá.
Phối hợp kháng sinh có cơ chế tác dụng
khác nhau trong điều trị lao
* Các phối hợp này thường được áp dụng
phổ biến trong điều trị, tuy nhiên cũng
hay gặp những tương tác bất lợi do bác sĩ
vô tình phối hợp các thuốc có tên biệt
dược khác nhau, nhưng thực tế lại là cùng
một hoạt chất .
Ví dụ: Phối hợp các kháng sinh nhóm
Aminoglycozid: Gentamycin +
Streptomycin > làm tăng suy thận và
điếc không hồi phục.
2.2. Hiệp đồng tăng cường
(Potencial)
* Khi tác dụng phối hợp vượt tổng
tác dụng của các chất thành phần, ta
có hiệp đồng tăng cường. Loại hiệp
đồng này thường xảy ra khi các chất
thành phần tác dụng lên những khâu
khác nhau trên cùng một chuỗi phản
ứng:
Ví dụ:
P.A.BA FH2
FH4
()
()
Sulffamid Trimethoprim
Pyrimetamin
Acid Folic là Coenzym giúp vi khuẩn
tạo nên các base purin, thymin và các
acid amin cần tổng hợp ADN, ARN để
vi khuẩn phát triển.
Sunfamid do cạnh tranh với P.A.B làm
giảm lượng FH2, còn các dẫn chất
Pirimidin (trimethoprim, pirimethamin)
lại ức chế enzym DHFR xúc tác cho quá
trình chuyển FH2 thành FH4, làm giảm
lượng FH4.
Kết quả cuối cùng là thiếu acid Folic,
vì vậy ức chế sự phát triển vi khuẩn.
Hai loại thuốc đó dùng chung sẽ có tác
dụng hiệp đồng vượt mức (chứ không
phải một phép cộng thông thường),
mạnh hơn hẳn khi dùng đơn độc từng
loại, đó là nguyên tắc để tạo nên công
thức thuốc kháng khuẩn hoặc thuốc
chống sốt rét có hiệu lực cao.
* Khi phối hợp lại hai thuốc tác dụng
kìm khuẩn như trong chế phẩm : Co
trimoxazol (Bactrim) gồm:
Sulfamethoxazol + Trimethoprim) , ta lại
thu được tác dụng diệt khuẩn. Chế
phẩm này có tác dụng rất tốt với những
vi khuẩn đã kháng các kháng sinh khác.
Chế phẩm Fansidar: (Sulfadoxin +
Pyrimethamin).
Hiệp đồng vượt mức còn được tạo nên
khi chất chính chất chủ vận, được
tăng tiềm lực nhờ chất phối hợp có thể
không tác dụng lên một cơ quan đích
với chất chính.
Ví dụ: Clofibrat dùng chung với thuốc
kháng Vitamin K làm tăng tác dụng
chống đông máu, mặc dù Clofibrat
không có tác dụng chống đông.
Thuốc co mạch adrenalin sẽ làm
tăng tác dụng gây tê từng vùng của
novocain khi dùng phối hợp .
Khi điều trị cao huyết áp thường
phối hợp thuốc lợi tiểu với thuốc
giãn mạch, thuốc lợi tiểu làm giảm
lưu lượng tuần hoàn và thuốc giãn
mạch có tác dụng hạ huyết áp tốt
hơn.
Tất cả những tương tác hiệp đồng
kể trên, đều thuộc loại tương tác về
mặt dược lực, nghĩa là hiệp đồng
về mặt tác dụng.
3. Sự phối hợp thuốc dẫn tới giảm
tác dụng tương tác có tính đối
kháng.
* Khi phối hợp thuốc người ta cố gắng
tránh những phối hợp làm giảm tác
dụng của nhau. Tuy nhiên, nhiều lúc
tương tác này lại được sử dụng như
một vũ khí lợi hại để giải độc thuốc
hoặc để làm giảm những tác dụng phụ
của chất chủ vận.
Có những khả năng đối kháng sau
Đối kháng
Hoá học Dược lý Vật lý
Dược động học
Dược lực học
Hấp thu Phân bố Chuyển hoá Thải trừ Cạnh tranh Không cạnh
tranh
Đối lập tác dụng
3.1. Đối kháng hoá học
* Tương tác hoá học có thể gặp với
tất cả các loại phản ứng hoá học
mà ta đã biết. Khi trộn chung các
thuốc ở ngoài cơ thể nếu xảy ra
hiện tượng tủa, có khi chuyển thành
dạng khí bay lên, hoặc dung dịch
đổi màu… ta có thể dễ dàng nhận
biết và tránh được.
Ví dụ: Các muối của kiềm hữu cơ và
acid hữu cơ, khi trộn chung sẽ xẩy ra
phản ứng trao đổi, dẫn đến giảm độ
tan: Streptomycin sulfat trộn với natri
benzyl penicilin, dimedrol clohydrat với
barbital natri (tủa dimedrrol và barbital).
Điều đáng chú ý là có những phản ứng
ta không nhìn thấy được nhưng nó lại
tạo ra các sản phẩm không có hoạt tính
hoặc độc với cơ thể.