Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Suy dinh dưỡng ở người cao tuổi tại huyện Mỏ Cày Bắc tỉnh Bến Tre năm 2011

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (396.25 KB, 5 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 

Nghiên cứu Y học

SUY DINH DƯỠNG Ở NGƯỜI CAO TUỔI TẠI HUYỆN MỎ CÀY BẮC 
TỈNH BẾN TRE NĂM 2011 
Hà Thị Ninh*, Lê Hoàng Ninh*, Nguyễn Thị Kim Tiến** 
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Suy dinh dưỡng ở người cao tuổi làm tăng nguy cơ bệnh tật, tử vong và gánh nặng cho y tế. 
Tuy nhiên, suy dinh dưỡng ở người cao tuổi lại ít nhận được sự quan tâm. 
Mục tiêu: Xác định tỉ lệ suy dinh dưỡng ở người cao tuổi và một số yếu tố liên quan tại huyện Mỏ Cày Bắc 
tỉnh Bến Tre. 
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu sử dụng thiết kế cắt ngang mô tả, phỏng vấn và cân đo chỉ số nhân 
trắc trên 494 người từ 60 tuổi trở lên tại bốn xã của huyện Mỏ Cày Bắc. 
Kết quả: Tỉ lệ suy dinh dưỡng ở người cao tuổi tại huyện Mỏ Cày Bắc là 27,3%, tỉ lệ này tăng dần theo tuổi 
và cao hơn ở nam giới. 
Kết  luận: Kết quả nghiên cứu cho thấy tỉ lệ suy dinh dưỡng ở người cao tuổi chiếm tỉ lệ khá cao. Vì vậy, 
chính quyền và y tế địa phương cần có những biện pháp can thiệp và hỗ trợ để cải thiện tình trạng suy dinh 
dưỡng ở người cao tuổi. 
Từ khóa: Suy dinh dưỡng, người cao tuổi. 
ABSTRACT 

PREVALENCE OF MALNUTRITION AMONG OLDER PEOPLE IN MO CAY BAC, BEN TRE, 2011 
Ha Thi Ninh, Le Hoang Ninh, Nguyen Thi Kim Tien 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 6‐ 2014: 221 – 225 
Background:  Malnutrition  among  older  people  is  a  serious  problem  associated  with  an  increase  in 
prevalence of disease, mortality and burden of healthcare. Unfortunately, there is very little notice about the issue 
from the community, especially in rural areas. 
Objectives: To examine the prevalence of malnutrition among older people living in Mo Cay Bac District, 
Ben Tre province  
Methods: A cross‐sectional study was carried out at 4 communes of Mo Cay Bac District using a structure 


questionnaire.  Face  to  face interviews  and  anthropometric  measurements  (weight and high)  were  conducted at 
home for 494 people aged 60 years and older living in the studied settings 
Result:  The  prevalence  of  malnutrition  among  the  older  people  was  27.3%,  increased  by  age  and  higher 
among men than women.  
Conclusion: Malnutrition was common among older people. The result highlights the important of the issue 
in Mo Cay Bac district. Some management and intervention strategies should be considered to improve nutrition 
status among the older people.  
Keywords: Malnutrition, older people. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 

Suy dinh dưỡng ở người cao tuổi là một vấn 
đềđáng quan tâm. Suy dinh dưỡng kéo dài dẫn 
* Viện Y tế Công cộng thành phố Hồ Chí Minh 
Tác giả liên lạc:Ths. Hà Thị Ninh 

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 

đến  suy  giảm  về  sức  khỏe,  tăng  nguy  cơ  bệnh 
tật, tăng sử dụng dịch vụ y tế và tăng nguy cơ tử 
vong(2). Hầu hết các yếu tố nguy cơ dẫn đến suy 

**

Bộ Y tế 
ĐT: 01653 40 17 38 

Email:  

221



Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014

dinh  dưỡng  ở  người  cao  tuổi  đều  có  thể  can 
thiệp  được  bằng  các  biện  pháp  lâm  sàng  hoặc 
can thiệp cộng đồng. Tuy nhiên, suy dinh dưỡng 
ở  người  cao  tuổi  chưa  nhận  được  sự  quan  tâm 
đúng mức nhất là ở các nước đang phát triển(8). 
Việt Nam là một nước đang phát triển với tỉ 
lệ người cao tuổiđang gia tăng trong những thập 
niên  gần  đây,  từ  6,7%  năm  1979  lên  8,1%  năm 
1999  và  9,2%  năm  2006(3).  Đa  số  người  cao  tuổi 
(75%) sống ở vùng nông thôn với điều kiện sống 
và  tình  trạng  kinh  tế  thấp.  Bên  cạnh  đó,  quá 
trình công nghiệp hóa, đô thị hóa đã thu hút lao 
động  trẻ  ở  vùng  nông  thôn  lên  thành  thị  sinh 
sống  và  làm  việc  để  lại  vùng  nông  thôn  người 
cao tuổi thiếu thốn sự chăm sóc về mặt thể chất 
và  tinh  thần(3).  Điều  này  có  thể  ảnh  hưởng  tiêu 
cực  đến  tình  trạng  dinh  dưỡng  của  người  cao 
tuổi  vùng  nông  thôn.  Tuy  nhiên,  có  ít  nghiên 
cứu  đánh  giá  về  tình  trạng  suy  dinh  dưỡng 
người cao tuổi ở vùng nông thôn. 
Huyện  Mỏ  Cày  Bắc  tỉnh  Bến  Tre  là  một 
huyện nông thôn mới tách ra từ huyện Mỏ Cày. 
Kinh tế còn nhiều khó khăn, thu nhập bình quân 
đầu người thấp. Là một huyện mới nên công tác 
quản  lý  cũng  như  công  tác  chăm  sóc  sức  khỏe 

người cao tuổi còn chưa được ghi nhận đầy đủ, 
nhất  là  tình  trạng  suy  dinh  dưỡng  ở  người  cao 
tuổi. Vì vậy, chúng tôi thực hiện nghiên cứu “tỉ 
lệ suy dinh dưỡng người cao tuổi tại huyện Mỏ 
Cày Bắc tỉnh Bến Tre” với mục tiêu chính là xác 
định tỉ lệ và các yếu tố liên quan đến tình trạng 
suy  dinh  dưỡng  người  cao  tuổi.  Kết  quả  của 
nghiên cứu sẽ cung cấp thêm thông tin cho lãnh 
đạo địa phương lập kế hoạch cải thiện công tác 
chăm sóc sức khỏe người cao tuổi. 
Mục tiêu nghiên cứu 
Xác  định  tỉ  lệ  suy  dinh  dưỡng  ở  người  cao 
tuổi  và  một  số  yếu  tố  liên  quan  tại  huyện  Mỏ 
Cày Bắc tỉnh Bến Tre. 
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 

Đối tượng nghiên cứu 
Nghiên  cứu  được  thực  hiện  trên  người  60 
tuổi  trở  lên  đang  sinh  sống  ở  Huyện  Mỏ  Cày 
222 

Bắc  tỉnh  Bến  Tre  năm  2011.  Cỡ  mẫu  ước  tính 
cho nghiên cứu này là 500 người được tính từ 
công thức ước lượng một tỉ lệ với tỉ lệ suy dinh 
dưỡng  ước  lượng  trong  nghiên  cứu  trước  là 
25%, trong khoảng tin cậy là 95% và độ chính 
xác tuyệt đối 5%(5). Cỡ  mẫu này đã được hiệu 
chỉnh  với  hệ  số  1.5  cho  cách  chọn  mẫu  phân 
tầng. Từ danh sách 13 xã của huyện Mỏ Cày, 4 
xã  được  chọn  để  thực  hiện  điều  tra  bằng 

phương pháp tỉ lệ với cỡ mẫu (PPS). Bước tiếp 
theo là chọn đối tượng, từ danh sách người cao 
tuổi  của  các  trạm  y  tế  được  chọn,  bốc  thăm 
ngẫu nhiên chọn ra 125 người cao tuổi tại mỗi 
xã để tiến hành phỏng vấn. Những đối tượng 
có các chứng rối loạn tâm thần, không có khả 
năng nghe và trả lời phỏng vấn, có các dị dạng 
về cơ thể sẽ không chọn vào nghiên cứu này. 
Phương pháp thu thập số liệu 
Đối tượng được phỏng vấn trực tiếp bằng bộ 
câu hỏi cấu trúc và cân đo các chỉ số nhân trắc tại 
nhà.  Phần  đầu  của  bộ  câu  hỏi  phỏng  vấn  đối 
tượng  các  thông  tin  cơ  bản  về  tuổi  (chia  làm  3 
nhóm  60‐69,  70‐79  và  80+),  giới  (nam  và  nữ), 
trình độ học vấn (không biết đọc/ viết, biết đọc/ 
viết, tốt nghiệp tiểu học trở lên), tình trạng hôn 
nhân, đối tượng sống chung, nghề nghiệp trước 
đây, tình trạng làm việc hiện tại. Tình trạng kinh 
tế gia đình được đánh giá bằng phiếu tính điểm 
nghèo  đơn giản  của  Việt  Nam, đối tượng  được 
chia  thành  2  nhóm  nghèo  (tổng  số  điểm  <50), 
không  nghèo  (với  số  điểm  từ  50+)(4).  Đối  tượng 
tự đánh giá tình trạng sức khỏe và khảo sát đối 
tượng  về  có  đang  điều  trị  bệnh  bằng  thuốc 
không. Các chỉ số nhân trắc bao gồm: cân nặng, 
chiều  cao.  Chỉ  số  khối  cơ  thể  (BMI)  được  phân 
loại theo bảng phân loại của Châu Á, Thái Bình 
Dương,  được  chia  thành  3  nhóm:  suy  dinh 
dưỡng  (BMI  <  18,5),  bình  thường  (BMI  từ  18,5‐
22,9) và thừa cân béo phì (BMI ≥ 23,0)(10). Điều tra 

viên được tập huấn về mục đích, cách tiến hành 
phỏng vấn và đo các chỉ số nhân trắc. Đối tượng 
tham gia phỏng vấn được giải thích rõ mục đích 
của nghiên cứu và đồng ý tham gia nghiên cứu. 

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 
Phân tích số liệu 
Các số liệu được kiểm tra đạt đúng quy cách, 
không  bị  thiếu  thông  tin  sẽ  được  mã  hóa  và 
nhập  bằng  phần  mềm  Epidata  3.0,  thiết  kế  các 
bước  kiểm  soát  trong  quá  trình  nhập  số  liệu 
nhằm  tránh  sai  sót  khi  nhập  liệu.  Sau  khi  kiểm 
soát, có 494 mẫu đạt yêu cầu được đưa vào phân 
tích.  Số  liệu  được  phân  tích  bằng  phần  mềm 
Stata 10.0.  Thống kê  mô  tả  đặc điểm  kinh tế  xã 
hội  của  dân  số  nghiên  cứu,  và  tỉ  lệ  suy  dinh 
dưỡng, thừa cân/ béo phì và béo trung tâm của 
đối  tượng.  Thống  kê  phân  tích  sử  dụng  phép 
kiểm chi bình phương để tìm mối liên quan giữa 
các  đặc  điểm  kinh  tế  xã  hội  với  tình  trạng  suy 
dinh dưỡng của người cao tuổi. 
KẾT QUẢ 

Phân bố các đặc điểm của dân số nghiên cứu 
Đa số người cao tuổi tham gia trong nghiên 
cứu này có độ tuổi từ 60‐69 tuổi chiếm 43,9%, là 
nữ (75,5%), biết đọc biết viết (50,4%), góa (47%) 

và  có  vợ/  chồng  (47%).  Đa  số  người  cao  tuổi 
trước  đây  làm  ruộng  (68%),  tại  thời  điểm  điều 
tra  vẫn  có  gần  một  phần  ba  (31,8%)  người  cao 
tuổi  trong  nghiên  cứu  vẫn  còn  làm  việc  kiếm 
sống.  73,1%  người  cao  tuổi  sống  với  gia  đình, 
khoảng  12,1%  người  cao  tuổi  sống  một  mình. 
Đáng  lưu  ý  là  có  tới  36%  người  cao  tuổi  thuộc 
nhóm nghèo. Có khoảng một phần ba (33,2%) số 
người cao tuổi trong nhóm nghiên cứu tự đánh 
giá  tình  trạng  sức  khỏe  của  họ  là  kém  hoặc  rất 
kém.  66,2%  người  cao  tuổi  trả  lời  họ  có  đang 
điều trị bệnh bằng thuốc (bảng 1). 
Phân  bố  chỉ  số  nhân  trắc  của  người  cao  tuổi 
trong nhóm nghiên cứu 
Bảng  2  trình  bày  kết  quả  về  phân  bố  chỉ  số 
nhân của người cao tuổi trong nhóm nghiên cứu. 
Tỉ  lệ  người  cao  tuổi  bị  suy  dinh  dưỡng  tương 
đương với tỉ lệ người bị thừa cân/ béo phì (27,5% 
so  với  28,2%).  Như  vậy,  tỉ  lệ  người  cao  tuổi  có 
chỉ  số  BMI  ở  mức  bình  thường  chỉ  chiếm  dưới 

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 

Nghiên cứu Y học

một  nửa  (44,3%)  số  người  cao  tuổi  tham  gia 
nghiên cứu.  
Bảng 1: Đặc điểm chung của dân số nghiên cứu 
(n=494) 
Đặc điểm

Nhóm tuổi

60-69
70-79
80+
Giới
Nam
Nữ
Không biết đọc/ viết
Trình độ học
vấn
Biết đọc, biết viết
Tốt nghiệp tiểu học trở
lên
Độc thân
Tình trạng hôn
nhân
Có vợ/ chồng
Ly thân/ ly dị
Góa vợ/ chồng
CN/ VC
Nghề nghiệp
trước đây
Làm ruộng rẫy
Làm thuê
Buôn bán
Khác
Nghề nghiệp Tự làm việc kiếm sống
hiện tại
Không làm việc

Nội trợ
Một mình
Đối tượng sống
chung
Với vợ/ chồng
Với vợ/ chồng và con
cháu
Nghèo
Tình trạng kinh
tế
Không nghèo
Trung bình/ tốt
Tự đánh giá
tình trạng sức
Kém
khỏe

Đang điều trị
bằng thuốc
Không

Tần số Tỉ lệ (%)
217
43,9
193
39,1
84
17,0
121
24,5

373
75,5
111
22,5
249
50,4
134

27,1

15
232
15
232
28
336
35
56
39
157
227
110
60
73

3,0
47,0
3,0
47,0
5,7

68,0
7,1
11,3
7,9
31,8
45,9
22,3
12,1
14,8

361

73,1

176
318
330

35,6
64,4
66,8

164

33,2

327
167

66,2

33,8

Bảng 2: Phân loại BMI theo chuẩn Châu Á Thái 
Bình Dương 
BMI
Suy dinh dưỡng
(BMI<18,5)
Bình thường (18,5-22,9)
Thừa cân/ béo phì (BMI
≥ 23)
Tổng

Tần số

Tỉ lệ (%)

136

27,5

219

44,3

139

28,2

494


100,0

223


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014

Bảng 3: Mối liên quan giữa tình trạng dinh dưỡng với các đặc điểm của dân số nghiên cứu 

Tuổi
Giới
Trình độ học vấn
Tình trạng hôn
nhân

Nghề nghiệp
trước đây

Làm việc hiện tại

Đối tượng sống
chung
Tình trạng kinh tế
Tình trạng sức
khỏe
Điều trị bệnh

60-69

70-79
80+
Nam
Nữ
Không biết đọc/ viết
Biết đọc, biết viết
Tốt nghiệp tiểu học trở lên
Độc thân/ ly dị/ góa
Có vợ/ chồng
Công nhân viên chức
Làm ruộng rẫy
Làm thuê
Buôn bán
Khác
Đang làm việc
Không làm việc
Nội trợ
Một mình
Với vợ/ chồng
Với vợ/ chồng con/ cháu
Nghèo
Không nghèo
Trung bình/ Tốt
Kém

Không

Suy dinh dưỡng
39 (18,0)
64 (33,2)

32 (38,1)
50 (41,3)
85 (22,8)
38 (34,3)
58 (23,3)
39 (29,1)
62 (23,7)
73 (31,5)
11 (39,3)
87 (25,9)
12 (34,3)
15 (26,8)
10 (25,7)
43 (27,4)
71 (31,3)
21 (19,1)
16 (26,7)
17 (23,3)
102 (28,2)
54 (30,7)
81 (25,5)
85 (25,7)
50 (30,5)
78 (23,8)
57 (34,1)

BMI
Bình thường
102 (47,0)
86 (44,6)

33 (39,3)
50 (41,3)
171 (45,8)
48 (43,2)
118 (47,4)
55 (41,0)
123 (46,9)
98 (42,2)
7 (25,0)
159 (47,3)
17 (48,6)
22 (39,3)
16 (41,0)
72 (45,8)
97 (42,7)
52 (47,3)
28 (46,6)
36 (49,3)
157 (43,5)
74 (42,0)
147 (46,2)
154 (46,7)
67 (40,8)
143 (43,7)
78 (46,7)

Thừa cân/béo phì
76 (35,0)
43 (22,2)
19 (22,6)

21 (17,4)
117 (31,4)
25 (22,5)
73 (29,3)
40 (29,9)
77 (29,4)
61 (26,3)
10 (35,7)
90 (26,8)
6 (17,1)
19 (33,9)
13 (33,3)
42 (26,8)
59 (26,0)
37 (33,6)
16 (26,7)
20 (27,4)
102 (28,2)
48 (27,3)
90 (28,3)
91 (27,6)
47 (28,7)
106 (32,4)
32 (19,2)

p
0,0001
0,0001
0,24
0,15


0,31

0,19

0,88
0,44
0,41
0,003

Mối liên quan giữa tình trạng suy dinh dưỡng 
với đặc điểm của dân số nghiên cứu 

trạng  kinh  tế  không  tìm  thấy  sự  khác  biệt  có  ý 
nghĩa thống kê về tình trạng suy dinh dưỡng.  

Kết  quả  bảng  3.10  cho  thấy,  tuổi  và  giới  là 
hai  yếu tố  có  liên  quan đến tình  trạng  BMI  của 
người  cao  tuổi.  Tỉ  lệ  suy  dinh  dưỡng  tăng  dần 
theo  tuổi,  nhóm  tuổi  dưới  70  có  tỉ  lệ  suy  dinh 
dưỡng  thấp  nhất  18,0%,  trong  khi  nhóm  từ  80 
tuổi trở lên có tỉ lệ suy dinh dưỡng cao gần gấp 
hai  lần,  chiếm  38,1%.  Nam  có  tỉ  lệ  suy  dinh 
dưỡng 41,3% cao hơn gần gấp đôi so với tỉ lệ suy 
dinh  dưỡng  của  nữ  là  22,8%.  Giữa  các  nhóm 
trình độ học vấn khác nhau thì nhóm không biết 
đọc viết có tỉ lệ suy dinh dưỡng cao nhất (34,3%) 
so  với  nhóm  biết  đọc  viết  (23,3%)  và  nhóm  có 
trình  độ  từ  tiểu  học  trở  lên  29,1%.  Khi  so  sánh 
giữa  các  nhóm  tình  trạng  hôn  nhân,  học  vấn, 

nhóm nghề nghiệp, đối tượng sống chung, tình 

BÀN LUẬN 

224 

Nghiên cứu này là nghiên cứu đầu tiên được 
thực hiện tại Huyện Mỏ Cày Bắc, tỉnh Bến Tre để 
đánh giá tình trạng suy dinh dưỡng ở người cao 
tuổi  dựa  trên  chỉ  số  khối  cơ  thể  (BMI).  Nghiên 
cứu  tìm  thấy  tỉ  lệ  suy  dinh  dưỡng  ở  người  cao 
tuổi  là  cao,  chiếm  gần  một  phần  ba  dân  số 
nghiên cứu (27,5%) và tỉ lệ suy dinh dưỡng tăng 
dần  theo  tuổi  và  tình  trạng  suy  dinh  dưỡng  ở 
nam cao hơn nữ. Tỉ lệ suy dinh dưỡng tìm thấy 
trong nghiên cứu này tương tự với kết quả của 
nghiên  cứu  khác  được  thực  hiện  tại  An  Giang 
(24,2%)(5),  nhưng  cao  hơn  nhiều  so  với  kết  quả 
nghiên  cứu  thực  hiện  tại  thành  phố  Hồ  Chí 
Minh (17,8%). Tỉ lệ suy dinh dưỡng ở người cao 

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 
tuổi tăng dần theo tuổi và ở nam cao hơn ở nữ. 
Kết quả này cũng tương tự với kết quả được tìm 
thấy  ở  các  nghiên  cứu  khác  ở  Khánh  Hòa  và 
Thừa Thiên Huế(6).  
Với tỉ lệ suy dinh dưỡng cao sẽ dẫn đến làm 

tăng nguy cơ mắc các bệnh nhiễm trùng ở người 
cao  tuổi  do  suy  giảm  hệ  thống  miễn  dịch,  dẫn 
đến gia tăng gánh nặng về y tế(7). Mặc dù cả suy 
dinh  dưỡng  và  thừa  cân/  béo  phì  ở  người  cao 
tuổi  đều  là  những  yếu  tố  nguy  cơ  dẫn  đến  tử 
vong, nhưng người suy dinh dưỡng ở nhóm tuổi 
này có nguy cơ tử vong cao hơn nhiều lần so với 
người thuộc nhóm thừa cân/ béo phì(1). BMI thấp 
tăng  nguy  cơ  tử  vong  ở  người  mắc  bệnh  lao 
phổi, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, ung thư dạ 
dày(1). Theo dõi sự phân bố của BMI sẽ cảnh báo 
được các nguy cơ bệnh tật trong dân số, nếu BMI 
lệch trái tăng tỉ lệ suy dinh dưỡng là sự cảnh báo 
cho các bệnh nhiễm trùng, ngược lại là sự cảnh 
báo tăng nguy cơ bệnh không lây như tim mạch 
và đái tháo đường(9). Với tình hình tỉ lệ suy dinh 
dưỡng và thừa cân béo phì ở người cao tuổi tại 
Mỏ  Cày  Bắc  cao,  chiếm  hơn  một  nửa  dân  số 
nghiên  cứu,  điều  này  cho  thấy  sự  cần  thiết  của 
các chương trình can thiệp từ y tế cũng như các 
ban ngành địa phương nhằm cải thiện tình trạng 
dinh dưỡng cho người cao tuổi. Từ đó góp phần 
làm  giảm  gánh  nặng  bệnh  tật  ở  người  cao  tuổi 
đặc biệt là các bệnh truyền nhiễm. Các can thiệp 
này cần chú trọng nhiều vào đối tượng cao trên 
70+ tuổi và nam giới.  
KẾT LUẬN 

Kết  quả  thu  được  cho  thấy  tỉ  lệ  suy  dinh 
dưỡng của người cao tuổi tại huyện Mỏ Cày Bắc 

khá cao (27,3%) tương đương với tỉ lệ thừa cân/ 
béo  phì  (28,0%).  Suy  dinh  dưỡng  ở  người  cao 
tuổi gia tăng theo tuổi và suy dinh dưỡng ở nam 
cao  hơn  ở  nữ.  Chương  trình  dinh  dưỡng  ở  địa 
phương  nên  mở  rộng  các  hoạt  động  cho  chăm 
sóc,  cải  thiện  tình  trạng  dinh  dưỡng  của  người 

Nghiên cứu Y học

cao tuổi, nhằm giảm tỉ lệ bị suy dinh dưỡng hiện 
đang  ở  mức  cao  ở  người  cao  tuổi.  Các  nghiên 
cứu  về  đánh  giá  về  kiến  thức  và  thực  hành  về 
dinh dưỡng người cao tuổi cũng như chế độ ăn 
của người cao tuổi ở vùng nông thôn nên được 
thực  hiện  để  cung  cấp  thêm  thông  tin  cho  xây 
dựng chiến lược can thiệp hiệu quả hơn. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.

Ahmed T, Haboubi N (2010). Assessment and management of 
nutrition  in  older  people  and  its  importance  to  health.  Clin 
Interv Aging. 5: 207‐16. 

2.

Evans  C  (2005).  Malnutrition  in  the  elderly:  a  multifactorial 
failure to thrive. Perm J. 9(3): 38‐41. 

3.


Hoi  LV,  Phuc  HD,  Dung  TV,  Chuc  NT,  Lindholm  L  (2009). 
Remaining life expectancy among older people in a rural area 
of  Vietnam:  trends  and  socioeconomic  inequalities  during  a 
period  of  multiple  transitions.  BMC  Public  Health.  9:  471 
doi:10.1186/1471‐2458‐9‐471. 

4.

Microfinance  Risk  Management  (2009).  Phiếu  tính  điểm 
nghèo đơn giản Việt Nam: Tài liệu nhập dữ liệu.Hà Nội. Tr. 
22‐33. 

5.

Phạm  Thị  Tâm,  Nguyễn  Phước  Hải,  Lê  Văn  Khoa  (2009). 
Đánh giá tình trạng dinh dưỡng người cao tuổi tại huyện Tân 
Châu. tỉnh An Giang. Đề tài cấp cơ sở. Viện Dinh Dưỡng.Tr. 
87‐90. 

6.

Trương Tấn Minh, Lê Tấn Phùng (2008). Tình hình tăng huyết 
áp và các yếu tố liên quan ở người cao tuổi tỉnh Khánh Hòa. 
Đề tài cấp cơ sở. Sở Y tế Khánh Hòa.Tr. 90‐101. 

7.

Viện  Dinh  Dưỡng  (2001).  Cải  thiện  tình  trạng  dinh  dưỡng 
người cao tuổi Việt Nam. Nhà xuất bản Y học. Hà Nội. Tr. 78‐
101. 


8.

Visvanathan  R  (2003).  Under‐nutrition  in  older  people:  a 
serious and growing global problem!. J Postgrad Med. 49(4): 
352‐60. 

9.

WHO Expert Committee (1995). Physical status: the use and 
interpretation 
of 
anthropomatry 
World 
Health 
Organisation.WHO. Geneva. Pp. 10‐14. 

10.

WHO  Expert  Consultation  (2004).  Appropriate  body‐mass 
index  for  Asian  populations  and  its  implications  for  policy 
and intervention strategies. The Lancet. 363(9403)157‐163. 

Ngày nhận bài báo:  

 

 

6/5/2014 


Ngày phản biện nhận xét bài báo:  

13/6/2014 

Ngày bài báo được đăng:  
 

14/11/2014 

 

 

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 

225



×