Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Đặc điểm phân biệt teo đường mật với những nguyên nhân vàng da ứ mật khác tại khoa tiêu hóa Bệnh viện Nhi Đồng 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (424.19 KB, 7 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 

Nghiên cứu Y học

ĐẶC ĐIỂM PHÂN BIỆT TEO ĐƯỜNG MẬT  
VỚI NHỮNG NGUYÊN NHÂN VÀNG DA Ứ MẬT KHÁC  
TẠI KHOA TIÊU HÓA BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG 2 
Phạm Công Luận*, Phạm Lê An**, Nguyễn Trọng Trí**, Nguyễn Hoài Phong** 

TÓM TẮT 
Mục  tiêu: Xác định đặc điểm dịch tễ, lâm sàng, cận lâm sàng giúp phân biệt teo đường mật với những 
nguyên nhân vàng da ứ mật khác.  
Phương pháp nghiên cứu: Mô tả hàng loạt ca, hồi cứu và tiền cứu. 
Kết quả: 251 bệnh nhi thỏa tiêu chí chọn mẫu được đưa vào nghiên cứu. Có sự khác biệt rất rõ về giới tính, 
đặc điểm vàng da, màu phân, giá trị GGT, tỷ số GGT/AST > 2, GGT/ALT > 3, giá trị siêu âm gan mật và sinh 
thiết gan (trước mổ) (p < 0,0001). Cũng có sự khác biệt đáng kể về tuổi thai, cân nặng lúc sanh, mức độ tăng 
trưởng, kích thước gan, tình trạng rối loạn đông máu, giá trị bilirubin trực tiếp và men gan ALT (p < 0,05). 
Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tuổi nhập viện, thời điểm bắt đầu vàng da, kích thước lách, mức độ 
thiếu máu, giảm albumin máu, giá trị bilirubin toàn phần, men gan AST, ALP giữa nhóm teo đường mật và 
không teo đường mật. 
Kết  luận: Không có đặc điểm lâm sàng hay cận lâm sàng riêng lẻ nào đủ độ nhạy và độ chuyên để chẩn 
đoán phân biệt teo đường mật với những nguyên nhân vàng da ứ mật khác. Cần kết hợp các triệu chứng lâm 
sàng và cận lâm sàng để chẩn đoán nguyên nhân vàng da ứ mật. 
Từ khóa: vàng da ứ mật, teo đường mật, ứ mật trong gan 

ABSTRACT 
CHARACTERISTICS DIFFERENTIATING BILIARY ATRESIA FROM OTHER CAUSES  
OF CHOLESTASIS AT GASTROINTESTINAL DEPARTMENT, CHILDREN’S HOSPITAL 2 
Pham Cong Luan, Pham Le An, Nguyen Trong Tri, Nguyen Hoai Phong 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 408‐414 
Objectives: Identify the epidemiological characteristics, clinical manifestations and laboratory  test  results 


which may help differentiate biliary atresia from other causes of cholestasis. 
Method: Retrospective and prospective, descriptive study. 
Results: 251 patients with cholestasis who met criteria were involved to our study. There was significant 
difference about sex, jaundice characteristics, stool colour, GGT level, the ratio GGT/AST > 2, GGT/ALT > 3, 
value  of  abdominal  ultrasound  and  liver  biopsy  (before  Kasai’s  procedure)  (p<0,0001).  There  was  also 
considerable  difference  about  gestatioal  age,  birth  weight,  growth,  size  of  liver,  impairment  of  coagulation 
function, direct serum bilirubin and AST level between biliary atresia and other causes of cholestasis (p<0,05). 
There  was  no  statistical  difference  about  aged  admission,  onset  of  jaundice,  size  of  spleen,  anemia, 
hypoalbuminemia,  total  serum  bilirubin,  AST,  and  ALP  level  between  biliary  atresia  and  other  causes  of 
cholestasis (p>0,05).  
Conclusion:  There  was  not  any  single  feature  with  sufficient  sensitivity  and  specificity  to  differentiate 
biliary atresia from other causes of cholestasis in children. It’s neccesary to combine clinical manifestations with 
laboratory tests so as to confirm suggest the cause of cholestasis. 
Key words: biliary atresia, cholestasis, differentiation diagnostic 
*Nội trú Nhi, khóa 2010‐2013, Đại học Y Dược Tp. Hồ Chí Minh 
**Đại học Y Dược Tp. Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: BS. Phạm Công Luận 
ĐT: 0972792794 
Email:  

Nhi Khoa

409


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Tiêu chí chọn bệnh 


ĐẶT VẤN ĐỀ 
Vàng da ứ mật (VDUM) rất thường gặp trong 
các bệnh lý gan mật ở trẻ em, trong đó tiên lượng 
bệnh  phụ  thuộc  vào  nguyên  nhân.  Chẩn  đoán 
phân biệt sớm teo đường mật (TĐM) với những 
nguyên nhân VDUM khác là rất cần thiết vì kết 
quả  dẫn  lưu  mật  phụ  thuộc  rất  nhiều  vào  thời 
điểm phẫu thuật(4,15). 
Theo  những  nghiên  cứu  của  tác  giả  Lee  và 
Kamameedi,  không  có  bất  kỳ  đặc  điểm  nào  đủ 
độ  nhạy  và  độ  chuyên  để  chẩn  đoán  phân  biệt 
TĐM  không  TĐM(4,5).  Theo  tác  giả  Poddar, 
Dehghani và y văn, sinh thiết gan (STG) là  tiêu 
chuẩn vàng chẩn đoán phân biệt, tuy nhiên kết 
quả  phụ  thuộc  rất  nhiều  vào  nhà  giải  phẫu 
bệnh(3,10,13,15). 
Thực  tế,  STG  ở  bệnh  viện  Nhi  Đồng  2  còn 
nhiều  hạn  chế  vì  những  lý  do  chủ  quan  và 
khách  quan.  Vì  vậy,  chúng  tôi  tiến  hành 
nghiên  cứu  nhằm  xác  định  xem  có  đặc  điểm 
nào có thể giúp phân biệt sớm TĐM với những 
nguyên  nhân  VDUM  khác  khi  không  hoặc 
chưa thể STG hay không. 

Mục tiêu nghiên cứu 
1. Mô tả sự khác biệt về các đặc điểm dịch tễ, 
lâm  sàng,  cận  lâm  sàng  giữa  nhóm  trẻ  VDUM 
do TĐM và không TĐM 
2. Xác định giá trị của một số đặc điểm lâm 
sàng và kết quả cận lâm sàng trong chẩn đoán 

phân  biệt  TĐM  với  những  nguyên  nhân 
VDUM khác 

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Thiết kế nghiên cứu 

Trẻ  từ  1‐24  tháng  tuổi  có  VDUM,  được  tái 
khám và theo dõi bilirubin toàn phần, trực tiếp ít 
nhất 6 tháng từ lúc chẩn đoán. 

Tiêu chí loại trừ
Bỏ tái khám đối với chẩn đoán theo dõi viêm 
gan  sơ  sinh  vô  căn  và  teo  đường  mật  có  phẫu 
thuật dẫn lưu mật. 

Cỡ mẫu 
Ước tính tỷ lệ lưu hành: 
N

Z 21 / 2 p(1  p )  
d2

Trong đó: α = 0.05 → Z = 1.96, d = 0.1 
p: tỷ lệ nguyên nhân VDUM thường gặp nhất 
Theo  nghiên  cứu  của  tác  giả  Minh  Ngọc, 
TĐM  chiếm  tỷ  lệ  cao  nhất,  25,7%(12)→  N  =  74. 
Theo  tác  giả  Lee,  viêm  gan  sơ  sinh  chiếm  tỷ  lệ 
cao nhất, 38%(6)→ N = 91 
Vậy  cỡ  mẫu  nghiên  cứu  tối  thiểu  là  91 
trường hợp 


Các bước tiến hành 
Thu thập số liệu theo hồ sơ bệnh án lưu trữ, 
sổ tái khám ngoại trú và phiếu thu thập số liệu 
soạn sẵn. 
Sử  dụng  phần  mềm  SPSS  11.5  for 
Windows để quản lý và xử lý số liệu: tính tần 
số và tỷ lệ phần trăm với các biến định tính, trị 
số trung bình, độ lệch chuẩn, trung  vị  với  các 
biến  định  lượng.  So  sánh  các  tỷ  lệ  bằng  phép 
kiểm  chi  bình  phương  (X2),  các  trung  bình 
bằng phép kiểm T‐test mẫu độc lập và Anova, 
với mức ý nghĩa p < 0,05. 

Tiêu chuẩn chẩn đoán phân biệt TĐM(10,15) 

Mô tả hàng loạt ca 

Đối tượng nghiên cứu 
Tất  cả  bệnh  nhi  VDUM  từ  1‐24  tháng  tuổi 
nhập khoa Tiêu hóa Bệnh viện Nhi Đồng 2 trong 
thời gian từ 1/1/2010 đến 28/02/2013. 

Sinh thiết gan là tiêu chuẩn vàng chẩn đoán 
phân biệt TĐM với các nguyên nhân ứ mật khác. 
Hình ảnh điển hình trong TĐM: không xáo trộn 
cấu  trúc  tiểu  thùy  gan,  phù  khoảng  cửa,  tăng 
sinh ống mật và xơ hóa, nút mật. 
Chụp đường mật lúc mở bụng là tiêu chuẩn 
vàng  chẩn  đoán  TĐM  khi  lâm  sàng  không  thể 

xác định teo hay không TĐM, hoặc khi hình ảnh 

410

Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 
mô học gợi  ý  TĐM.  Chụp  đường  mật  giúp  xác 
định tắc nghẽn, chỉ rõ nơi tắc, tạo đường thông 
để tái dẫn lưu mật. 

KẾT QUẢ 
So sánh các đặc điểm dịch tễ, lâm sàng, cận 
lâm  sàng  giữa  nhóm  trẻ  VDUM  do  TĐM 
và không TĐM 
Trong thời gian nghiên cứu từ tháng 01/2010 
–  tháng  02/2013,  có  251  bệnh  nhi  thỏa  tiêu  chí 
chọn mẫu được đưa vào nghiên cứu.  2  nguyên 
nhân  VDUM  thường  gặp  nhất  là  viêm  gan  sơ 
sinh vô căn và TĐM, lần lượt chiếm lệ 29,1% và 
25,9%.  Vàng  da,  vàng  mắt,  tiểu  sậm  màu  là 

Nghiên cứu Y học

những triệu chứng gần như luôn luôn có (99,2‐
100%).  Gan  to  và  lách  to  cũng  rất  thường  gặp 
(87,3% và 83,3%). Mức bilirubin toàn phần, trực 
tiếp,  và  các  men  gan  tăng  rất  cao  (gấp  3‐20  lần 
giá trị giới hạn trên bình thường) 


Đặc điểm dịch tễ
Bảng 1:  
Đặc điểm

TĐM
Không TĐM p (X2)
n (%) n=65 n (%) n=186
(25,9)
(74,1)
Nam:nữ
24:41 (0,6:1) 125:61 (2:1) <0,0001
Nơi cư trú (tỉnh)
50 (76,9)
123 (66,1)
0,106
Tuổi thai (đủ tháng) 59 (90,8)
140 (75,3)
0,008
CNLS (không nhẹ
58 (89,2)
136 (73,1)
0,008
cân)

Đặc điểm lâm sàng 
Bảng 2:  
Đặc điểm
Tuổi nhập viện: trung vị (khoảng, tuần)
Nhập viện trễ

0-4 tuần
5-8 tuần
Thời điểm bắt đầu
vàng da
9-12 tuần
>12 tuần
Tăng dần
Đặc điểm vàng da
Giảm, tăng lại
Chậm tăng trưởng
Trắng
Màu phân
Vàng nhạt
Vàng tươi
2cm
Kích thước gan (dưới
3cm
hạ sườn phải)
4cm
Độ 1
Kích thước lách to
Độ 2
Độ 3

Teo đường mật
n (%)
n=65 (25,9)
9 (2-38)
35 (53,8)
40 (67,8)

16 (27,1)
3 (5,1)
0 (0,0)
32 (51,6)
30 (48,4)
16 (24,6)
28 (43,1)
35 (53,8)
2 (3,1)
19 (29,2)
36 (55,4)
6 (9,2)
35 (53,8)
13 (20,0)
1 (1,5)

Không teo đường mật
n (%)
n=186 (74,1)
9 (4-84)
82 (44,1)
113 (67,7)
38 (22,8)
8 (4,8)
8 (4,8)
174 (98,3)
3 (1,7)
75 (40,3)
5 (2,7)
46 (24,7)

135 (72,6)
75 (40,3)
66 (35,5)
17 (9,1)
71 (38,2)
34 (18,3)
5 (2,7)

p (X2)
0,485
0,175
0,364

<0,0001
0,023
<0,0001

0,026

0,085

Đặc điểm cận lâm sàng 
Bảng 3:  
Đặc điểm
Rối loạn đông máu
Giảm albumin máu
Bilirubin toàn phần: trung bình ± SD
Bilirubin trực tiếp > 4 mg/l
AST (U/L) trung bình ± SD
ALT (U/L) trung bình ± SD

ALP (U/L) trung bình ± SD

Nhi Khoa

Teo đường mật n (%)
n=65 (25,9)
11 (16,9)
13 (20,0)
12,97 ± 4,19
61 (93,8)
236,4 ± 139,2
147,2 ± 88,6
1023,6 ± 634,1

Không teo đường mật
n (%) n=186 (74,1)
64 (34,4)
38 (20,4)
12,12 ± 6,71
138 (74,2)
284,4 ± 296,0
192,8 ± 231,1
1034,2 ± 681,4

p (X2)
0,008
0,941
0,341
0,001
0,085

0,025
0,912

411


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

Nghiên cứu Y học 
Đặc điểm
GGT (U/L) trung bình ± SD
GGT/AST > 2
GGT/ALT > 3
Siêu âm gan mật
Sinh thiết gan trước mổ

Teo đường mật n (%)
n=65 (25,9)
476,9 ± 361,0
33 (50,8)
34 (52,3)
45 (70,8)
8/11 (72,7)

Có  sự  khác  biệt  rất  có  ý  nghĩa  thống  kê  về 
giới tính (nữ chiếm ưu thế),  đặc  điểm  vàng  da, 
màu  phân,  giá  trị  GGT,  tỷ  số  GGT/AST  >  2, 
GGT/ALT > 3, kết quả siêu âm gan mật và STG 
trước mổ (p<0,0001). Ngoài ra, cũng có sự khác 
biệt đáng kể về tuổi thai, cân nặng lúc sanh, mức 

độ  tăng  trưởng,  kích  thước  gan,  tình  trạng  rối 
loạn đông máu, giá trị bilirubin trực tiếp và men 

Không teo đường mật
n (%) n=186 (74,1)
218,1 ± 235,6
39 (21,0)
44 (23,7)
176 (94,6)
49/50 (98,0)

p (X2)
<0,0001
<0,0001
<0,0001
<0,0001
<0,0001

gan  ALT  (p<0,05)  giữa  nhóm  TĐM  và  nhóm 
không  TĐM.  Không  có  sự  khác  biệt  có  ý  nghĩa 
thống  kê  về  những  đặc  điểm  tuổi  nhập  viện, 
thời điểm nhập viện, thời điểm bắt đầu vàng da, 
kích  thước  lách,  mức  độ  thiếu  máu,  giảm 
albumin  máu,  giá  trị  bilirubin  toàn  phần,  men 
gan AST và ALP giữa 2 nhóm (p> 0,05). 

Giá trị của các đặc điểm chẩn đoán phân biệt TĐM với những nguyên nhân VDUM khác 
Bảng 4:  
Đặc điểm
Vàng da (giảm, tăng lại)

Màu phân (trắng)
Kích thước gan ≥3cm
Bilirubin trực tip > 4mg/l
GGT >300 UL
GGT/AST >2
GGT/ALT>3
Siêu âm gan mật
STG trước mổ

Độ nhạy
(%)
46,2
43,1
64,6
93,8
61,5
50,8
52,3
70,8
72,7

Độ chuyên (%) GT chẩn đoán dương (%) GT chẩn đoán âm (%) Độ chính xác (%)
98,4
97,3
55,4
25,8
80,6
79,0
76,3
94,6

98,0

90,0
84,0
33,6
30,6
52,6
45,8
43,6
82,1
88,9

83,9
83,0
81,7
92,3
85,7
82,1
82,1
90,3
94,2

85,3
83,3
57,8
43,4
75,7
71,7
70,1
88,4

93,4

BÀN LUẬN 

Đặc điểm lâm sàng 

Đặc điểm dịch tễ và tiền căn 

Tỷ lệ chậm tăng trưởng ở nhóm không TĐM 
gấp  đôi  nhóm  TĐM.  Sự  khác  biệt  này  là  do 
trong  những  tháng  sau  sanh,  trẻ  TĐM  thường 
vẫn  phát  triển  bình  thường,  trong  khi  ở  nhóm 
trẻ  mắc  bệnh  chuyển  hóa  hoặc  di  truyền,  hay 
nuôi ăn tĩnh mạch kéo dài, chức năng gan bị tổn 
thương  rất  sớm  khiến  trẻ  chậm  tăng  trưởng.  tỷ 
lệ  trẻ  chậm  tăng  trưởng  tập  trung  chủ  yếu  ở 
nhóm bệnh chuyển hóa, di truyền, nuôi ăn tĩnh 
mạch  kéo  dài,  nang  đường  mật  và  chưa  rõ 
nguyên  nhân,  với  tỷ  lệ  lần  lượt  là  hội  chứng 
ARC (100%), hội chứng Alagille (83,3%), nuôi ăn 
tĩnh  mạch  kéo  dài  (71,4%),  nang  đường  mật 
(66,7%)  và  chưa  rõ  nguyên  nhân  (50%).  Ngoài 
ra,  chính  đặc  điểm  tăng  trưởng  bình  thường  ở 
nhóm  trẻ  TĐM  trong  những  tháng  đầu  đời  là 
một trong những lý do khiến bệnh nhi được đưa 

Ở  trẻ  TĐM,  giới  nữ  chiếm  tỷ  lệ  đa  số 
(nam:nữ  =  0,6:1)  dù  trong  tổng  số  những  bệnh 
nhi  VDUM  giới  nam  chiếm  ưu  thế  (nam:nữ  = 
1,46:1). Kết quả này phù hợp với y văn và chưa 

rõ lý do.  
Phần lớn trẻ TĐM sanh đủ tháng và không 
nhẹ cân. Kết quả này cũng phù hợp với y văn. 
Yếu  tố  hiếm  khi  tác  động  lên  trẻ  sơ  sinh  non 
tháng càng củng cố giả thuyết là do những tác 
nhân  nhiễm  trùng,  thiếu  tưới  máu  tử  cung, 
nhiễm độc hoặc rối loạn chuyển hóa tác  động 
lên cuối thai kỳ, nhưng cho đến hiện tại, chưa 
có yếu tố riêng lẻ nào được xác định là nguyên 
nhân TĐM. 

412

Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 
đi  khám  trễ  vì  thân  nhân  thấy  trẻ  vẫn  bú  giỏi, 
tăng  cân  tốt  thì  nghĩ  rằng  vàng  da  ở  trẻ  là  do 
sinh  lý  hoặc  do  sữa  mẹ  nên  không  đưa  trẻ  đi 
khám  cho  đến  khi  trẻ  vàng  da  ngày  càng  tăng, 
tăng cân chậm lại hoặc trẻ tình cờ mắc bệnh nào 
đó mới đưa trẻ đi khám thì đã trễ. 
Về  đặc  điểm  vàng  da,  tính  chất  vàng  da 
giảm rồi tăng lại khá đặc trưng cho TĐM, chiếm 
tỷ  lệ  48,4%  trong  nhóm  TĐM,  so  với  1,7%  ở 
nhóm không TĐM. Đặc điểm này thường xảy ra 
ở  nhóm  TĐM  chu  sinh,  bệnh  nhi  có  khoảng 
trống không vàng da sau giai đoạn vàng da sinh 
lý,  nhưng  sau  đó  vàng  da  trở  lại  và  tăng  dần. 

Chính đặc điểm này cũng là một trong những lý 
do  khiến  bệnh  nhi  được  nhập  viện  trễ  vì  thân 
nhân bệnh nhi cũng chờ đợi vàng da sẽ hết như 
lần trước nhưng điều đó đã không xảy ra. 
Về  màu  sắc  phân,  phân  trắng  không  có  sắc 
tố  mật  cũng  là  đặc  điểm  khá  đặc  trưng  cho 
TĐM, tuy cũng có thể gặp ở những bệnh lý khác 
như Alagille… Trong nghiên cứu của chúng tôi, 
tỷ  lệ  tiêu  phân  trắng  ở  nhóm  TĐM  là  43,1%  so 
với  2,7%  ở  nhóm  không  TĐM.  Có  khá  nhiều 
thân nhân bệnh nhi phát hiện ra màu phân của 
trẻ  không  vàng  như  bình  thường,  nhưng  lại 
được đảm bảo rằng đó là do rối loạn tiêu hóa, do 
phân  trẻ  chưa  ổn  định  lúc  nhỏ…bởi  những 
người  khác,  thậm  chí  cả  nhân  viên  y  tế.  Có  tới 
18/33 (54,4%) trẻ tiêu phân trắng nhập viện trễ, 
trong đó có 2 trường hợp được đi khám trước đó 
nhưng  nhân  viên  y  tế  khẳng  định  là  bình 
thường. Ở Đài Loan, một trong những nơi có tỷ 
lệ  TĐM  cao  nhất  thế  giới,  có  một  chương  trình 
tầm soát rộng khắp bằng cách cung cấp cho cha 
mẹ các trẻ sơ sinh vừa mới chào đời một bảng so 

Nghiên cứu Y học

sánh màu phân của trẻ trước khi xuất viện. Một 
tháng sau, cha mẹ các trẻ sẽ gửi lại bảng so sánh 
này  cho  người  cung  cấp  và  đánh  dấu  vào  màu 
phân  gần  giống  nhất  với  màu  phân  của  trẻ. 
Chương trình này đã mang đến một sự cải thiện 

đáng kể trong việc phát hiện sớm và phẫu thuật 
Kasai sớm cho trẻ TĐM, dẫn đến sự cải thiện kết 
quả phẫu thuật Kasai một cách đáng ngạc nhiên. 
Ở nghiên cứu này, tỷ lệ phẫu thuật Kasai trước 
60  ngày  tuổi  ở  nhóm  được  tham  gia  chương 
trình tầm soát so với nhóm không được tầm soát 
là 65,7% so với 49,4% (p=0,02) và tỷ lệ sống còn 
mà không vàng da ở 2 nhóm lần lượt là 64,3% và 
27,3% (p<0,001). Từ thành công của nghiên cứu 
trên, chúng tôi đề xuất nên làm những bảng so 
sánh  màu  phân  theo  mẫu  của  tác  giả  Lien  và 
cộng  sự  và  phát  cho  tất  cả  những  cha  mẹ  sắp 
sinh con ở các cơ sở sản khoa, đồng thời hướng 
dẫn, dặn dò họ thật kỹ cách theo dõi màu phân 
của  trẻ  và  dặn  đưa  trẻ  đi  khám  ngay  nếu  thấy 
màu phân trẻ bất thường. Làm như thế hy vọng 
chúng  ta  cũng  sẽ  phát  hiện  sớm  được  nhiều 
trường hợp TĐM hơn. 
Về đặc điểm kích thước gan, nhóm trẻ TĐM 
thường có gan to ≥ 3 cm dưới hạ sườn phải, dọc 
đường trung đòn (64,6%), trong khi ở nhóm trẻ 
không TĐM là thường < 3cm (40,3%). 
Tuy có sự khác biệt về những đặc điểm trên, 
nhưng độ nhạy của chúng trong nghiên cứu của 
chúng  tôi  không  cao,  còn  độ  đặc  hiệu,  giá  trị 
chẩn đoán dương và âm khá cao, trừ kích thước 
gan,  vì  vậy  khó  có  thể  sử  dụng  để  chẩn  đoán 
loại  trừ  TĐM.  Kết  quả  này  tương  tự  những 
nghiên cứu khác 


So sánh các giá trị của màu phân trong chẩn đoán phân biệt TĐM giữa các nghiên cứu 
Bảng 5:  
Đặc điểm
lâm sàng

Màu phân
trắng

Nhi Khoa

Độ nhạy
Độ đặc hiệu
GT chẩn đoán dương
GT chẩn đoán âm

Các nghiên cứu (tỷ lệ %)
Chúng tôi, Việt Nam
Lee, Malaysia
(n=251)
(n=146)
43,1
94,0
97,3
39,0
84,0
83,0
-

Poddar, Ấn Độ
(n=101)

86,0
76,0
65,0
91,0

413


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

Nghiên cứu Y học 
Đặc điểm cận lâm sàng 

Mức  GGT  trong  máu  tăng  cao  đáng  kể  ở 
nhóm TĐM so với nhóm không TĐM, gấp hơn 2 
lần. Kết quả này tương tự với nghiên cứu của tác 
giả Tang trên 93 trẻ VDUM (353,3 ± 334,4 UL so 
với 114,8 ± 86 UL, p<0,001), và của Liu trên 36 trẻ 
(622,5  ±  211,9  UL  so  với  168,8  ±  100,3  UL, 
p<0,001)  ở  Đài  Loan.  Nếu  lấy  giá  trị  GGT  > 
300UL  như  tiêu  chuẩn  chẩn  đoán  phân  biệt 
TĐM  với  những  nguyên  nhân  khác,  thì  giá  trị 
GGT > 300UL trong nghiên cứu của chúng tôi có 
độ nhạy, độ đặc hiệu và độ chính xác lần lượt là 
61,5%, 80,6% và 75,7%. Kết quả này có độ nhạy 
và độ chính xác cao hơn nhưng độ đặc hiệu thấp 
hơn  so  với  nghiên  cứu  của  Tang,  với  độ  nhạy, 
độ  đặc  hiệu  và  độ  chính  xác  lần  lượt  là  39,1%, 
98,1%  và  65,6%,  và  có  độ  chính  xác  thấp  hơn 
nghiên cứu của Liu là 85%. Ngoài ra, theo tác giả 

Tang, tỷ số GGT/AST > 2 và GGT/ALT > 2 cũng 
có giá trị góp phần chẩn đoán teo đường mật với 
độ nhạy, độ đặc hiệu và độ chính xác lần lượt là 
80,9%, 72,2% và 77,1% đối với tỷ số GGT/AST > 
2  và  83,1%,  62,0%  và  73,9%  đối  với  tỷ  số 
GGT/ALT > 2. Còn trong nghiên cứu của chúng 
tôi, tỷ số GGT/AST > 2 có độ nhạy, độ đặc hiệu 
và  độ  chính  xác  lần  lượt  là  50,8%,  79,0%  và 
71,7%, và tỷ số GGT/ALT > 3 có độ nhạy, độ đặc 
hiệu và độ chính xác lần lượt là 52,3%, 76,3% và 
70,1%.  Kết  quả  trên  cho  thấy  từng  xét  nghiệm 

riêng  lẻ  không  thể  có  giá  trị  đủ  mạnh  để  chẩn 
đoán phân biệt TĐM.  
Về đặc điểm bilirubin: trong nghiên cứu của 
chúng  tôi,  không  có  sự  khác  biệt  về  bilirubin 
toàn  phần,  nhưng  có  sự  khác  biệt  rất  rõ  về 
bilirubin  trực  tiếp  (p=0,001).  Kết  quả  này  phù 
hợp  với  nghiên  cứu  của  tác  giả  Mowat  và 
Poddar. Tuy nhiên, với giá trị bilirubin trực tiếp 
> 4 mg/dl trong chẩn đoán TĐM, độ đặc hiệu và 
độ chính xác của xét nghiệm không cao trong cả 
nghiên cứu của chúng tôi cũng như của Poddar, 
lần lượt là 25,8% so với 26% đối với độ đặc hiệu 
và 43,4% so với 50,5% đối với độ chính xác, tuy 
độ nhạy đều cao, lần lượt là 93,8% và 97%.  
Về đặc điểm men gan, mức ALT trong máu 
ở  nhóm  TĐM  thường  thấp  hơn  so  với  nhóm 
không  TĐM.  Kết  quả  này  cũng  phù  hợp  với 
nghiên  cứu  của  tác  giả  Dahghani  trên  65  trẻ 

VDUM  ở  Iran  (161  ±  107  UL  so  với  212  ±  198 
UL). 
Siêu  âm  gan  mật  cũng  có  giá  trị  cao  trong 
chẩn đoán phân biệt TĐM. Kết quả nghiên cứu 
của  chúng  tôi  cao  hơn  so  với  nghiên  cứu  của 
tác  giả  Dehghani  và  Poddar,  và  tương  đương 
với  tác  giả  Nemati.  Điều  này  cho  thấy  giá  trị 
của  siêu  âm  gan  mật  phụ  thuộc  nhiều  vào 
người thực  hiện  và  không  nên  được  xem  như 
xét nghiệm loại trừ TĐM 

So sánh giá trị siêu âm gan mật trong chẩn đoán TĐM  
Bảng 6:  
Giá trị siêu âm gan mật
Độ nhạy
Độ đặc hiệu
GT chẩn đoán dương
GT chẩn đoán âm
Độ chính xác

Chúng tôi (n=251)
70,8
94,6
82,1
90,3
88,4

Các nghiên cứu (tỷ lệ %)
Dehghani (n=65, Iran) Poddar (n=101, Ấn Độ) Nemati (n=49, Iran)
52,6

71
86
76,1
82
97
47,6
67,5
92
79,5
84
94
69,2
78,2
94

Theo  y  văn,  STG  là  công  cụ  hữu  ích  nhất 
giúp  chẩn  đoán  TĐM.  Trong  nghiên  cứu  của 
chúng tôi, STG có độ chuyên, giá trị chẩn đoán 
dương,  âm  và  độ  chính  xác  cao  (98%,  88,9%, 
94,2%  và  93,4%)  nhưng  độ  nhạy  không  cao 
(72,7%).  Sự  khác  biệt  này  phụ  thuộc  rất  nhiều 
vào chuyên môn của nhà giải phẫu bệnh. 

414

Tất  cả  những  kết  quả  trên  một  lần  nữa  cho 
thấy không có một xét nghiệm riêng lẻ nào trong 
số  những  đặc  điểm  trên  đủ  giá  trị  tin  cậy  để 
chẩn  đoán  phân  biệt  TĐM  với  không  TĐM  do 
sự dao động mạnh giá trị của chúng. 


Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 
KẾT LUẬN 
Không có bất kỳ một đặc điểm riêng lẻ nào 
có độ nhạy và độ chuyên đủ để chẩn đoán phân 
biệt TĐM với những nguyên nhân VDUM khác. 
Tuy nhiên, tính chất tiêu phân trắng kéo dài và 
mức  độ  tăng  cao  của  các  men  gan  GGT  >  300 
UI/L, tỷ lệ GGT/AST > 2, GGT/ALT > 3 cùng với 
sự  hỗ  trợ  của  siêu  âm  gan  mật  và  STG  có  thể 
giúp chẩn đoán khá chính xác TĐM. Do đó, cần 
kết  hợp  nhiều  đặc  điểm  để  có  thể  chẩn  đoán 
nguyên nhân VDUM. 

8.

9.

10.

11.
12.

TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.

2.

3.

4.

5.

6.

7.

Brumbaugh  D,  Mack  C  (2012),  ʺConjugated 
hyperbilirubinemia  in  childrenʺ,  Pediatr  Rev,  33  (7),  pp. 
291‐302. 
Chardot C (2006), ʺBiliary atresiaʺ, Orphanet J Rare Dis, 1, 
pp. 28. 
Dehghani  SM,  et  al  (2006),  ʺComparison  of  different 
diagnostic  methods  in  infants  with  Cholestasisʺ,  World  J 
Gastroenterol, 12 (36), pp. 5893‐6. 
Giorgina  MV,  Nedim  H  (2011),  ʺBiliary  atresia  and 
neonatal  disorders  of  the  bile  ductsʺ,  Pediatric 
Gastrointestinal and Liver Disease, 4th, Elsevier Saunders, 
Philadelphia, pp. 741‐751. 
Karnameedi  S,  Lim  CT  (1997),  ʺCharacteristics  of  Malaysian 
infants  with  biliary  atresia  and  neonatal  hepatitisʺ,  Med  J 
Malaysia, 52 (4), pp. 342‐7. 
Lee  WS,  Chai  PF  (2010),  ʺClinical  features  differentiating 
biliary atresia from other causes of neonatal cholestasisʺ, Ann 
Acad Med Singapore, 39 (8), pp. 648‐54. 
Lien  TH,  et  al  (2010),  ʺEffects  of  the  infant  stool  color  card 
screening  program  on  5‐year  outcome  of  biliary  atresia  in 

Taiwanʺ, Hepatology, 53 (1), pp. 202‐8. 
 

Nhi Khoa

13.

14.

15.
16.

17.

Nghiên cứu Y học

Liu  CS,  et  al  (1998),  ʺValue  of  gamma‐glutamyl 
transpeptidase  for  early  diagnosis  of  biliary  atresiaʺ, 
Zhonghua Yi Xue Za Zhi (Taipei), 61 (12), pp. 716‐20. 
Mowat  AP,  et  al  (1976),  ʺExtrahepatic  biliary  atresia  versus 
neonatal  hepatitis.  Review  of  137  prospectively  investigated 
infantsʺ, Arch Dis Child, 51 (10), pp. 763‐70. 
Moyer  V,  et  al  (2004),  ʺGuideline  for  the  evaluation  of 
cholestatic jaundice in infants: recommendations of the North 
American Society for Pediatric Gastroenterology, Hepatology 
and Nutritionʺ, J Pediatr Gastroenterol Nutr, 39 (2), pp. 115‐
28. 
Nemati M, et al (2009), ʺUltrasound findings in biliary atresia: 
the role of triangular cord signʺ, Pak J Biol Sci, 12 (1), pp. 95‐7. 
Nguyễn  Minh  Ngọc  (2008),  Đặc  điểm  một  số  rối  loạn  dinh 

dưỡng thường gặp ở trẻ vàng da ứ mật kéo dài trên 1 tháng 
tuổi tại khoa Tiêu hóa  Bệnh  viện  Nhi  Đồng  2,  Luận  văn  tốt 
nghiệp bác sĩ chuyên khoa II, Đại học Y Dược Thành phố Hồ 
Chí Minh. 
Poddar U, et al (2009), ʺNeonatal cholestasis: differentiation of 
biliary  atresia  from  neonatal  hepatitis  in  a  developing 
countryʺ, Acta Paediatr, 98 (8), pp. 1260‐4. 
Riidaura  SC  (1992),  ʺRole  of  liver  biopsy  in  the  diagnosis  of 
prolonged cholestasis in infantsʺ, Rev Invest Clin, 44 (2), pp. 
193‐202. 
Suchy  FJ  (2004),  ʺNeonatal  cholestasisʺ,  Pediatr  Rev,  25  (11), 
pp. 388‐96. 
Tang  KS,  et  al  (2007),  ʺGamma‐glutamyl  transferase  in  the 
diagnosis of biliary atresiaʺ, Acta Paediatr Taiwan, 48 (4), pp. 
196‐200. 
Valerie  AM,  William  FB  (2004),  ʺApproach  to  neonatal 
cholestasisʺ,  Pediatric  Gastrointestinal  Disease,  4th,  BC 
Decker, Ontario, pp. 1079‐1093. 

 
Ngày nhận bài báo 

 

 

: 30/10/2013 

Ngày phản biện nhận xét bài báo 


: 05/11/2013 

Ngày bài báo được đăng 

: 05/01/2014 

 

415



×