Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Hiệu quả misoprostol đặt dưới lưỡi trong chấm dứt thai ngưng tiến triển ≤9 tuần tại Bệnh viện Đa khoa Củ Chi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (352.35 KB, 7 trang )

Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

HIỆU QUẢ MISOPROSTOL ĐẶT DƯỚI LƯỠI TRONG CHẤM DỨT THAI 
NGƯNG TIẾN TRIỂN ≤9 TUẦN TẠI BV ĐKKV CỦ CHI 
Lê Thị Chuyền*, Ngô Thị Kim Phụng** 

TÓM TẮT 
Mục  tiêu:  Xác  định  tỷ  lệ  tống  xuất  thai  hoàn  toàn  của  Misoprostol  đặt  dưới  lưỡi  trong  chấm  dứt  thai 
ngưng tiến triển ≤9 tuần tại bệnh viện đa khoa khu vực  Củ  Chi  và  tỷ  lệ  các  biến  chứng:  băng  huyết,  nhiễm 
trùng, các tác dụng ngoại ý: đau bụng, buồn nôn, nôn, tiêu chảy, sốt. 
Thiết kế nghiên cứu: Báo cáo loạt ca tiến cứu. 
Phương pháp: Trong thời gian từ tháng 11/2012 đến 06/2013, có tất cả 171 trường hợp thỏa tiêu chuẩn, 
trong đó có 5 trường hợp mất dấu. Như vậy số mẫu còn lại là 166 trường hợp. Bệnh nhân được điều trị liều 
400μg Misoprostol đặt dưới lưỡi và lặp lại cùng liều sau mỗi 4 giờ nếu thai chưa tống xuất. Tổng số liều tối đa là 
1.600μg Misoprostol (lặp lại 4 lần). Tiêu chuẩn đánh giá thành công khi thai được tống xuất hoàn toàn sau kết 
thúc nghiên cứu mà không có một can thiệp thủ thuật nào vào buồng tử cung. 
Kết quả: Trong 166 trường hợp thai ngưng tiến triển ≤9 tuần, tỷ lệ tống xuất thai hoàn toàn của phác đồ là 
93,4% (khoảng tin cậy 95%: 88,5% đến 96,6%), tập trung nhiều nhất trong 48 giờ đầu (86,7%), trung vị của 
thời gian ra thai là 11 giờ (khoảng tứ vị 8‐17 giờ). Không có trường hợp nào bị băng huyết và nhiễm trùng xảy 
ra. Toàn bộ bệnh nhân trong mẫu nghiên cứu sau khi dùng thuốc đều có đau bụng và ở mức độ vừa chiếm tỷ lệ 
72,3%. Các tác dụng ngoại ý khác: tiêu chảy (13,4%), buồn nôn‐nôn (7,8%) và sốt/lạnh run (4,2%). 
Kết luận: Misoprostol đặt dưới lưỡi trong chấm dứt thai ngưng tiến triển đạt được hiệu quả tống xuất thai 
rất cao. Nên áp dụng phương pháp này thay thế cho thủ thuật nạo hút thai cổ điển tại bệnh biện đa khoa khu vực 
Củ Chi. 
Từ khóa: Thai ngưng tiến triển ≤9 tuần, Misoprostol. 

ABSTRACT 
EFFECTIVENESS OF SUBLINGUAL MISOPROSTOL IN TERMINATION  
OF MISSED ABORTION ≤9 WEEKS IN CU CHI REGIONAL HOSPITAL 


Le Thi Chuyen, Ngo Thi Kim Phung  
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 76‐82 
Objective:  Determine  the  percentage  of  completely  expelling  pregnant  sublingual  misoprostol  in 
termination of missed abortion ≤9 weeks in Cu Chi regional hospital and the rate of complications: hemorrhage, 
infection, and undesirable effects: stomach pain, nausea, vomiting, diarrhea, fever. 
Design: Prospective case series. 
Methods: In the period from 11/2012 to 06/2013, all 171 eligible cases, including 5 cases lost. Thus, the remaining 
sample was 166 cases. Patients treated sublingual misoprostol 400μg dose and the dose repeated every 4 hours if not 
expelling pregnant. Maximum total dose of Misoprostol 1.600μg (repeat 4 times). Criteria for evaluation of successful 
pregnant termination was complete expulsion without any intervention procedure in the uterus. 
Results: In 166 cases of missed abortion ≤9 weeks, the percentage of complete expulsion of fetal therapy is 

* BV ĐKKV Củ Chi  ** Bộ môn Sản, Đại học Y Dược TP. HCM  
Tác giả liên lạc: BS. Lê Thị Chuyền   ĐT: 0982 502 223 

76

Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 

Nghiên cứu Y học

93.4% (95% confidence interval: 88.5% to 96.6%), focus most in the first 48 hours (86.7%), median time was 11 
hours (quartile range 8‐17 hours). There have been cases of hemorrhage and infection occurs. There were 72.3% 
of patients after dosing experienced moderate abdominal pain. Other adverse effects: diarrhea (13.4%), nausea‐
vomiting (7.8%) and fever / chills (4.2%). 
Conclusion:  Using  of  sublingual  misoprostol  in  termination  of  missed  abortion  achieve  high  effectively.  The 
application of this method to replace the classical arts abortion should be recommended in Cu Chi regional hospital. 

Keywords: missed abortions ≤9 weeks, Misoprostol. 

MỞ ĐẦU 
Thai ngưng tiến triển sớm là những trường 
hợp  đã  có  phôi  thai  và  phôi/thai  chết.  Trong 
phôi thai, lá nuôi đã xâm nhập vào niêm mạc 
màng  rụng  của  tử  cung,  nhưng  đĩa  phôi  đã 
không  phát  triển  hoặc  đã  hấp  thu  sau  khi  lá 
nuôi mất khả năng tồn tại. Siêu âm có hình ảnh 
chiều  dài  phôi  thai  ≥5  mm  mà  không  có  tim 
thai(12).  Trong  phạm  vi  nghiên  cứu  này  chỉ  đề 
cập đến thai ngưng tiến triển sớm với tuổi thai 
≤9 tuần (xác định qua kinh chót hoặc siêu âm). 
Theo thống kê thai ngưng tiến triển sớm ước 
tính có khoảng 15‐20%(12) trong tất cả các thai kỳ, 
tỷ  lệ  thực  tế  có  thể  cao  hơn.  Đôi  khi  có  những 
triệu  chứng  rõ  ràng,  tuy  nhiên  một  số  trường 
hợp lại không có biểu hiện lâm sàng cho đến khi 
có  xuất  huyết  và/hoặc  đau  bụng(3,4).  Có  nhiều 
nguyên  nhân  gây  thai  ngưng  tiến  triển  sớm, 
thường  gặp  là  bất  thường  nhiễm  sắc  thể;  tuy 
nhiên nhiều trường hợp không rõ nguyên nhân. 
Nong  và  nạo  thai  là  kỹ  thuật  triệt  để  nhất 
làm  sạch  buồng  tử  cung  trong  chấm  dứt  thai 
ngưng  tiến  triển  đã  áp  dụng  hàng  chục  năm 
qua.  Tuy  nhiên,  những  biến  chứng  từ  thủ 
thuật này đã để lại như tổn thương cổ tử cung, 
nhiễm  trùng,  thủng  tử  cung,  vô  kinh  không 
phải  là  ít.  Đây  là  những  biến  chứng  đe  dọa 
tính  mạng,  để  lại  nhiều  di  chứng  trong  đó  có 

vô  sinh.  Mặt  khác,  thủ  thuật  can  thiệp  luôn 
làm ảnh hưởng đến tâm lý của người phụ nữ, 
nỗi đau mất con, sự sợ hãi phải mang thai chết 
lưu  trong  người,  nỗi  kinh  hoàng  khi  phải  trải 
qua thủ thuật nong, nạo hoặc hút(9).  
Vì vậy can thiệp nội khoa là một biện pháp 
chấm  dứt  thai  ngưng  tiến  triển  không  xâm  lấn 
có hiệu quả, đơn giản và đáng quan tâm. Đã có 

Sản Phụ Khoa

rất  nhiều  nghiên  cứu  trên  thế  giới  và  tại  Việt 
Nam  về  Misoprostol  cho  thấy  có  hiệu  quả  tốt 
trong  việc  chấm  dứt  thai,  hạn  chế  những  biến 
chứng  do  thủ  thuật  gây  ra.  Misoprostol  là  một 
chất tổng hợp đồng vận của Prostaglandin E1, có 
nhiều ưu việt về tính hiệu quả, an toàn, kinh tế, 
dễ  bảo  quản,  dễ  sử  dụng,  nên  ngày  càng  có 
nhiều  ứng  dụng  trong  điều  trị.  Tại  Việt  Nam, 
hiện  nay  dược  phẩm  Misoprostol  đã  được  biết 
nhiều trong lĩnh vực điều trị phá thai nội khoa. 
Nhiều tác giả trong và ngoài nước nghiên cứu về 
đường  uống  và  đường  đặt  âm  đạo  với  liều 
600μg và 800μg cho thấy đạt hiệu quả cao. Riêng 
đối  với  liều  400μg,  đặc  biệt  là  đường  đặt  dưới 
lưỡi chỉ có vài nghiên cứu. Nghiên cứu của Blum 
J.,  Winikoff  B.  và  cộng  sự  (2007)  điều  trị  thai 
ngưng  tiến  triển  sớm  với  liều  đơn  Misoprostol 
600μg uống hoặc 400μg đặt dưới lưỡi, tỷ lệ tống 
xuất thai gần như hoàn toàn trong nhóm nghiên 

cứu, ra huyết âm đạo nhiều trong 3‐4 ngày đầu, 
sau  đó  ra  ít  và  có  thể  kéo  dài  vài  tuần,  các  tác 
dụng  phụ  khác  không  đáng  kể  và  không  cần 
điều trị(1). Nghiên cứu của Bùi Thị Thanh Hoàng 
(2011) với liều 400μg Misoprostol lặp lại tối đa 4 
liều, so sánh hiệu quả của Misoprostol đặt dưới 
lưỡi  và  đặt  âm  đạo  trong  thai  ngưng  tiến  triển 
nhỏ  hơn  12  tuần.  Tỷ  lệ  thành  công  chung  của 
nghiên  cứu  là  90,37%,  hiệu  quả  sẩy  thai  trọn  ở 
phác đồ đặt dưới lưỡi là 91,85% so với phác đồ 
đặt âm đạo là 88,90%, và tác dụng phụ giữa hai 
phác đồ khác nhau không ý nghĩa thống kê(2). 
Từ năm 2011, bệnh viện đa khoa khu vực Củ 
Chi đã triển khai sử dụng Misoprostol trong phá 
thai nội khoa với thai sống ≤49 ngày và đạt được 
thành  công  rất  khả  quan.  Cụ  thể  năm  2012,  có 
455/6.185 trường hợp sinh (7,3%), thai ≤49 ngày 
được  phá  thai  bằng  thuốc  đã  đạt  được  tỷ  lệ 

77


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

thành công 96%, không trường hợp nào bị băng 
huyết hay nhiễm trùng. Đối với thai ngưng tiến 
triển ≤9 tuần, năm 2012 có 438/6.185 trường hợp 
sinh  (7%)  và  tất  cả  đều  được  chấm  dứt  thai  kỳ 

bằng  phương  pháp  hút  nạo.  Trong  đó  các 
trường  hợp  biến  chứng  bao  gồm  sót  nhau  15 
(3,4%),  rong  huyết  22  (5%),  nhiễm  trùng  4 
(0,9%),  băng  huyết  1  (0,2%).  Mặc  dù  tỷ  lệ  biến 
chứng  của  nạo  hút  thai  không  cao  nhưng  rất 
nguy  hiểm  đối  với  dự  hậu  sinh  sản  về  sau  của 
phụ nữ. 
Do  đó  chúng  tôi  tiến  hành  nghiên  cứu  “ 
Hiệu quả của Misoprostol đặt dưới lưỡi trong 
chấm  dứt  thai  ngưng  tiến  triển  ≤9  tuần  tại 
bệnh  viện  đa  khoa  khu  vực  Củ  Chi”  với  mục 
tiêu xác định tỷ lệ tống xuất thai hoàn toàn của 
Misoprostol đặt dưới lưỡi trong chấm dứt thai 
ngưng tiến triển ≤9 tuần tại bệnh viện đa khoa 
khu vực Củ Chi và tỷ lệ các biến chứng: băng 
huyết, nhiễm trùng, các tác dụng ngoại ý: đau 
bụng,  buồn  nôn,  nôn,  tiêu  chảy,  sốt.  Hy  vọng 
sẽ  ứng  dụng  các  thành  quả  của  nghiên  cứu 
trong việc cải thiện chất lượng về điều trị cho 
bệnh nhân. 

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Nghiên  cứu  báo  cáo  loạt  ca  tiến  cứu,  thực 
hiện  từ  tháng  11/2012  đến  06/2013.  Đối  tượng 
nghiên cứu là tất  cả  phụ  nữ  có  thai  ngưng  tiến 
triển sớm ≤9 tuần đến khám và điều trị tại bệnh 
viện  đa  khoa  khu  vực  Củ  Chi.  Thai  phụ  thỏa 
tiêu  chuẩn  chọn  mẫu  được  nhận  vào  nghiên 
cứu, nhập viện điều trị nội trú 48 giờ. 
Tiêu  chuẩn  chọn  mẫu  gồm:  những  trường 

hợp  được  chẩn  đoán  chính  xác  thai  ngưng  tiến 
triển sớm trong tử cung có tuổi thai ≤9 tuần (dựa 
vào kỳ kinh chót hoặc siêu âm), không có chống 
chỉ  định  với  Misoprostol,  đồng  ý  tham  gia  vào 
nghiên  cứu  và  ký  tên  vào  bảng  đồng  thuận,  có 
địa chỉ, số điện thoại liên lạc rõ ràng, tuân thủ tái 
khám theo yêu cầu nghiên cứu. 
Tiêu  chuẩn  loại  trừ  gồm:  dị  ứng  với 
Prostaglandin, suy tim, suy thận, hen nặng, có 
bệnh  lý  về  máu  hoặc  đang  điều  trị  kháng 

78

đông, đang có bệnh lý viêm nhiễm vùng chậu, 
viêm sinh dục cấp, có sẹo mổ cũ trên tử cung, 
những  trường  hợp  sẩy  thai  không  trọn,  sẩy 
thai diễn tiến. 
Cách  tiến  hành:  thai  phụ  được  chẩn  đoán 
thai ngưng tiến triển sớm dựa vào bệnh sử, lâm 
sàng  và  siêu  âm.  Sau  khi  đã  thỏa  được  tiêu 
chuẩn chọn mẫu, bệnh nhân sẽ được tư vấn về 
phương  pháp  chấm  dứt  thai  ngưng  tiến  triển. 
Nếu chọn phương pháp chấm dứt thai nội khoa, 
thai  phụ  sẽ  ký  bảng  đồng  thuận,  được  phỏng 
vấn dựa vào bảng thu thập số liệu và được làm 
xét  nghiệm  cơ  bản.  Thai  phụ  được  tiến  hành 
điều  trị  400μg  Misoprostol  (2  viên  200μg)  đặt 
dưới lưỡi tại khoa, được theo dõi sát sinh hiệu, 
tình  trạng  đau  bụng  và  ra  huyết  âm  đạo,  tác 
dụng ngoại ý của thuốc như buồn nôn, nôn, tiêu 

chảy,  sốt  run  và  các  biến  chứng  băng  huyết, 
nhiễm  trùng.  Sau  mỗi  4  giờ  bệnh  nhân  được 
đánh giá lại các dấu hiệu theo dõi trên, nếu thai 
chưa tống xuất thì sẽ cho bệnh nhân tiếp tục đặt 
dưới lưỡi Misoprostol 400μg liều 2, và tương tự 
như vậy đối với liều 3, liều 4. 
Sau  48  giờ  siêu  âm  kiểm  tra  nếu  buồng  tử 
cung  sạch  cho  bệnh  nhân  xuất  viện  và  hẹn  tái 
khám  sau  1  tuần  tính  từ  ngày  điều  trị  liều 
Misoprostol thứ 1. Nếu còn nguyên hình ảnh túi 
thai  trong  lòng  tử  cung  thì  bệnh  nhân  sẽ  được 
can thiệp thủ thuật ngoại khoa. Nếu siêu âm ghi 
nhận lòng tử cung có ít dịch hoặc khối echo hỗn 
hợp  <15mm,  lâm  sàng  bệnh  nhân  ra  huyết  ít, 
đau bụng ít, tử cung co hồi tốt thì cho bệnh nhân 
xuất viện và hẹn tái khám sau 7 ngày. Trong lần 
tái  khám  nếu  siêu  âm  vẫn  còn  khối  echo  hỗn 
hợp  >15mm,  lâm  sàng  ra  huyết  nhiều,  tử  cung 
còn  to  thì  sẽ  can  thiệp  thủ  thuật  ngoại  khoa. 
Ngược  lại,  siêu  âm  lòng  tử  cung  trống  thì  kết 
luận  sẩy  thai  trọn,  kết  thúc  nghiên  cứu.  Trong 
thời gian thực hiện nghiên cứu cần tư vấn về các 
dấu  hiệu  cho  bệnh  nhân  biết  để  báo  động  với 
nhân viên y tế như ra huyết ướt đẫm 2 băng vệ 
sinh  trong  vòng  một  giờ  hoặc  rất  nhiều  so  với 
kinh;  đau  bụng  nhiều  không  bớt  sau  khi  dùng 

Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 



Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 

Nghiên cứu Y học

thuốc  giảm  đau;  sốt  ≥38,5˚C  kéo  dài  trên  6  giờ, 
có dịch âm đạo hôi hoặc dịch mủ. 

hợp  mất  dấu  nên  chúng  tôi  có  166  trường  hợp 
đưa vào phân tích. 

Tiêu chuẩn thành công là thai sẩy trọn hoàn 
toàn,  kết  thúc  nghiên  cứu  không  có  can  thiệp 
thủ thuật ngoại khoa. Tiêu chuẩn thất bại gồm: 
thai không sẩy sau 48 giờ khi đã kết thúc 4 liều 
điều trị; thai đã sẩy nhưng không hoàn toàn sau 
khi  kết  thúc  1  tuần  điều  trị,  tái  khám  siêu  âm 
vẫn còn hình ảnh khối phản âm hỗn hợp trong 
lòng tử cung >15mm, khám lâm sàng cổ tử cung 
còn  hở,  tử  cung  to  và  còn  ra  huyết  âm  đạo;  ra 
huyết âm đạo nhiều trong thời gian điều trị, cần 
phải  can  thiệp  thủ  thuật;  bệnh  nhân  yêu  cầu. 
Trường hợp bệnh nhân không tuân thủ điều trị, 
thực hiện gọi qua điện thoại để liên lạc ghi nhận 
lý do, mời tái khám và ghi nhận thông tin, nếu 
vẫn không liên lạc được với bệnh nhân xem như 
mất dấu (và loại khỏi nghiên cứu). 

Đặc  điểm  mẫu  nghiên  cứu  được  trình  bày 
trong bảng 1. Tuổi trung bình của nhóm nghiên 
cứu là 27,9 ± 6,3 tuổi, đa số bệnh nhân có tuổi từ 

21‐30  tuổi  chiếm  62,7%,  tuổi  nhỏ  nhất  và  lớn 
nhất  là  18  và  43  tuổi.  Công  nhân  chiếm  đa  số 
60,8%,  trình  độ  học  vấn  cấp  2  chiếm  tỷ  lệ  cao 
nhất 58,4%, tuổi thai tập trung nhiều nhóm >7‐9 
tuần chiếm 68,7%.  

Số liệu được nhập và phân tích bằng phần 
mềm  SPSS  16.0,  ý  nghĩa  thống  kê  được  đánh 
giá  ở  mức  0,05.  Nghiên  cứu  này  không  vi 
phạm y đức. 

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
Bảng 1: Đặc điểm dịch tễ học của mẫu nghiên cứu 
(n=166) 
Đặc điểm

Tần
số
≤20 tuổi
12
21-30 tuổi
104
Nhóm
tuổi
31-40 tuổi
39
≥41 tuổi
11
Công nhân viên 10
Buôn bán

16
Làm
ruộng
6
Nghề
nghiệp
Nội trợ
29
Công nhân
101
Khác
4
Cấp 1/mù chữ
19
Cấp 2
97
Trình độ
Cấp 3
38
văn hoá
Đại học–sau đại 12
học
≤7 tuần
52
Nhóm
tuổi thai
>-9 tuần
114

Tỷ lệ (%) Cộng dồn (%)

7,2
62,7
23,5
6,6
6,0
9,7
3,6
17,5
60,8
2,4
11,5
58,4
22,9
7,2

7,2
69,9
93,4
100
6,0
15,7
19,3
36,8
97,6
100
11,5
69,9
92,8
100


31,3
68,7

31,3
100

Trong thời gian nghiên cứu chúng tôi có 171 
trường  hợp  tham  gia  nghiên  cứu,  có  5  trường 

Sản Phụ Khoa

Kết quả điều trị được biểu hiện trong bảng 2, 
3  và  4.  93,4%  trường  hợp  tống  xuất  thai  hoàn 
toàn  với  thời  gian  trung  vị  là  11giờ  (2‐38  giờ), 
86,7%  tống  xuất  hoàn  toàn  biểu  hiện  qua  siêu 
âm trong vòng 48 giờ. 
Bảng 2: Tỷ lệ tống xuất thai của phác đồ (n=166) 
Tống xuất hoàn toàn

Không

Tần số Tỷ lệ (%) KTC 95%
155
93,4
88,5-96,6
11
6,6

Bảng 3: Thời gian ra thai trung bình của phác đồ 
Trung vị

11

Thời gian ra thai của phác đồ (giờ)
Khoảng tứ vị
Ngắn nhất-dài nhất
8-17
2-38

Bảng 4: Tỷ lệ tống xuất thai qua siêu âm theo nhóm 
thời gian (n=166) 
Thời điểm

>24-48
>48giờ
giờ
7ngày
11 (6,6) 116 (69,9) 144 (86,7) 155 (93,4)
≤4 giờ

>4-24 giờ

Hoàn toàn
Không hoàn
1 (0,6)
9 (5,4) 17 (10,3)
toàn
Không tống
154 (92,8) 41 (24,7) 5 (3,0)
xuất


6 (3,6)
5 (3,0)

Tỷ  lệ  tống  xuất  thai  hoàn  toàn  tập  trung 
nhiều  nhất  trong  24  giờ  đầu,  đến  48  giờ  có 
86,7%.  Sau  48  giờ  còn  lại  5  trường  hợp  thai 
không  tống  xuất  nên  được  nhóm  nghiên  cứu 
tiến  hành  làm  thủ  thuật  và  17  trường  hợp  thai 
tống suất không hoàn toàn, siêu âm có echo hỗn 
hợp lòng tử cung >15mm, được theo dõi và hẹn 
tái khám. Sau 7 ngày, siêu âm kiểm tra lại còn 6 
trường hợp thai tống suất không hoàn toàn. Tỷ 
lệ tống xuất thai hoàn toàn có liên quan đến thời 
gian với p<0,001 (kiểm định chính xác Fisher). 
Trung  vị  thời  gian  ra  huyết  là  6  ngày 
(khoảng tứ vị 5‐7 ngày), thời gian ra huyết ngắn 

79


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

Nghiên cứu Y học 

nhất  là  3  ngày  và  dài  nhất  là  14  ngày.  Toàn  bộ 
bệnh nhân trong mẫu nghiên cứu sau khi dùng 
thuốc  đều  có  ra  huyết  âm  đạo  (82,5%  mức  độ 
vừa, 12,7% mức độ nhiều và 4,8% mức độ ít). 
Bảng 5: Thời gian và mức độ ra huyết âm đạo 
(n=166) 

Mức độ ra huyết
Ít
Vừa
Nhiều

Tần số
8
137
21

Tỷ lệ (%)
4,8
82,5
12,7

Bảng 6: Tác dụng phụ và biến chứng (n=166) 
Tác dụng phụ và biến chứng
Ít
Vừa
Nhiều
Đau bụng
Sốt/Lạnh run
Buồn nôn-nôn
Tiêu chảy
Băng huyết
Biến
chứng
Nhiễm trùng

Tần số

15
120
31
7
13
22
0
0

Tỷ lệ (%)
9
72,3
18,7
4,2
7,8
13,3
0
0

Toàn  bộ  bệnh  nhân  trong  mẫu  nghiên  cứu 
sau  khi  dùng  thuốc  đều  có  đau  bụng  (72,3% 
mức độ vừa, 18,7% mức độ nhiều và 9% mức độ 
ít), tiêu chảy 13,4%, buồn nôn‐nôn 7,8% và ít gặp 
nhất là sốt/lạnh run 4,2%. Không có trường hợp 
nào  băng  huyết  hoặc  nhiễm  trùng  xảy  ra  trong 
nghiên cứu. 

BÀN LUẬN 
Tỷ  lệ  tống  xuất  thai  hoàn  toàn  của  mẫu 
nghiên  cứu  là  93,4%  (KTC  95%:  88,5%‐96,6%). 

Với  hiệu  quả  này  cho  thấy  liều  400μg 
Misoprostol đặt dưới lưỡi và lặp lại sau 4 giờ, tối 
đa 4 liều nếu thai chưa được tống xuất tương đối 
khả quan, có thể tránh được 93,4% việc can thiệp 
thủ  thuật  ngoại  khoa  vào  buồng  tử  cung,  một 
động  tác  có  thể  mang  lại  ảnh  hưởng  không  tốt 
cho sức khỏe sinh sản của người phụ nữ. 
Khi  khảo  sát  tỷ  lệ  thành  công,  nghiên  cứu 
của  chúng  tôi  có  kết  quả  cao  hơn  của  Nguyễn 
Thị Như Ngọc 92,9% với 800μg đặt âm đạo  (12), 
Phạm Ngọc Thủy với 400μg đặt âm đạo + 400μg 
uống 89,74%(10), Nguyễn Thị Ba (2009) 600μg đặt 
âm đạo có liều lặp lại sau 4 giờ đạt hiệu quả là 
91,3%(8), Bùi Thị Thanh Hoàng (2011) 400μg đặt 
âm đạo và đặt dưới lưỡi tối  đa  4  liều  là  88,9%‐

80

91,9%(2), Ngai S.W. đạt hiệu quả 83,3% khi thực 
hiện  nghiên  cứu  sử  dụng  Misoprostol  đặt  âm 
đạo  liều  400μg  lặp  lại  nhiều  ngày(5),  Creinin 
M.D.  thực  hiện  so  sánh  hiệu  quả  của  400μg 
Misoprostol  uống  và  800μg  đặt  âm  đạo  tỷ  lệ 
thành công ở nhóm uống 25% và nhóm đặt âm 
đạo  88%(13).  Tuy  nhiên  cũng  có  những  nghiên 
cứu đạt được tỷ lệ thành công rất tốt, cao hơn tỷ 
lệ nghiên cứu của chúng tôi như của Weeks A. 
với  liều  Misoprostol  600μg  uống  tỷ  lệ  thành 
công là 96,3%(16), Shwekerela B và Kalumuna R. 
với liều Misoprostol 600μg uống là 99%(15), Dao 

B. với liều Misoprostol 600μg uống hiệu quả đạt 
94,5%(1). Sở dĩ có sự  khác  biệt  về  hiệu  quả  tống 
xuất  thai  hoàn  toàn  của  nghiên  cứu  chúng  tôi 
với các tác giả khác là do sự khác biệt về thiết kế 
nghiên cứu, tuổi thai, liều sử dụng, đường dùng 
thuốc và khoảng cách giữa các liều. 
Trung vị của thời gian tống xuất thai hoàn 
toàn  là  11  giờ  (khoảng  tứ  vị  8‐17  giờ).  Một  số 
nghiên  cứu  có  thời  gian  tống  xuất  thai  trung 
bình dài hơn của mẫu nghiên cứu, Nguyễn Thị 
Như  Ngọc  là  13,47  giờ  ở  nhóm  đặt  âm  đạo 
800μg  Misoprostol,  21,04  giờ  ở  nhóm  uống 
cùng liều Misoprostol (7), nghiên cứu của Phạm 
Ngọc  Thủy  là  14,56  giờ  (10),  Nguyễn  Thị  Như 
Ngọc trong nghiên cứu so sánh hiệu quả của 2 
phác đồ 600μg và 1200μg Misoprostol uống, ở 
nhóm liều đơn là 13,6 giờ, liều lặp lại là 14 giờ 
(p <0,001)(6). Một số nghiên cứu khác lại có thời 
gian  tống  xuất  thai  rất  ngắn  như  Nguyễn  Thị 
Ba  (2009)  trung  vị  là  10,15  giờ  (khoảng  tứ  vị 
7,2‐17  giờ)(8),  Bùi  Thị  Thanh  Hoàng  (2011)  của 
phác  đồ  đặt  dưới  lưỡi  là  10,5  giờ  (với  khoảng 
tin  cậy  8,8‐11,8)(2),  Rita  thời  gian  rất  ngắn  8,15 
giờ  (độ  lệch  chuẩn  2,85)  ở  nhóm  đặt  âm  đạo 
600μg  Misoprostol,  9,83  giờ  (độ  lệch  chuẩn 
2,09) ở nhóm uống 400μg lặp lại mỗi 4 giờ, tối 
đa 3 liều (p = 0,01)(14). Thời gian tống xuất thai 
hoàn  toàn  rất  khác  nhau  tùy  thuộc  vào  mẫu 
nghiên  cứu,  tuổi  thai  ngưng  tiến  triển,  liều 
Misoprostol  sử  dụng  và  các  tiêu  chuẩn  xác 

định thành công của phác đồ. 

Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 
Thời gian ra huyết âm đạo của phác đồ có 
trung vị là 6 ngày (khoảng tứ vị 5‐7 ngày), đa 
số  ra  huyết  nhiều  quanh  thời  điểm  tống  xuất 
thai sau đó ít dần, không khác so với một chu 
kỳ kinh bình thường (thời gian hành kinh từ 3‐
7 ngày), ra huyết âm đạo ngắn nhất là 3 ngày, 
dài  nhất  là  14  ngày.  Các  trường  hợp  ra  huyết 
âm  đạo  trên  7  ngày  sẽ  được  tư  vấn  cách  theo 
dõi  tại  nhà  và  hẹn  tái  khám  tiếp  theo  sau  1 
tuần, số bệnh nhân này đều ổn không cần điều 
trị thêm. Kết quả trên cho thấy sự khác biệt về 
thời gian ra huyết âm đạo của phác đồ đối với 
các  nghiên  cứu  khác  là  không  nhiều,  mặc  dù 
không hoàn toàn giống nhau về tuổi thai, tình 
trạng  thai,  liều  lượng,  đường  sử  dụng  thuốc. 
Mẫu  nghiên  cứu  ghi  nhận  mức  độ  ra  huyết 
vừa  chiếm  tỷ  lệ  cao  nhất  82,5%,  ở  mức  độ 
nhiều  chiếm  12,7%,  mức  độ  ít  4,8%.  Khác  biệt 
so  với  các  nghiên  cứu  khác,  có  thể  do  tiêu 
chuẩn đánh giá còn mang tính chủ quan, chỉ so 
sánh  lượng  máu  mất  với  chu  kỳ  kinh  nguyệt 
hàng tháng nên thiếu tính khoa học, vì vậy rất 
khó để đưa ra kết luận chính xác được. 
Tác  dụng  ngoại  ý  đau  bụng  100%  (72,3% 

mức độ  vừa,  18,7%  mức  độ  nhiều  và  9%  mức 
độ ít), tiêu chảy 13,4%, buồn nôn‐nôn 7,8% và 
ít  gặp  nhất  là  sốt/lạnh  run  4,2%  và  không  có 
trường hợp nào băng huyết hoặc nhiễm trùng 
xảy ra. Đa số triệu chứng chỉ thoáng qua trong 
24 giờ đầu, mức độ tăng dần theo số liều thuốc 
sử  dụng,  tuy  nhiên  không  có  trường  hợp  nào 
phải ngưng điều trị bằng Misoprostol. Kết quả 
của  mẫu  nghiên  cứu  cho  thấy  tương  đối  phù 
hợp  với  các  tác  giả  khác,  nhưng  để  đánh  giá 
chính xác hơn thì đòi hỏi một nghiên cứu có cỡ 
mẫu  lớn  và  cần  khoảng  thời  gian  dài  hơn.  Về 
biến  chứng  không  có  trường  hợp  nào  bị  băng 
huyết  hay  nhiễm  trùng,  vì  chúng  tôi  đã  chọn 
tiêu  chuẩn  điều  trị  nội  trú  trong  48  giờ  nên 
việc  theo  dõi  sát  tổng  trạng,  sinh  hiệu  bệnh 
nhân  phần  nào  đã  hạn  chế  được  các  biến 
chứng trên và phác đồ chỉ thực hiện ở tuổi thai 
≤9 tuần. 

Sản Phụ Khoa

Nghiên cứu Y học

Một  số  mặt  hạn  chế  của  đề  tài  như  mô 
nhau chưa được làm giải phẫu bệnh, đánh giá 
lượng máu mất còn mang tính chủ quan chỉ so 
sánh  với  chu  kỳ  kinh  nguyệt  bình  thường, 
mẫu  chưa  đủ  lớn  khiến  cho  việc  đánh  giá  sự 
liên quan giữa tỷ lệ thành công của phác đồ và 

thời gian tống xuất thai với các đặc điểm dịch 
tễ học, tiền căn của bệnh nhân chưa mang tính 
thuyết phục cao. 

KẾT LUẬN 
Kết  quả  nghiên  cứu  Misoprostol  đặt  dưới 
lưỡi  với  liều  400μg  sử  dụng  lặp  lại  tối  đa  4 
liều,  với  khoảng  cách  giống  nhau  4  giờ  cho 
thấy  đạt  được  hiệu  quả  tống  xuất  thai  rất  cao 
và  tỷ  lệ  tác  dụng  phụ  không  đáng  kể.  Do  đó 
việc  dùng  Misoprostol  đặt  dưới  lưỡi  trong 
chấm  dứt  thai  ngưng  tiến  triển  ≤9  tuần  hoàn 
toàn có thể thay thế cho điều trị ngoại khoa tại 
các  cơ  sở  y  tế  có  đủ  điều  kiện  hồi  sức,  cụ  thể 
như  bệnh  viện  đa  khoa  khu  vực  Củ  Chi.  Cần 
phải  cân  nhắc  và  tư  vấn  cụ  thể  các  tác  dụng 
phụ  cho  bệnh  nhân  hiểu  rõ  để  hợp  tác  tốt  và 
đạt hiệu quả điều trị cao, hạn chế được các tác 
dụng phụ. 

TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.

2.

3.

4.

5.


6.

7.

Blum J, Winikoff B, Gemzell‐Danielsson K, Ho PC, Schiavon 
R,  Weeks  A  (2007).  Treatment  of  incomplete  abortion  and 
miscarriage with misoprostol. Int J Gynaecol Obstet, 99 Suppl 2, 
pp. S186‐189. 
Bùi Thị Thanh Hoàng, Võ Minh Tuấn (2011). So sánh hiệu quả 
của Misoprostol ngậm dưới lưỡi và đặt âm đạo trong thai kỳ ngưng 
tiến triển nhỏ hơn 12 tuần tuổi thai.  Chuyên  đề  sức  khỏe  sinh 
sản và bà mẹ trẻ em‐Y học TP. Hồ Chí Minh, 15(1). tr. 34‐40. 
Creinin  MD,  Chen  BA  (2007).  Contemporary  Management  of 
Early  Pregnancy  Failure.  Clinical  Obstetrics  and  Gynecology, 
50(1). pp. 67‐88. 
Creinin MD, Moyer R, Guido R (1997). Misoprostol for medical 
evacuation of early pregnancy failure. Obstet Gynecol, 89(5 Pt 1). 
pp. 768‐772. 
Dao  B,  Blum  J,  Thieba  B,  Raghavan  S,  Ouedraego  M, 
Lankoande  J,  Winikoff  B  (2007).  Is  misoprostol  a  safe,  effective 
and  acceptable  alternative  to  manual  vacuum  aspiration  for 
postabortion care? Results from a randomised trial in Burkina Faso, 
West Africa. BJOG, 114(11). pp. 1368‐1375. 
El‐Refaey H, Hinshaw K., Henshaw R., Smith N., Templeton 
A.  (1992).  Medical  management  of  missed  abortion  and 
anembryonic pregnancy. BMJ, 305(6866). pp. 1399. 
John  C  Petrozza  (2012).  Recurrent  Early  Pregnancy  Loss. 
/>260495‐
overview#showall. 


81


Nghiên cứu Y học 
8.

9.

10.

11.

12.

13.

82

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

Ngai  SW,  Chan  YM,  Tang  OS,  Ho  PC  (2001).  Vaginal 
misoprostol  as  medical  treatment  for  first  trimester  spontaneous 
miscarriage. Hum Reprod, 16(7). pp. 1493‐1496. 
Ngoc NT, Quan TT, Blum J, Durocher J, Winikoff B (2005). A 
randomized  controlled  study  comparing  600  versus  1,200  microg 
oral  misoprostol  for  medical  management  of  incomplete  abortion. 
Contraception, 72(6). pp. 438‐442. 
Ngoc NT, Quan TT, Blum J, Westheimer E, Winikoff B (2004). 
Medical  treatment  of  missed  abortion  using  misoprostol.  Int  J 

Gynaecol Obstet, 87(2). pp. 138‐142. 
Nguyễn Thị Ba (2009). Hiệu quả của Misoprostol trong chấm dứt 
thai ngừng tiến triển ≤12 tuần tại khoa sản Bệnh viện đa khoa Sa 
Ðéc,  Tỉnh  Ðồng  Tháp.  Luận  án  tốt  nghiệp  chuyên  khoa  2, 
Trường Ðại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 50‐66. 
Nguyễn  Thị  Như  Ngọc,  Trần  Thiện  Vĩnh  Quân  (2004). 
Misoprostol trong điều trị thai lưu. Tạp chí sản phụ khoa, (1‐2). 
tr. 73‐77. 
Phạm  Ngọc  Thủy  và  cộng  sự  (2006).  Hiệu  quả  Misoprostol 
trong đình chỉ thai lưu  ở  tam  cá  nguyệt  thứ  nhất.  thực  hiện  tại 
Trung Tâm Chăm Sóc Sức Khỏe Sinh Sản Bình Dương. 
 

14.

15.

16.

Rita  SG,  Surender  K  (2006).  A Randomized Comparison of oral 
and vaginal Misoprostol for medical management of first trimester 
missed abortion. JK Science, 8(1). pp. 35‐38. 
Shwekerela  B,  Kalumuna  R,  Kipingili  R,  Mashaka  N, 
Westheimer  E,  Clark  W,  Winikoff  B  (2007).  Misoprostol  for 
treatment  of  incomplete  abortion  at  the  regional  hospital  level: 
results from Tanzania. BJOG, 114(11). pp. 1363‐1367. 
Weeks  A,  Alia  G,  Blum  J  et  al  (2005).  A randomized trial of 
misoprostol  compared  with  manual  vacuum  aspiration  for 
incomplete  abortion.  Obstetrics  &  Gynecology,  106(3).  pp. 
540‐547. 


 
Ngày nhận bài báo 

 

 

: 30/11/2013 

Ngày phản biện nhận xét bài báo 

: 02/12/2013 

Ngày bài báo được đăng 

: 05/01/2014 

 

Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 



×