Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Ảnh hưởng của điều trị chỉnh hình răng mặt cố định lên lượng mutans streptococci trong nước bọt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (322.76 KB, 6 trang )

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015

ẢNH HƯỞNG CỦA ĐIỀU TRỊ CHỈNH HÌNH RĂNG MẶT CỐ ĐỊNH
LÊN LƯỢNG MUTANS STREPTOCOCCI TRONG NƯỚC BỌT
Trần Lê Châu Loan*, Đống Khắc Thẩm**

TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Nghiên cứu này được thực hiện để góp phần đánh giá thay đổi trong môi trường miệng ở
những bệnh nhân điều trị chỉnh hình răng mặt cố định.
Mục tiêu: Nghiên cứu ảnh hưởng của việc mang khí cụ chỉnh hình răng mặt cố định (CHRMCĐ) lên lượng
mutans streptococci (MS) trong nước bọt.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu được thực hiện trên mẫu gồm 33 bệnh nhân, tuổi từ
12 tới 40, có tình trạng vệ sinh răng miệng tốt và răng không chen chúc tới chen chúc trung bình, mang khí cụ
chỉnh hình răng mặt cố định. Lượng MS trong mẫu nước bọt không kích thích được đánh giá vào 3 giai đoạn:
trước điều trị, sau 6 và 12 tuần mang khí cụ CHRMCĐ bằng phương pháp nuôi cấy kỵ khí trên môi trường chọn
lọc MSB (Mitis Salivarius Agar Bacitracin).
Kết quả: Sau 12 tuần mang khí cụ CHRMCĐ, lượng MS trong nước bọt tăng có ý nghĩa thống kê và có
đỉnh tại tuần thứ 6 sau khi mang khí cụ.
Kết luận: Mang khí cụ chỉnh hình răng mặt cố định làm tăng có ý nghĩa lượng mutans streptococci trong
nước bọt đặc biệt trong khoảng 6 tuần đầu tiên.
Từ khóa: mutans streptococci (MS), nước bọt, chỉnh hình răng mặt cố định (CHRMCĐ).

ABSTRACT
THE EFFECT OF ORTHODONTIC TREATMENT BY FIXED APPLIANCES ON SALIVARY MUTANS
STREPTOCOCCI
Tran Le Chau Loan, Dong Khac Tham
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 19 - Supplement of No 2 - 2015: 202 - 207
Objectives: The aim of this study was to evaluate the effect of fixed orthodontic appliances on salivary
mutans streptococci (MS).


Material and Methods: The study was conducted on 33 patients aging between 12 – 40 years old who wore
fixed orthodontic appliances and have good oral hygiene and none to average crowding status. Unstimulated
saliva from each patient was collected at baseline and at the 6th and 12th weeks. Samples were cultivated on Mitis
Salivarius Agar Bacitracin (MSB) for microorganism detection.
Results: Mutans streptococci counts increased significantly 12 weeks after the insertion of fixed orthodontic
appliances in the oral cavity and the major peak was at week 6 of fixed orthodontic therapy.
Conclusion: Orthodontic treatment causes intensive intraoral growth of mutans streptococci, especially in
the period of the first 6 weeks.
Key words: mutans streptococci (MS), saliva, fixed orthodontic appliances.

* Lớp Cao học khóa 2012-2014- Khoa RHM, Đại học Y Dược TP. HCM
** Bộ môn CHRM-Khoa RHM, Đại học Y Dược TP. HCM
Tác giả liên lạc: ThS. Trần Lê Châu Loan
ĐT: 01662705376
Email:

202

Chuyên Đề Răng Hàm Mặt


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015
MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây, cụm từ “Chỉnh
hình răng mặt cố định” (CHRMCĐ) đang dần
trở nên quen thuộc đối với người dân Việt
Nam. Nhờ những tiến bộ trong kỹ thuật chỉnh
hình răng mặt cũng như ngành vật liệu nha
khoa, bệnh nhân sau khi điều trị có một hàm
răng thẩm mỹ, chức năng là điều hoàn toàn có

thể đạt được. Tuy nhiên, trong quá trình điều
trị, bệnh nhân phải đối mặt với nhiều nguy cơ
tới mô răng và mô nha chu của họ. Ví dụ như
bệnh viêm nướu, sự xuất hiện của các sang
thương đốm trắng, hay thậm chí tổn thương
sâu răng. Kết quả là bệnh nhân không đạt
được mong muốn ban đầu. Do đó, tìm hiểu
những thay đổi môi trường miệng ở bệnh
nhân điều trị CHRMCĐ rất cần thiết và có ý
nghĩa. Tuy nhiên, việc theo dõi những thay
đổi trong môi trường miệng và đánh giá nguy
cơ sâu răng của bệnh nhân vẫn còn nhiều khó
khăn, cả về phương pháp thực hiện lẫn cơ sở
lý luận, bởi vì đặc điểm các thành phần trong
môi trường miệng của từng người rất khác
nhau, và khoang miệng là một hệ sinh thái vô
cùng phong phú với rất nhiều loại vi khuẩn
tương tác qua lại(13). Nhưng nhìn chung, trong
hệ sinh thái phong phú đó của các vi khuẩn
miệng, các tác giả đều nhận thấy mutans
streptococci (MS), là một nhóm vi khuẩn sinh
acid, đóng vai trò rất quan trọng trong quá
trình hình thành sâu răng. Đã có rất nhiều
nghiên cứu chứng minh mối liên quan giữa
lượng MS và tình trạng sâu răng(1,13). Hiện nay
các nghiên cứu về sự liên quan, tương tác giữa
khí cụ CHRMCĐ và sự thay đổi lượng MS
trong nước bọt vẫn còn nhiều ý kiến trái
ngược. Với mục đích làm rõ hơn ảnh hưởng
của khí cụ CHRMCĐ lên sự thay đổi, nếu có,

của vi sinh vật miệng, cụ thể là lượng mutans
streptococci trong nước bọt, chúng tôi thực
hiện đề tài nghiên cứu này.

Chuyên Đề Răng Hàm Mặt

Nghiên cứu Y học

Mục tiêu nghiên cứu
Đánh giá sự thay đổi của lượng mutans
streptococci trong nước bọt của bệnh nhân trước
và sau 6, 12 tuần điều trị CHRMCĐ.

ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP:
Đây là nghiên cứu trước – sau trên một
nhóm. 33 bệnh nhân điều trị CHRMCĐ tại khoa
Răng Hàm Mặt, Đại học Y Dược Thành phố Hồ
Chí Minh, từ 9/2013 tới 6/2014 được chọn với kỹ
thuật chọn mẫu thuận tiện.

Tiêu chuẩn chọn mẫu:
Các đối tượng được chọn vào phải thỏa tất cả
các yêu cầu sau: có sức khỏe bình thường, tuổi từ
12 tới 40, sống tại Thành phố Hồ Chí Minh, có
tình trạng vệ sinh răng miệng tốt. Đánh gía theo
chỉ số OHI-S, điểm số tổng cộng: 0-1,2. Và có tình
trạng chen chúc răng từ không tới trung bình (06 mm). Bệnh nhân không còn răng sâu chưa
trám trước khi gắn khí cụ CHRMCĐ. Tất cả đều
được gắn cùng loại, cùng số lượng mắc cài, cùng
loại dây cung, cùng loại khâu và loại xi măng

gắn khâu.

Tiêu chuẩn loại trừ:
Loại trừ bệnh nhân bị bất kỳ bệnh hệ thống,
bệnh mãn tính đang phải dùng thuốc kéo dài,
hoặc bị các bệnh lý vùng miệng kèm theo, ví dụ
như: abcess, lỗ dò, viêm mô tế bào, viêm nha
chu... Bệnh nhân sử dụng kháng sinh hay nước
súc miệng trong vòng 15 ngày trước khi lấy mẫu
nước bọt. Bệnh nhân thất bại trong việc mang
khí cụ CHRMCĐ trong vòng 18 tháng vừa qua,
phải tháo khí cụ. Bệnh nhân điều trị viêm nướu,
viêm nha chu trong thời gian nghiên cứu.

Quy trình thực hiện
- Khám và chọn đối tượng.
- Thu thập mẫu nước bọt trước điều trị. Bệnh
nhân được hướng dẫn đánh răng và không ăn,
uống tối thiểu 2 giờ trước khi lấy mẫu.
- Thu thập mẫu nước bọt không kích thích
toàn phần: Bệnh nhân ngồi thẳng, thoải mái.
Bệnh nhân nuốt tất cả nước bọt hiện có trong

203


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015

Nghiên cứu Y học


miệng và không nuốt nước bọt trong vòng 10
phút tiếp theo. Bệnh nhân nhổ tất cả nước bọt có
trong miệng vào ly thủy tinh đã hấp vô trùng.
Chuyển mẫu nước bọt vào phòng xét
nghiệm vi sinh trong vòng 2 giờ.
Kỹ thuật viên vi sinh thực hiện cấy MS từ
mẫu nước bọt đã thu thập. Ủ thạch trong môi
trường yếm khí ở 37ºC, đọc kết quả sau 7 ngày.
- Hướng dẫn kỹ thuật vệ sinh răng miệng
dành cho người mang khí cụ CHRMCĐ.
- Thu thập mẫu nước bọt lần thứ 2: sau 6
tuần gắn khí cụ CHRMCĐ và thực hiện tương tự
lần 1. Các mẫu nước bọt của mỗi bệnh nhân
được thu thập vào cùng một khoảng thời gian ở
3 lần thu thập mẫu.
- Thu thập mẫu nước bọt lần thứ 3: sau 12
tuần gắn khí cụ CHRMCĐ và thực hiện tương tự
lần 1.

Xử lý số liệu
Phần mềm IBM® SPSS Base 16.0.

Lựa chọn phương pháp nghiên cứu:

KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN:
Đặc điểm mẫu nghiên cứu:
Bảng 1: Đặc điểm giới tính, tuổi, mức độ chen chúc
của mẫu nghiên cứu (n= 33)
Các yếu tố dân số
Giới tính


Tần số (tỷ lệ %)

Nam

9 (27,3)

Nữ

24 (72,7)

Từ 12 đến 19 tuổi

9 (27,3)

Từ 20 đến 40 tuổi
0 – 3 mm
Mức độ chen chúc
4 – 6 mm

24 (72,7)
17 (51,5)
16 (48,5)

Nhóm tuổi

Những đối tượng có răng sâu chưa điều trị, ý
thức giữ vệ sinh răng miệng trung bình, kém
hay răng chen chúc nhiều bị loại ra khỏi nghiên
cứu nhằm hạn chế các yếu tố có thể gây nhiễu,

phóng đại kết quả nghiên cứu về lượng vi khuẩn
gây sâu răng MS.
Mẫu nghiên cứu ban đầu gồm 37 bệnh nhân.
Sau thời gian thu thập mẫu, đối tượng nghiên
cứu còn 33 người đủ điều kiện chọn mẫu, tham
gia cả 3 lần lấy mẫu. Đặc điểm về mẫu nghiên
cứu được thể hiện trong bảng 1. Tỷ lệ nữ gấp 2,5

204

lần so với nam (Bảng 1) có thể được giải thích
một phần là do nữ giới quan tâm đến sức khỏe
và có nhu cầu về thẩm mỹ hơn nam giới.
Trong nghiên cứu này, nhóm tuổi từ 19 đến 40
cao gấp 2,5 lần so với nhóm tuổi từ 12 tới 18
(Bảng 1). Tuổi trung bình của các đối tượng
trong nghiên cứu này là 22 tuổi, giống với
nghiên cứu của Jung WS. và cs (2014)5(5) thực
hiện nghiên cứu trên các đối tượng có tuổi
trung bình là 23. Độ tuổi trung bình của các
đối tượng trong nghiên cứu này cao hơn so
với độ tuổi trung bình của các đối tượng trong
nhiều nghiên cứu khác(2,3,7,11,14). Phần lớn các
tác giả khác thường chọn nghiên cứu đối
tượng ở độ tuổi vị thành niên, khoảng 15
tuổi(2,3,7,11). Điều này có thể do nhu cầu điều trị
CHRMCĐ ở mỗi quốc gia thì khác nhau, tùy
theo mức độ phát triển kinh tế - xã hội. Những
quốc gia có mức độ phát triển kinh tế - xã hội
càng cao, thì người dân dành sự quan tâm đến

vấn đề CHRM nhiều hơn và sớm hơn.
Trong nghiên cứu này, mẫu nước bọt
không kích thích được chọn thu thập, tương tự
nghiên cứu của Topaloglu-Ak A. và cs
(2011)(16), Jung WS. và cs (2014)(5). Nước bọt
không kích thích là nước bọt tồn tại phần lớn
thời gian trong môi trường miệng, khoảng 20
tiếng mỗi ngày, gây ảnh hưởng rất lớn tới môi
trường miệng. Trong khi đó, nước bọt kích
thích chỉ được tiết ra khi có kích thích nhai
hay kích thích vị giác và xuất hiện trong
miệng khoảng 2 tới 3 tiếng mỗi ngày(4).
Trong nghiên cứu này, môi trường MSB
được chọn để nuôi cấy vi khuẩn MS vì chúng
cho kết quả chính xác, cũng như đánh giá
được các thay đổi nhỏ về lượng MS trong môi
trường miệng. Mặc dù các loại bộ thử nhanh
mức độ MS dễ thực hiện, tiết kiệm nhưng
không được chọn vì chúng cho kết quả tính
bán định lượng, không đánh giá chính xác về

Chuyên Đề Răng Hàm Mặt


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015

Nghiên cứu Y học

sự thay đổi của lượng MS có thể là nhỏ trong


ra, sự khác nhau giữa thành phần, tỷ lệ S.mutans

môi trường miệng.

và S.sorbrinus trong nhóm mutans streptococci

Lượng mutans streptococci trong nước bọt
trước và sau khi mang khí cụ CHRMCĐ 6,
12 tuần:

cũng đóng vai trò đối với việc xác định nguy cơ

Kết quả lượng MS trong nước bọt của các đối

trong khoảng 44% tới 71%, và thấp hơn độ đặc

tượng trong nghiên cứu được thể hiện trong

hiệu là 56% tới 100%(6). Điều này có nghĩa là

bảng 2. Kết quả này khá cao so với y văn thế

lượng MS trong nước bọt dùng để đánh giá

giới(1,15). Tuy nhiên, ngưỡng 105 CFU/ml MS

những đối tượng sẽ không hoặc ít có nguy cơ bị

trong nước bọt có thể được xem là cao đối với


sâu răng trong tương lai (độ đặc hiệu cao) thì

người có ít răng và không có phục hình, còn

chính xác hơn là xác định những đối tượng có

những đối tượng có tỷ lệ sâu mất trám cao hoặc

nguy cơ sâu răng cao trong tương lai (độ nhạy

có nhiều phục hình trong miệng thì 106 CFU/ml

không cao)(6,13). Từ những luận chứng vừa nêu ở

vẫn có thể xem là bình thường(6). Thêm vào đó,

trên, ta thấy rằng tuy kết quả lượng MS trong

nhiều nghiên cứu cho thấy rằng lượng MS cao

nghiên cứu này cao, nhưng điều đó chưa thể nói

hay thấp không quan trọng bằng tỷ lệ giữa

lên rằng nhóm đối tượng trong nghiên cứu của

lượng MS so với tổng lượng vi khuẩn(13,15). Ngoài

chúng tôi có nguy cơ sâu răng cao.


sâu răng(13,15). Giá trị lượng MS trong nước bọt có
độ nhạy để đánh giá nguy cơ sâu răng nằm

Bảng 2: Sự thay đổi lượng mutans streptococci trong nước bọt trước và sau khi mang khí cụ CHRMCĐ 6, 12
tuần (n=33)
Lượng mutans streptococci
5
(×10 CFU/ml)
Trước khi mang khí cụ (MS0)
Sau khi mang khí cụ 6 tuần (MS1)

Trung bình
(Độ lệch chuẩn)
38,94 (25,11)
85,42 (51,21)

Trung vị (Khoảng tứ phân
vị)
35 (18-55)
75 (45-103)

<0,001*

Sau khi mang khí cụ 12 tuần (MS2)

67,12 (40,45)

62 (43-80)

<0,001* 0,03 #


Giá trị p

p: Kiểm định phi tham số Wilcoxon
*: Khác biệt có ý nghĩa thống kê khi so sánh giá trị tại tuần thứ 6, 12 với giá trị trước điều trị (p<0,05)
#: Khác biệt có ý nghĩa thống kê khi so sánh giá trị tại tuần thứ 12 với giá trị tại tuần thứ 6 (p<0,05)

Kết quả đánh giá lượng MS của chúng tôi
tương đồng với nghiên cứu của Võ Thị Thảo
Nguyên (2014)(18). Nghiên cứu của Thảo
Nguyên ghi nhận lượng MS trong nước bọt
trên 40 bệnh nhân mang khí cụ CHRMCĐ
nằm trong khoảng 39-61 ×105 CFU/ml. Điều
này có thể do nghiên cứu của chúng tôi và
Thảo Nguyên cùng thực hiện lấy mẫu nước
bọt không kích thích trên đối tượng là những
người trẻ điều trị CHRMCĐ tại Thành phố Hồ
Chí Minh và cùng sử dụng phương pháp đếm
khúm MS trên môi trường MSB.
Cần thêm nhiều nghiên cứu về đặc điểm
lượng MS, đặc biệt là ở người Việt Nam để xác

Chuyên Đề Răng Hàm Mặt

định đặc điểm về lượng MS trong môi trường
miệng nói riêng hay đặc điểm hệ vi khuẩn
trong môi trường miệng nói chung, giúp đánh
giá và so sánh nguy cơ sâu răng của bệnh
nhân người Việt điều trị CHRMCĐ tại Việt
Nam. Và bởi vì sâu răng là một bệnh có đa yếu

tố bệnh căn, việc phân loại nguy cơ sâu răng
nên đánh giá thêm nhiều yếu tố như: tiền sử
bệnh sâu răng, chế độ ăn uống, ý thức giữ gìn
vệ sinh răng miệng, các tính chất của nước bọt,
và các yếu tố xã hội khác...
Sau 6 tuần đầu tiên tính từ lúc bắt đầu mang
khí cụ CHRMCĐ, lượng MS trong nước bọt tăng
có ý nghĩa thống kê (p<0,001). Sau 12 tuần đầu

205


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015

tiên tính từ lúc bắt đầu mang khí cụ CHRMCĐ,
lượng MS trong nước bọt tăng có ý nghĩa thống
kê (p<0,001). Giai đoạn tuần thứ 6 tới tuần thứ 12
sau khi mang khí cụ CHRMCĐ, lượng MS trong
nước bọt giảm có ý nghĩa thống kê (p<0,05)
(Bảng 2).

Sự thay đổi lượng MS trong nước bọt sau
12 tuần điều trị CHRMCĐ

Biểu đồ 1: Sự thay đổi lượng MS sau 12 tuần mang
khí cụ CHRMCĐ.
Tất cả 33 đối tượng đều được hướng dẫn
phương pháp vệ sinh răng miệng dành cho

người điều trị CHRMCĐ, duy trì đánh răng
bằng kem đánh răng có fluoride, không được
thực hiện các biện pháp can thiệp chuyên khoa
như bôi các loại vecni có fluoride, cạo vôi răng,
hoặc sử dụng thuốc kháng sinh trong thời gian
nghiên cứu. Bởi vậy, những thay đổi của lượng
MS được cho là sự thay đổi của môi trường
miệng khi điều trị CHRMCĐ.
Kết quả của nghiên cứu này cũng giống như
kết quả của nhiều nghiên cứu khác trên thế giới,
nhận thấy có sự tăng lượng MS trong nước bọt
sau khi mang khí cụ CHRMCĐ có ý nghĩa thống
kê(3,9,11,15,17) . Nghiên cứu của chúng tôi và của tác
giả Topaloglu-Ak A. (2011)(16) cùng thực hiện
trên mẫu nước bọt không kích thích, và đếm
khúm trên môi trường chọn lọc MSB. Kết quả
của tác giả Topaloglu-Ak nhận thấy có sự tăng

206

lượng MS trong nước bọt sau 6 tháng mang khí
cụ CHRMCĐ có ý nghĩa thống kê, tương tự với
kết quả của nghiên cứu này.
Tuy nhiên, kết quả trong nghiên cứu này
không nhất quán với kết quả của một số nghiên
cứu khác(7,10,14). Các tác giả thấy không có sự thay
đổi lượng MS trong nước bọt có ý nghĩa thống
kê trước và sau khi gắn khí cụ CHRMCĐ nhiều
tháng. Điều này có thể do các tác giả sử dụng
phương pháp đánh giá là bộ thử nhanh mutans

streptococci, như Dentocult® SM strip(7,14) không
phản ánh được những thay đổi nhỏ của lượng vi
khuẩn, hoặc tác giả thực hiện nghiên cứu trên
đối tượng có số lượng mắc cài trong miệng ít (10)
Một điểm đáng lưu ý trong nghiên cứu này
là sự thay đổi lượng MS không tăng theo thời
gian. Lượng MS trong nước bọt tại tuần thứ 12
tuy vẫn cao hơn trước khi mang khí cụ
CHRMCĐ, nhưng thấp hơn lượng MS đếm
được tại thời điểm tuần thứ 6 sau khi mang khí
cụ CHRMCĐ. Trong nghiên cứu này, sự thay
đổi lượng MS khá giống với kết quả nghiên cứu
của Ristic và cs (2007)(12), Peros K. và cs (2011)(11),
Zabokova BE. và cs (2012)(17). Tuy đánh giá sự
thay đổi lượng MS trên các mẫu khác nhau
nhưng các nghiên cứu cùng thể hiện rằng sự
thay đổi lượng MS trong môi trường miệng diễn
ra không phải tăng dần theo thời gian, mà tăng
có đỉnh cao nhất. Kết quả nghiên cứu của chúng
tôi, cùng với Peros K. (2011)(11), Zabokova
(2012)(17), Ristic (2007)(12) gợi ý về thời gian thích
hợp để áp dụng các biện pháp kiểm soát lượng
vi khuẩn sinh sâu răng MS trong môi trường
miệng một cách hiệu quả và tiết kiệm nhất
Nhìn chung, rất khó để có một sự so sánh
giữa kết quả của nghiên cứu này với các nghiên
cứu khác mà tất cả đều đóng góp vào công trình
nghiên cứu chung, nhằm đưa đến những cái
nhìn tổng quát về sự thay đổi lượng mutans
streptococci trong môi trường miệng ở bệnh

nhân mang khí cụ CHRMCĐ.

Chuyên Đề Răng Hàm Mặt


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015
KẾT LUẬN
Mang khí cụ CHRMCĐ gây tăng có ý nghĩa
thống kê lượng mutans streptococci trong nước
bọt, đặc biệt là trong 6 tuần đầu tiên.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

2.

3.

4.

5.

6.
7.

8.

9.

Babaahmady KG., Challacombe SJ., Marsh PD. (1998),

Ecologial study of Streptococcus mutans, Streptococcus sobrinus
and Lactobacillus spp. at subsites from approximal dental
plaque from children, Caries Res., 32(1): 51-59.
Bonetti GA., Parenti SI., Garulli G. (2013), Effect of fixed
orthodontic appliances treatment: Aetiology and prevention,
Progress in Orthodontics, 14:13.
Chang HS., Walsh LJ., Freer TJ. (1999), The effect of
orthodontic treatment on salivary flow, pH, buffer capacity,
and levels of mutans streptococci and lactobacilli, Aust J
Orthod, 15: 229-234.
Fenoll-Palomares C., Munoz-Montagud JV., (2004),
Unstimulated salivary flow rate, pH and buffer capacity of
saliva in healthy volunteers, Revesp esp enferm dig (Madrid),
96(11): 773-783.
Jung WS., Kim H., (2014), Quantitative analysis of changes in
salivary mutans streptococci after orthodontic treatment, Am J
Orthod Dentofacial Orthop, 145: 603-612,
Krasse B. et al (1998), Biological factors as indicators of future
caries, Int Dent J, 38(4): 219-225.
Lara-Carrill E., Montiel-Bastida NM., (2010), Effect of
orthodontic treatment on saliva, plaque and the levels of
Streptococcus mutans and Lactobacillus, Med Oral Patol Cir Bucal,
15(6): e924-933.
Lara-Carrill E., Montiel-Bastida NM., (2012), Factors correlated
with developing caries during orthodontic treatment: Changes
in saliva and behavioral risk, Joural of Dental Sciences, 7:
218e223.
Maret D., Sixou CM., (2014), Effect of fixed orthodontic
appliances on salivary microbial parameters at 6 months: a
controlled observational study, J Appl Oral Sci, 22(1): 38-43.


Chuyên Đề Răng Hàm Mặt

10.

11.

12.

13.
14.

15.

16.

17.

18.

Nghiên cứu Y học

Pandis N., Papaioannou W., (2010), Salivary Streptococcus
mutans levels in patients with conventional and self-ligating
brackets, European Journal of Orthodontics, 32: 94-99.
Peros K., Mestrovic S., (2011), Salivary microbial and
nonmicrobial parameters in children with fixed orthodontic
appliances, Angle Orthod., 81: 901-906.
Ristic M., Vlahovic SM., (2007), Clinical and microbiological
effects of fixed orthodontic appliances on periodontal tissues

in adolescents, Orthod Craniofac Res., 10: 187-195.
Samaranayake L. et al (2006), Essential Microbiology for
Dentistry. Churchill Livingstone. 3rd ed.
Sanpei S., Endo T., (2010), Caries Risk Factors in children
under treatment with sectional brackets, Angle Orthod, 80: 509514.
Thenisch NL., Bachmann LM., (2006), Are mutans streptococci
detected in Preschool children a reliable predictive factor for
dental caries risk? A system revie, Caries Res, 40: 366-374.
Topaloglu-Ak A., Ertugrul F., (2011), Effect of Orthodontic
appliances on oral microbiota- 6 month follow-up, J Clin
Pediatr Dent, 35(4): 4433-4436.
Zabokova BE., Sotirovska IA., (2012), The effect of orthodontic
treatment on pH, buffer capactity, and levels of Streptococcus
mutans and Lactobacillus, Stomatoloski vjecnik 2/2012: 93-97.
Võ thị Thảo Nguyên (2014), Hiệu quả của nước súc miệng
chứa tinh dầu trên lượng vi khuẩn Streptococcus mutans ở bệnh
nhân mang khí cụ chỉnh hình răng mặt cố định. Khóa luận tốt
nghiệp bác sĩ Răng Hàm Mặt, Đại học Y dược thành phố Hồ Chí
Minh.

Ngày nhận bài báo:

24/01/2015

Ngày phản biện nhận xét bài báo:

10/02/2015

Người phản biện:
Ngày bài báo được đăng:


TS Phạm Anh Vũ Thụy
10/04/2015

207



×