Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Điều trị sỏi bàng quang bằng tán sỏi cơ học tại Bệnh viện đa khoa Trung Ương Cần Thơ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (415.68 KB, 7 trang )

Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013

ĐIỀU TRỊ SỎI BÀNG QUANG BẰNG TÁN SỎI CƠ HỌC  
TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TRUNG ƯƠNG CẦN THƠ 
Lê Kế Nghiệp*, Đàm Văn Cương** 

TÓM TẮT 
Đặt vấn đề và mục tiêu: Xác định đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng ở bệnh nhân có sỏi bàng quang được 
điều trị bằng tán sỏi cơ học qua nội soi bàng quang. Đánh giá kết quả điều trị sỏi bàng quang bằng tán sỏi cơ học 
qua nội soi bàng quang tại bệnh viện đa khoa Trung Ương Cần Thơ. 
Đối tượng – phương pháp nghiên cứu: Bằng nghiên cứu hồi cứu mô tả cắt ngang. Chúng tôi đã nghiên 
cứu 63 bệnh nhân từ 01/01/2010 đến 31/08/2012 tại Bệnh viện đa khoa Trung ương Cần Thơ được điều trị sỏi 
bàng quang bằng tán sỏi cơ học qua nội soi bàng quang. 
Kết quả: Tỉ lệ nam/nữ là 55/8, tuổi mắc bệnh 26 – 81 tuổi, trung bình 51,17 tuổi. Triệu chứng thường gặp 
tiểu khó 60,3%, tiểu gắt 46%, tiểu lắt nhắt 52,4%, đau hạ vị 27%, tiểu tắc giữa dòng 33,3%, bí tiểu 27%, cầu 
bàng quang 15,9%. Giá trị chẩn đoán của soi bàng quang 100%, siêu âm 87,7% và chụp hệ niệu không chuẩn bị 
67,3%. Kích thước sỏi thường gặp 1 – 2cm (76,2%), lớn nhất là 5cm. 88,7% có 1 viên sỏi, nhiều nhất là 7 viên. 
Nguyên nhân do tăng sinh lành tính tiền liệt tuyến 18,2%, hẹp cổ bàng quang 14,3%, hẹp niệu đạo 9,5%. Thời 
gian thủ thuật trung bình 23,1 (5 – 60) phút. 
Kết luận: Kết quả tốt 95,2%, trung bình 4,8%, không có kết quả xấu, không có tử vong. 
Từ khóa: sỏi bàng quang 

ABSTRACT 
THE TREATMENT BLADDER STONE BY LITHOTRIPSY AT CAN THO CENTRAL GENERAL 
HOSPITAL 
Le Ke Nghiep, Dam Van Cuong  
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2013: 228 ‐ 234 
Introduction and objectives: Determining the clinical characteristics, clinical and evaluate the results of 
treatment of bladder stones by endoscopic mechanical lithotripsy bladder at Can Tho Central General Hospital. 


Patients  and  methods:  By  cross‐sectional  retrospective  study  describes.  We  studied  63  patients  from 
01/01/2010  to  31/08/2012  at  Can  Tho  Central  General  Hospital  that  is  treated  bladder  stones  by  endoscopic 
mechanical lithotripsy. 
Results: Ratio of male / female 55/8, infected age 26 ‐ 81 years old, average age 51.17. Common symptoms 
dysuria  60.3%,  intense  sub  46%,  and  small  mice  52.4%,  pain  lower  27%,  sub  switch  between  line  33.3%, 
urinary retention 27%, bladder optical 15, 9%. The value of diagnostic cystoscopy 100%, ultrasound 87.7% and 
kidney  ureter  bladder  X‐ray  67.3%.  Common  size  gravel  1  ‐  2  cm  (76.2%),  the  largest  being  5cm.  88.7%  1 
pebble, most 7 pebbles. Caused by proliferation of benign prostate 18.2%, bladder neck stenosis 14.3%, urethral 
stenosis 9.5%. The average procedure time of 23.1 (5‐60) minutes. 
Conclusions: Good results 95.2%, average 4.8%, with no bad results, there is no death. 
Key words: bladder stone 

* Bệnh viên Tam Bình Tỉnh Vĩnh Long  
Tác giả liên lạc: PGS. TS Đàm Văn Cương 

228

  ** Trường đại học Y dược Cần Thơ 
ĐT: 0913784310  
Email:  

Chuyên Đề Thận ‐ Niệu  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Sỏi niệu là bệnh lý phổ biến, đứng hàng đầu 
và chiếm khoảng 30‐40% các bệnh lý về đường 
tiết niệu(2). Bất kỳ vị trí nào của đường dẫn niệu 
đều có thể bị sỏi, trong đó: sỏi thận gặp 40‐50%, 

sỏi niệu quản gặp 28%, sỏi bàng quang gặp 30%, 
sỏi  niệu  đạo  gặp  5%.  Thông  thường  sỏi  bàng 
quang  đi  kèm  các  bệnh  lý  của  đường  tiết  niệu 
dưới như: tăng sinh lành tính tiền liệt tuyến, xơ 
chai  cổ  bàng  quang,  hẹp  cổ  bàng  quang,  hẹp 
niệu đạo. 
Điều  trị  sỏi  bàng  quang  bao  gồm:  mổ  mở, 
lấy  sỏi  bàng  quang  qua  da  trên  xương  mu,  lấy 
sỏi bàng quang qua niệu đạo bằng phương bóp 
sỏi nội soi và hiện nay dùng nội soi tán sỏi bàng 
quang qua đường niệu đạo. 
Các  bệnh  viện  tại  Việt  Nam  đã  có  nhiều 
thành công trong điều trị sỏi bàng quang, có rất 
nhiều  trường  hợp  điều  trị  được  sỏi  rất  to.  Tại 
khoa ngoại niệu bệnh viện đa khoa trung ương 
Cần Thơ đã điều trị nhiều trường hợp sỏi bàng 
quang bằng phương pháp mổ mở và nội soi tán 
sỏi cơ học. Trong đó nội soi bàng quang tán sỏi 
cơ học là phương pháp ít xâm lấn, có tỉ lệ thành 
công  cao,  được  bệnh  viện  đa  khoa  trung  ương 
Cần  Thơ  áp  dụng  nhiều  để  điều  trị  sỏi  bàng 
quang. 

Mục tiêu 
Xuất phát từ thực tế trên chúng tôi chọn đề 
tài này với 2 mục tiêu: 
Xác định đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng ở 
bệnh nhân có sỏi bàng quang được điều trị bằng 
tán sỏi cơ học qua nội soi bàng quang. 


Nghiên cứu Y học

Tiêu chuẩn chọn bệnh 
Tất cả bệnh nhân ≥16  tuổi,  được  chẩn  đoán 
sỏi  bàng  quang  và  điều  trị  bằng  phương  pháp 
nội soi bàng quang tán sỏi cơ học. 

Tiêu chuẩn loại trừ 
Nhiễm trùng tiểu chưa điều trị ổn. 
Hẹp niệu đạo, hẹp cổ bàng quang không thể 
đặt máy soi vào bàng quang. 
Suy thận nặng. 
Sỏi kích thước > 3cm không thể đặt máy tán 
sỏi. 
Mắc  các  bệnh  lý  nội  khoa  nặng  khác  ảnh 
hưởng kết quả điều trị. 
Bệnh nhân bị HIV/AIDS. 
Đánh giá kết quả: 
+ Kết quả tốt khi đạt được sạch sỏi và không 
xảy ra tai biến, biến chứng sau thủ thuật. 
+ Kết quả trung bình khi đạt sạch sỏi và xảy 
ra  tai  biến,  biến  chứng  sau  thủ  thuật  nhưng 
không cần can thiệp thủ thuật lại hoặc các biện 
pháp ngoại khoa. 
+  Xấu  khi  không  đạt  sạch  sỏi,  thất  bại  thủ 
thuật hoặc xảy ra tai biến, biến chứng nặng cần 
can thiệp ngoại khoa hoặc thủ thuật khác, hoặc 
bệnh nhân tử vong. 

Nhập số liệu, xử lý số liệu và phân tích 

Số liệu sau khi được làm sạch, sẽ được nhập 
vào  máy  tính  và  xử  lý  bằng  phần  mềm  SPSS 
(version 18.0; SPSS Inc, Chicago, USA). 

KẾT QUẢ 
Tuổi mắc bệnh 

Đánh  giá  kết  quả  điều  trị  sỏi  bàng  quang 
bằng  tán  sỏi  cơ  học  qua  nội  soi  bàng  quang  tại 
bệnh viện đa khoa Trung Ương Cần Thơ. 

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Nghiên cứu hồi cứu mô tả cắt ngang 63 bệnh 
nhân  bị  sỏi  bàng  quang  từ  01/01/2010  đến 
31/08/2012  tại  Bệnh  viện  đa  khoa  Trung  ương 
Cần Thơ. 

Chuyên Đề Thận ‐ Niệu 

 
Biểu đồ 1. Biểu diễn nhóm tuổi mắc bệnh. 

229


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013

Nghiên cứu Y học 

Tuổi  mắc  bệnh  trung  bình  57,17  tuổi  (26  – 

81 tuổi). 

Giới tính 

Bảng 1. Lý do vào viện. 
Số lượng bệnh
nhân (n)
35
16
4
3
1
1
1
1
1

Tỉ lệ
(%)
55,6
25,4
6,3
4,8
1,6
1,6
1,6
1,6
1.6

Nhận  xét:  Lý  do  vào  viện  của  bệnh  nhân 

thường là tiểu khó và bí tiểu. 

Triệu chứng lâm sàng 
Bảng 2. Triệu chứng lâm sàng. 
Triệu chứng
Tiểu khó
Tiểu lắt nhắt
Tiểu gắt
Tiểu tắc giữa dòng
Đau bụng hạ vị
Bí tiểu
Cầu bàng quang


Tần số (n)
38
33
29
21
17
17
10

Tỉ lệ (%)
60,3
52,4
46
33,3
27
27

15,9

Nhận  xét: Các triệu chứng tiểu  khó,  tiểu  lắt 
nhắt,  tiểu  gắt,  tiểu  tắc  giữa  dòng,  đau  hạ  vị,  bí 
tiểu,  cầu  bàng  quang  là  những  triệu  chứng 
thường  gặp  và  một  bệnh  nhân  có  nhiều  triệu 
chứng phối hợp. 
Bảng 3. Triệu chứng lâm sàng tiểu máu. 
Triệu chứng
Không tiểu máu
Tiểu máu đại thể
Tiểu máu vi thể

230

100

Nhận  xét:  Phần  lớn  bệnh  nhân  có  tiểu  máu 
từ vi thể đến đại thể. 
Bảng 4. Giá trị chẩn đoán của các phương tiện cận 
lâm sàng. 

Lý do vào viện 

Tiểu khó
Bí tiểu
Tiểu gắt
Tiểu máu
Đau bụng hạ vị
Tiểu lắt nhắt

Tiểu tắc giữa dòng
Phát hiện sỏi qua siêu âm
Khác

63

Cận lâm sàng 

Tỉ lệ nam/nữ là 55/8. 

Lý do

Tổng

Số lượng bệnh
nhân (n)
9
12
42

Tỉ lệ (%)
14,3
19
66,7

Phương tiện
chẩn đoán
Nội soi BQ
X quang
Siêu âm


Chẩn đoán đúng
Số bệnh nhân
được xét nghiệm Tần số (n) Tỉ lệ (%)
63
63
100%
49
33
67,3%
57
50
87,7%

Đặc điểm của sỏi 
Số lượng sỏi phần lớn là một viên 56/63 bệnh 
nhân. Có 1/63 bệnh nhân có đến 7 viên sỏi. 
Đa số gặp sỏi có kích thước từ 1‐2cm chiếm 
72,2%  (57/79).  Kích  thước  sỏi  trung  bình 
1,859cm, nhỏ nhất 0,8cm, lớn nhất 5cm. 
Sỏi  có  hình  oval  chiếm  đa  số  45/79  (57%), 
hình cầu 23/79  (29,1%),  hình  nhiều  thùy  11/79 
(13,9%). 
Màu 
sắc  sỏi  gồm  màu  vàng 
49/79  (62%), 
Không
Tổng
màu trắng 29/79 (36,7%), màu nâu 1/79 (1,3%). 
Tần

số (n)
Tỉ lệ (%)
Tần số (N)
Tỉ lệ (%)
25Sỏi  thường 
39,7nằm  trong 63lòng  bàng 100
quang 
30
47,6
63
100
69/79 (87,3%), kẹt cổ bàng quang 10/79 (12,7%). 
34
54
63
100
nhân  gồm 
tăng  sinh 
42Bệnh  lý  nguyên 
66,7
63
100 lành 
tính 
18,2%,  hẹp 
quang 
46 tiền  liệt  tuyến 
73
63 cổ  bàng 100
46
73

63
100
14,3%, hẹp niệu đạo 9,5%. 
53
84,1
63
100

Liên quan giữa số lượng sỏi với độ tuổi 
Bảng 5. Liên quan số lượng sỏi và độ tuổi. 
20-39
40-59
tuổi
tuổi
12
29
1 viên
(21,4%) (51,8%)
2 viên
0 (0%) 3 (75%)
3 viên
0 (0%) 1 (100%)
> 3 viên 0 (0%)
0 (0%)
33
Tổng 12 (19%)
(52,4%)

60-79
tuổi


≥ 80
tuổi

Tổng

56
(100%)
0 (0%) 4 (100%)
0 (0%) 1 (100%)
1 (50%) 2 (100%)
63
2 (3,2%)
(100%)

14 (25%) 1 (1,8%)
1 (25%)
0 (0%)
1 (50%)
16
(25,4%)

Nhận xét: Sỏi 1‐2 viên thường gặp ở độ tuổi 
<60 tuổi. Sỏi >3 viên chỉ gặp ở độ tuổi ≥60 tuổi. 

Chuyên Đề Thận ‐ Niệu  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 


Nghiên cứu Y học

Liên quan giữa số lượng sỏi với bệnh nguyên 
Bảng 6. Liên quan số lượng sỏi với bệnh nguyên. 
Tăng sinh tiền liệt tuyến
Hẹp cổ bàng quang
Hẹp niệu đạo

Không
Tổng

Không
Tổng

Không
Tổng
1 viên
8 (15,7%) 43 (84,3%) 51 (100%) 7 (12,5%) 49 (87,5%) 56 (100%) 6 (10,7%) 50 (89,3%)
56 (100%)
2 viên
1 (50%)
1 (50%)
2 (100%)
0
4 (100%) 4 (100%)
0
4 (100%)
4 (100%)
3 viên
0

0
0
0
1 (100%) 1 (100%)
0
1 (100%)
1 (100%)
> 3 viên
1 (50%)
1 (50%)
2 (100%) 2 (100%)
0
2 (100%)
0
2 (100%)
2 (100%)
Tổng
10 (18,2%) 45 (81,8%) 55 (100%) 9 (14,3%) 54 (85,7%) 63 (100%) 6 (9,5%) 57 (90,5%)
63 (100%)

Kết quả thủ thuật 
Thời  gian  tiến  hành  thủ  thuật  trung  bình 
23,1 phút (5‐60 phút). 
Thời gian nằm viện trung bình 7,48 ngày (3‐
15 ngày). 
Cắt  đốt  nội  soi  tiền  liệt  tuyến  9/63  (14,3%), 
nong  niệu  đạo  5/63  (7,9%),  Xẻ  cổ  bàng  quang 
2/63 (3,2%). 
Kết  quả  tốt  đạt  95,2%,  trung  bình  4,8%, 
không có kết quả xấu cũng như tử vong. 


BÀN LUẬN 
Sỏi niệu là một bệnh lý phổ biến, ảnh hưởng 
từ  5‐10%  trong  suốt  cuộc  đời  của  con  người. 
Trong  đó  sỏi  bàng  quang  chiếm  khoảng  30% 
trong tổng số sỏi niệu. 
Theo  nghiên  cứu  của  chúng  tôi  từ 
01/01/2010 đến 31/08/2012, tại khoa ngoại niệu 
bệnh viện đa khoa Trung ương Cần Thơ tổng 
số  bệnh  nhân  nhập  viện  điều  trị  sỏi  bàng 
quang  là  125  bệnh  nhân.  Trong  đó,  tán  sỏi  cơ 
học  điều  trị  sỏi  bàng  quang  qua  niệu  đạo  là 
100 trường hợp. Nhưng thỏa điều kiện nghiên 
cứu của chúng tôi là 63 trường hợp.  Nếu  tính 
cho  toàn  bộ  phương  pháp  điều  trị  sỏi  bàng 
quang  bằng  tán  sỏi  cơ  học  qua  niệu  đạo  là 
100/125  bệnh  nhân,  tỉ  lệ  80%.  Mở  bàng  quang 
lấy sỏi là 17/125 bệnh nhân, tỉ lệ 13,6%. 
Tuổi  mắc  bệnh  trung  bình  trong  nghiên 
cứu của chúng tôi: Tương đương với Đàm Văn 
Cương (1995)(1). 
Qua biểu đồ 1 cho thấy độ tuổi mắc bệnh cao 
nhất là 40‐59 tuổi tương đương với nghiên cứu 
của Nguyễn Minh Tuấn (2010)(4). 

Chuyên Đề Thận ‐ Niệu 

So  với  nghiên  cứu  của  Vũ  Hồng  Thịnh 
(2004)(5), độ tuổi <70 của chúng tôi chiếm tỉ lệ cao 
hơn có ý nghĩa thống kê p<0.0001. 

Theo nghiên cứu của Douenias R và cộng sự 
(1991) tuổi mắc sỏi bàng quang từ 20 đến 92 tuổi 
cũng  tương  đương  với  độ  tuổi  mắc  bệnh  trong 
nghiên cứu của chúng tôi. 

Giới tính 
Trong nghiên cứu của chúng tôi nam chiếm 
tỉ lệ cao hơn nữ tương đương với các nghiên cứu 
của  Đàm  Văn  Cương  (1995),  Vũ  Hồng  Thịnh 
(2004), Nguyễn Minh Tuấn (2010). 

Lý do vào viện 
Qua bảng 1 cho thấy lý do bệnh nhân nhập 
viện  nhiều  nhất  là  tiểu  khó  (55,6%)  và  bí  tiểu 
(25,4%).  So  sánh  với  nghiên  cứu  của  Đàm  Văn 
Cương (1995), triệu chứng phổ biến nhất là tiểu 
gắt  tới  45,55%,  tiểu  tắc  24,80%,  bí  tiểu  và  tiểu 
máu 28,88%; có sự khác biệt với nghiên cứu của 
chúng tôi. Nhưng xem xét chung vẫn là các triệu 
chứng  gây  cho  bệnh  nhân  các  rối  loạn  về  tiểu 
tiện  là  nguyên  nhân  chính  khiến  bệnh  nhân 
nhập viện điều trị. 

Triệu chứng lâm sàng 
Qua  kết  quả  ở  bảng  2  và  3  chủ  yếu  là  các 
triệu  chứng  rối  loạn  đi  tiểu  và  sự  thay  đổi 
nước  tiểu.  So  với  nghiên  cứu  của  Anil  Kumar 
P.L,  tỉ  lệ  bệnh  nhân  đau  hạ  vị,  tiểu  gắt  của 
chúng  tôi  thấp  hơn,  còn  tiểu  máu  và  tiểu  khó 
của  chúng  tôi  cao  hơn,  chúng  tôi  không  có 

bệnh nhân nào sốt và các triệu chứng khác của 
chúng tôi thì tương đương. 

231


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013

Giá trị chẩn đoán của các phương pháp cận 
lâm sàng 
Theo bảng 4 có sự khác biệt nhưng không có 
ý nghĩa thống kê p>0,05 khi so sánh bằng phép 
Chi bình phương. Phù hợp với nghiên cứu  của 
Đàm Văn Cương (1995) về giá trị chẩn đoán của 
3  phương  pháp  là  như  nhau,  do  đó  có  thể  sử 
dụng  một  trong  3  phương  pháp  để  chẩn  đoán 
sỏi bàng quang. 

Đặc điểm của sỏi 
Về số lượng sỏi trong nghiên cứu của chúng 
tôi cũng tương đương với các tác  giả  khác  như 
Đàm  Văn  Cương  (1995),  Anil  Kumar  P.L 
(2004)(Error! Reference source not found.), Nguyễn Minh Tuấn 
(2010),  chủ  yêu  là  một  viên.  Chúng  tôi  có  1 
trường hợp có tối đa 7 viên sỏi, Anil Kumar P.L 
(2004) 9,14% trường hợp có nhiều sỏi, Vũ Hồng 
Thịnh  (2004)  số  lượng  sỏi  từ  1  đến  12  viên, 
Nguyễn Minh Tuấn (2010) có 1 bệnh nhân có 9 

viên sỏi. 
Liên  quan  giữa  số  lượng  sỏi  so  với  nhóm 
tuổi  theo  bảng  5,  sỏi  1  viên  gặp  nhiều  nhất  ở 
tuổi  <60  tuổi  (73,2%),  sỏi  từ  3  viên  trở  lên  chỉ 
gặp  ở  tuổi  ≥60  tuổi  do  liên  quan  đến  bệnh  lý 
gây tắc nghẽn đường thoát nước tiểu của bàng 
quang gây ứ đọng nước tiểu lau ngày nên hình 
thành nhiều sỏi. 
Qua  bảng  6,  sỏi  1  viên  gặp  ở  tất  cả  các 
trường hợp có và không có bệnh nguyên nhưng 
tỉ  lệ  thấp  hơn  ở  nhóm  có  bệnh  nguyên.  Khi  số 
lượng  sỏi  nhiều  >  2  viên  tỉ  lệ  gặp  ở  nhóm  có 
bệnh  nguyên  tương  đương  hoặc  hơn  nhóm 
không có bệnh nguyên. 
Đa  số  sỏi  có  kích  thước  từ  1  –  2cm  (72,2%), 
kích  thước  lớn  nhất  là  5cm,  nhỏ  nhất  là  0,8cm. 
Đàm Văn Cương (1995) đa số sỏi có kích thước ≤ 
2cm (78%), trường hợp lớn nhất có đường kính 
4,5cm,  sỏi  nhỏ  nhất  là  0,7cm.  Vũ  Hồng  Thịnh 
(2004) kích thước sỏi từ 1 – 4cm. Anil Kumar P.L 
(2004)  kích  thước  sỏi  thay  đổi  từ  1x0,8cm  đến 
3x3,2cm, tối đa (57,14%) có kích thước 1 – 3cm. 
Nguyễn Minh Tuấn (2010) kích thước sỏi đa số 
từ 1,5 – 2,5cm, có trường hợp đến 4cm. 

232

Sỏi  có  hình  oval  57%,  hình  cầu  29,1%,  hình 
nhiều  thùy  13,9%.  Phù  hợp  với  hình  dạng  sỏi 
trong  nghiên  cứu  của  Đàm  Văn  Cương  (1995). 

Nghiên cứu của Anil Kumar P.L hình dạng của 
sỏi gồm hình oval 48,61%, hình dạng không đều 
25,19% và hình cầu 23,8%. 
Màu sắc sỏi gồm màu vàng 62%, màu trắng 
36,7%,  màu  nâu  1,3%.  Trong  nghiên  cứu  của 
Đàm  Văn  Cương  (1995)  sỏi  màu  vàng  43,33%, 
sỏi  màu  nâu  nhạt  26,66%,  nâu  đen  13,34%,  cao 
hơn nhiều so với nghiên cứu của chúng tôi, màu 
trắng chiếm 16,67% thấp hơn trong nghiên cứu 
của  chúng  tôi.  Do  số  mẫu  (270  bệnh  nhân)  của 
tác giả lớn hơn chúng tôi rất nhiều. 
Trong  nghiên  cứu  của  chúng  tôi  đa  số  sỏi 
nằm tự do trong lòng bàng quang 87,3%, kẹt cổ 
bàng quang 12,7%. Tất cả các trường hợp kẹt ở 
cổ  bàng quang khi soi chúng tôi đã dùng  nước 
đẩy vào trong bàng quang. Theo Nguyễn Minh 
Tuấn  (2010)  có  16%  sỏi  kẹt  cổ  bàng  quang  và 
cũng dùng nước đẩy vào bàng quang. 

Kết quả điều trị 
Chúng  tôi  có  9/10  bệnh  nhân  có  tăng  sinh 
lành  tính  tiền  liệt  tuyến  được  cắt  đốt  nội  soi 
sau khi tán sỏi, hẹp cổ bàng quang có 2/9 bệnh 
nhân cần phải xẻ cổ bàng quang trước khi tán 
sỏi  bàng  quang  để  làm  rộng  đường  vào  cho 
ống soi, số còn lại do hẹp nhẹ nên ống soi qua 
dễ dàng hoặc hẹp do  tăng  sinh  tiền  liệt  tuyến 
và khi xử lý cắt đốt nội soi tiền liệt tuyến hiển 
nhiên hẹp cổ bàng quang được giải quyết, hẹp 
niệu  đạo  cần  được  nong  rộng  5/6  bệnh  nhân 

trước  khi  tiến  hành  thủ  thuật  và  đều  thành 
công.  Trong  nghiên  cứu  của  Vũ  Hồng  Thịnh 
(2004) có 19 trường hợp có tăng sinh lành tính 
tiền  liệt  tuyến  và  1  trường  hợp  hẹp  cổ  bàng 
quang  và  được  xử  lý  cắt  đốt  nội  soi  và  xẻ  cổ 
bàng  quang  sau  khi  tán  sỏi.  Nghiên  cứu  của 
Anil  Kumar  P.L  (2004)  có  7  bệnh  nhân  tăng 
sinh  lành  tính  tiền  liệt  tuyến  1  được  điều  trị 
với cắt đốt nội soi tiền liệt tuyến qua niệu đạo, 
4  được  điều  trị  với  cắt  tiền  liệt  tuyến  mở,  2 
bệnh nhân được điều trị nội khoa, 6 bệnh nhân 

Chuyên Đề Thận ‐ Niệu  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 
được cắt bao qui đầu và 2 bệnh nhân được xẻ 
cổ bàng quang. 
Thời gian tiến hành thủ thuật trung bình là 
23,1  phút,  nhanh  nhất  là  5  phút  ở  những  bệnh 
nhân có sỏi nhỏ dễ bắt giữ và không có bệnh lý 
kèm theo, lâu nhất là 60 phút ở bệnh nhân phải 
cắt đốt nội soi tăng sinh lành tính tiền liệt tuyến. 
Vũ Hồng Thịnh (2004), thời gian tiến hành trung 
bình là 30 phút. 
Được tính từ lúc bệnh nhân vào viện đến khi 
bệnh nhân ra viện, do đó tính luôn cả thời gian 
chờ mổ và thời gian hậu phẫu. Thời gian trung 
bình  7,48  ngày,  ngắn  nhất  3  ngày,  dài  nhất  15 
ngày.  Những  bệnh  nhân  nằm  viện  lâu  là  do 

trước phẫu thuật được điều trị nhiễm trùng hoặc 
cắt đốt nội soi tăng sinh lành tính tiền liệt tuyến 
kèm  theo  hoặc  xảy  ra  biến  chứng  chảy  máu. 
Theo  nghiên  cứu  của  Đàm  Văn  Cương  (1995), 
ngày điều trị ít nhất là 1 ngày, 4/270 bệnh nhân 
có số ngày điều trị > 5 ngày là do bị nhiễm trùng 
sau  tán  sỏi  chiếm  tỉ  lệ  1,48%.  Vũ  Hồng  Thịnh 
(2004), thời gian nằm viện trung bình là 2 ngày. 
Anil  Kumar  P.L  (2004)  thời  gian  nằm  viện  <  5 
ngày.  Nguyễn  Minh  Tuấn  và  cộng  sự  (2010), 
thời gian điều trị từ 1 – 5 ngày. 
Chỉ  duy  nhất  một  trường  hợp  chảy  máu 
bàng  quang  trong  lúc  tiến  hành  thủ  thuật  do 
trong lúc gấp sỏi gây trầy xước niêm mạc bàng 
quang, nhưng chúng tôi dùng máy đốt cầm máu 
kỹ  và  sau  thủ  thuật  cho  kết  quả  tốt.  Sau  hậu 
phẫu xảy ra biến chứng chảy máu lượng ít là 3 
bệnh nhân và không cần phải truyền máu. Theo 
Đàm Văn Cương (1995) có 26/270 bệnh nhân xảy 
ra biến chứng với tỉ lệ 9,63% gồm chảy máu nhẹ, 
nhiễm trùng, bí tiểu đều được xử trí bằng bơm 
rửa bàng quang và dùng kháng sinh 3 – 5 ngày. 
Anil  Kumar  P.L  (2004)  tất  cả  5  bệnh  nhân  trãi 
qua  mổ  tiền  liệt  tuyến  có  tiểu  máu  sau  phẫu 
thuật,  tự  giảm  xuống  không  cần  điều  trị. 
Nguyễn  Minh  Tuấn  (2010)  chảy  máu  lượng  ít 
sau 1 – 3 ngày nước tiểu tự trong, có 2/25 trường 
hợp (8%) phải đặt ống sonde 3 chạc rửa liên tục 
sau  3  ngày  bệnh  nhân  ổn  định,  nhiễm  trùng 
thường nhẹ, 4 trường hợp (16%) viêm đường tiết 


Chuyên Đề Thận ‐ Niệu 

Nghiên cứu Y học

niệu do u tuyến tiền liệt, 1 trường hợp (4%) viêm 
thận bể thận cấp ở trường  hợp  bệnh  nhân  có  5 
viên sỏi, thời gian thủ thuật kéo dài. 
Nhờ  máy  soi  bàng  quang  nên  sau  khi  tán 
sỏi, rửa, hút sỏi vụn, chúng tôi luôn soi kiểm tra 
lại  bàng  quang,  hết  sỏi  mới  kết  thúc  thủ  thuật. 
Nên đánh giá được kết quả ngay sau khi tán sỏi, 
cho phép hạn chế tai biến biến chứng, tuy nhiên 
có  1  trường  hợp  gây  chảy  máu  do  tổn  thương 
niêm mạc bàng quang trong lúc gấp sỏi, nhưng 
chúng tôi cầm máu kỹ và vẫn cho kết quả tốt. Và 
đã  đạt  được  kết  quả  thành  công  lấy  sỏi  hoàn 
toàn  và  không  có  biến  chứng  xảy  ra  sau  thủ 
thuật là 95,2%, biến chứng nhẹ sau thủ thuật xảy 
ra  ở  3  bệnh  nhân  chiếm  4,8%,  không  có  bệnh 
nhân nào có kết quả xấu, lấy không hết sỏi hoặc 
phải  chuyển  phương  pháp  khác.  Theo  nghiên 
cứu  của  Đàm  Văn  Cương  (1995)  kết  quả  tốt 
90,38%,  khá  5,18%,  trung  bình  4,44%,  không  có 
kết  quả  xấu.  Nghiên  cứu  của  Nguyễn  Minh 
Tuấn và cộng sự (2010), tán sỏi thành công 96%, 
thất bại 4%. 

KẾT LUẬN 
Tỉ lệ nam/nữ là 55/8, tuổi mắc bệnh 26 – 81 

tuổi, trung bình 51,17 tuổi. 
Triệu  chứng  thường  gặp  tiểu  khó  60,3%, 
tiểu  gắt  46%,  tiểu  lắt  nhắt  52,4%,  đau  hạ  vị 
27%, tiểu tắc giữa dòng 33,3%, bí tiểu 27%, cầu 
bàng quang 15,9%. 
Giá  trị  chẩn  đoán  của  soi  bàng  quang 
100%,  siêu  âm  87,7%  và  chụp  hệ  niệu  không 
chuẩn bị 67,3%. 
Kích thước sỏi thường gặp 1 – 2cm (76,2%), 
lớn nhất là 5cm. 88,7% có 1 viên sỏi, nhiều nhất 
là 7 viên. 
Nguyên nhân do tăng sinh lành tính tiền liệt 
tuyến 18,2%, hẹp cổ bàng quang 14,3%, hẹp niệu 
đạo 9,5%. 
Thời  gian  thủ  thuật  trung  bình  23,1  
(5 – 60) phút. 
Kết quả tốt 95,2%, trung bình 4,8%, không có 
kết quả xấu, không có tử vong. 

233


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013

TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.

2.


3.
4.

Đàm  Văn  Cương,  Trần  Quán  Anh,  Nguyễn  Kỳ  (1995),  Góp 
phần nghiên cứu điều trị sỏi bàng quang bằng phương pháp 
tán  sỏi  cơ  học,  luận  án  thạc  sỹ  khoa  học  y  –  dược,  học  viện 
quân y, Hà Nội. 
Đàm Văn Cương (2011), “nghiên cứu mô hình bệnh lý tiết niệu 
sinh dục tại bệnh viện đa khoa trung ương Cần Thơ”, tạp chí y 
học thực hành, 765(5), Bộ y tế (BYT) xuất bản, tr. 63‐65. 
Phạm Văn Lình, Đinh Thanh Huề(2010), Phương pháp nghiên 
cứu khoa học sức khỏe, nxb Đại học Huế. 
Nguyễn  Minh  Tuấn,  Nguyễn  Thị  Thuần,  Trần  Thị  Bích  Lan, 
Nguyễn  Thị  Hoa,  Hoàng  Nam  Phong,  Bùi  Văn  Bình(2011), 
“nhận xét 25 trường hợp kẹp sỏi bàng quang tại khoa thận – 
tiết niệu bệnh viện E TW từ tháng 11/2008 đến tháng 11/2010”, 
 

234

5.

tạp chí y học thực hành, số 769+770, hội nghị tiết niệu – thận 
học và tập huấn tiểu không tự chủ, Huế 2011, Nxb BYT, tr. 89‐
92. 
Vũ Hồng Thịnh, Nguyễn Minh Quang, Nguyễn Hoàng Đức, 
Trần  Lê  Linh  Phương,  Nguyễn  Tân  Cương(2005),  “lấy  sỏi 
bàng  quang  qua  đường  niệu  đạo  tại  bệnh  viện  đại  học  y 
dược”, tạp chí y học TP. HCM, tập 9, phụ bản số 1, tòa soạn 

tạp  chí  Y  học  TP.  HCM,  217  Hồng  Bàng,  P11,  Quận  5.  ĐT: 
8555616 – 8558411, tr. 108‐10. 

 

Ngày nhận bài báo 
 
 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 
Ngày bài báo được đăng: 
 

15‐05‐2013 
03‐06‐2013 
15–07‐2013 

 

Chuyên Đề Thận ‐ Niệu  



×