Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Đặc điểm viêm khớp thiếu niên tự phát kháng trị tại Bệnh Viện Nhi Đồng 2 từ 01/2008 đến 07/2013

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (258.39 KB, 6 trang )

Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

ĐẶC ĐIỂM VIÊM KHỚP THIẾU NIÊN TỰ PHÁT KHÁNG TRỊ  
TẠI BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG 2 TỪ 01/2008 ĐẾN 07/2013 
Nguyễn Thị Kim Yến*, Nguyễn Thị Thanh Lan* 

TÓM TẮT 
Mục tiêu: Xác định các đặc điểm dịch tễ học, lâm sàng, cận lâm sàng, điều trị và biến chứng của trẻ viêm 
khớp thiếu niên tự phát (VKTNTP) kháng trị. 
Phương  pháp  nghiên  cứu: Mô tả hàng loạt ca với 28 trường hợp VKTNTP kháng trị tại bệnh viện Nhi 
Đồng 2 TP.HCM từ tháng 01/2008 đến tháng 07/2013. 
Kết quả: Tỉ lệ kháng trị là 10,9%. Tỉ lệ nữ/nam là 1,8/1.Tuổi khởi bệnh trung bình 6,6 ± 2,9 tuổi và thời 
gian mắc bệnh trung bình 4,4 ± 2 năm. Số khớp viêm trung bình 10,7 ± 5,6 khớp, thường viêm các khớp lớn. Tất 
cả đều bị tổn thương xương trên Xquang. Phân nhóm điều trị theo theo ACR 2011: 50% viêm đa khớp, 35,7% 
thể hệ thống và 14,2% viêm khớp cùng chậu hoạt động; tất cả đều có yếu tố tiên lượng kém với hoạt tính bệnh từ 
trung bình đến nặng. 50% có khởi đầu dùng nhóm thuốc chống thấp thay đổi diễn tiến bệnh (DMARDs) trễ và 
tất cả đều phụ thuộc Corticoids với liều trung bình 0,99 ± 0,33mg/kg/ngày. 53,6% được chỉ định liệu pháp sinh 
học  (LPSH)  với  Tocilizumab  và  đạt  được  cải  thiện  theo  ACR‐Pedi  sau  3‐6  tháng.  Biến  chứng:  loãng  xương 
(82,1%), hội chứng Cushing (78,6%), biến chứng cơ xương khớp (71,4%), chậm tăng trưởng (71,4%), thiếu 
máu (57,1%), biến chứng mắt (32,2%), hội chứng thực bào máu (7,1%). 
Kết  luận:  VKTNTP kháng trị phần lớn thuộc thể hệ thống và thể đa khớp. Bệnh gây tổn thương xương 
khớp nặng với nhiều biến chứng toàn thân nguy hiểm. Về điều trị, tất cả bệnh nhân đều cần DMARDs phối hợp 
với các thuốc kháng viêm và bị lệ thuộc Corticoids với liều khá cao (0,99 ± 0,33mg/kg/ngày). Bệnh có đáp ứng với 
điều trị LPSH. 
Từ khóa: viêm khớp thiếu niên tự phát, kháng trị, liệu pháp sinh học 

ABSTRACT 
THE CHARACTERISTICS OF THERAPY‐RESISTANT JUVENILE IDIOPATHIC ARTHRITIS  
AT THE CHILDREN’S HOSPITAL 2 FROM 01/2008 TO 7/2013 


Nguyen Thi Kim Yen, Nguyen Thi Thanh Lan  
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 496 ‐ 501 
Objective:  To  characterize  the  epidemiological,  clinical,  laboratory  and  therapeutic  features  and 
complications of patients with therapy‐resistant juvenile idiopathic arthritis (JIA). 
Method: A case‐series study of 28 patients with therapy‐resistant JIA at Children’s Hospital 2 HCMC from 
01/2008 to 7/2013 
Results: The resistance rate was of 10.9 %. Female to male ratio was 1.8/1. The mean age at disease onset 
was 6.6 ± 2.9 year olds and the mean disease duration was 4.4 ± 2 years. Mean number of inflamed joints was 
10.7 ± 5.6 joints, often large affected joints. All cases were available in plain X‐rays of affected bones. Grouping 
by  ACR  2011  recommendations:  50%  polyarthritis  arthritis,  35.7%  systemic  arthritis  and  14.2%  active 
sacroiliac arthritis; all cases had features of poor prognosis with moderate to high disease activity. 50% cases were 
lately used disease modifying anti‐rheumatic drugs (DMARDs) at the beginning and all cases were corticoid‐

* Bộ môn Nhi, Đại học Y Dược Tp Hồ Chí Minh 
Tác giả liên lạc: BS. Nguyễn Thị Kim Yến, ĐT: 0989607817 

496

Email:  

Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 

Nghiên cứu Y học

dependent JIA with an average dose of 0.99 ± 0.33 mg/kg/day; 53.6% cases were used biological therapy with 
Tocilizumab and achieve ACR ‐ Pedi reponse after 3‐6 months. Complications: osteoporosis (82.1%), Cushing 
syndrome  (78.6%),  musculoskeletal  complications  (71.4%),  growth  retardation  (71.4%),  anemia  (57.1%),  eye 

complications (32.2%), macrophage activation syndrome (7.1%). 
Conclusion:  The  majority  of  therapy‐resistant  JIA  was  systemic  and  polyarticular  types.  This  disease 
caused  severe  osteoarthritis  with  dangerous  systemic  complications.  Regarding  treatment,  all  patients  were 
required the combination of DMARDs and anti‐inflammatory drugs and were corticoid‐dependent JIA with a 
high dose (0.99 ± 0.33 mg/kg/day). Patients may respond to biological therapy. 
Keywords: Juvenile idiopathic arthritis, therapy‐resistant, biological therapy. 

ĐẶT VẤN ĐỀ 
VKTNTP  là  bệnh  khớp  mạn  thường  gặp 
nhất  ở  trẻ  em  và  là  một  trong  những  nguyên 
nhân gây tàn phế cho trẻ. Tiên lượng chung của 
bệnh thường tốt, phần lớn có đáp ứng với thuốc 
kháng  viêm  không  Steroids  (NSAIDs),  nhất  là 
thể  ít  khớp.  Tuy  nhiên,  khoảng  5  –  10%  bệnh 
nhân, đặc biệt là thể hệ thống và thể đa khớp có 
biểu hiện kháng trị nghĩa là không đáp ứng với 
DMARDs  phối  hợp  với  các  thuốc  kháng  viêm 
hoặc có đáp ứng nhưng lệ thuộc Corticoids. Tiên 
lượng  của  nhóm  kháng  trị  nhìn  chung  còn  xấu 
với tỉ lệ tử vong và tàn tật cao do biến chứng của 
bệnh  và  các  tác  dụng  phụ  của  thuốc.  Trên  thế 
giới, LPSH đang là một bước tiến mới trong điều 
trị VKTNTP kháng trị(4,16). Tại Việt Nam, chưa có 
nghiên  cứu  về  nhóm  VKTNTP  kháng  trị,  việc 
điều trị còn gặp nhiều khó khăn. 

Tiêu  chuẩn  kháng  trị:  VKTNTP  được  coi  là 
kháng trị khi các triệu chứng của bệnh vẫn tồn 
tại hoặc tiến triển nặng hơn dù đã được điều trị 
với Methotrexate liều ≥10mg/m²/tuần và/hoặc lệ 

thuộc  Corticoids  (Prednisone  ≥0,25mg/kg/ngày) 
trong thời gian ≥ 6 tháng. 

Tiêu chí loại ra 
Các  bệnh  án  và  hồ  sơ  ngoại  trú  hồi  cứu 
không  có  đầy  đủ  thông  tin  theo  mẫu  bệnh  án 
soạn sẵn  
Bệnh nhân đã bỏ tái khám 

Thiết kế nghiên cứu 
Mô tả hàng loạt ca 

Cở mẫu 
Lấy trọn mẫu. 

Mục tiêu nghiên cứu 

Thu thập và xử lý số liệu 

Xác định các đặc điểm dịch tễ học, lâm sàng, 
cận lâm sàng, điều trị và biến chứng của nhóm 
trẻ VKTNTP có biểu hiện kháng trị tại bệnh viện 
Nhi Đồng 2 TP.HCM. 

Dữ  liệu  được  nhập  và  xử  lý  thống  kê  bằng 
phần mềm SPSS 11.5  

KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN 

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 


Tỉ lệ VKTNTP kháng trị 

Dân số chọn mẫu 

Tỉ  lệ  kháng  trị  là  10,9%;  tương  tự  ghi  nhận 
trong y văn cũng như các nghiên cứu khác trên 
thế giới là 5 ‐ 10%(4,6) . 

Tất  cả  trẻ  dưới  16  tuổi  nhập  viện  vào  khoa 
Tim  mạch  bệnh  viện  Nhi  Đồng  2  được  chẩn 
đoán VKTNTP có biểu hiện kháng trị từ 01/2008 
đến tháng 7/2013. 

Tiêu chí chọn mẫu 
Tiêu chí đưa vào 
Tiêu  chuẩn  chẩn  đoán  VKTNTP  theo  hội 
chống thấp quốc tế ILAR. 

Đặc điểm dịch tễ học 
Phần  lớn  bệnh  nhân  thuộc  thể  hệ  thống  và 
thể đa khớp. Đây là hai thể bệnh VKTNTP ít gặp 
nhưng  có  diễn  tiến  nặng  và  tỉ  lệ  kháng  trị  khá 
cao, phù hợp với ghi nhận trong y văn  (4) và các 
tác giả Kuo HC.(12), Alexeeva EI.(1).  Bệnh  nhân  nữ 
chiếm ưu thế với tỉ lệ nữ/nam = 1,8/1, tương tự 

Nhi Khoa

497



Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

với Kuo HC.(12) và Alexeeva EI.(1). Tuổi khởi phát 

Đặc điểm cận lâm sàng 

bệnh trung bình 6,6 ± 2,9 tuổi, cao hơn Alexeeva 

Công thức máu 
Bạch  cầu  trung  bình  là  14,6  ±  6,3  x 
1.000/mm³; tương đương Alexeeva EI. (14,7 ± 5,1 
x  1.000/mm³)(1).  64,3%  có  tăng  bạch  cầu  trong 
máu;  trong  đó,  có  28,6%  tăng  bạch  cầu  > 
10.000/mm³  và  35,7%  có  bạch  cầu  tăng  cao  > 
15.000/mm³. Tiểu cầu trung bình 494,6 ± 180,6 x 
1.000/mm³,  thấp  hơn  Alexeeva  EI.  với  tiểu  cầu 
trung bình là 611 ± 145 x 1.000/mm³(1). Tăng bạch 
cầu  và  tiểu  cầu  là  biểu  hiện  của  đáp  ứng  viêm 
trong giai đoạn cấp.  

EI. (4,9 tuổi)  và De Kleer IM. (3,9 tuổi) . Thời 
(1)

(6)

gian  từ  khi  khởi  phát  triệu  chứng  viêm  khớp 

đến  khi  được  chẩn  đoán  VKTNTP  trung  vị  là 
49,3 tuần, dài nhất là 240 tuần. Triệu chứng viêm 
khớp ở giai đoạn sớm đôi khi chỉ biểu hiện bằng 
sưng nhẹ hoặc đau nhẹ nên có thể bị bỏ qua dẫn 
đến  chẩn  đoán  thường  muộn.  Thời  gian  mắc 
bệnh tính từ lúc có triệu chứng viêm khớp đến 
hiện tại trung bình là 4,4 ± 2 năm. Trẻ VKTNTP 
kháng trị có thời gian mắc bệnh càng lâu thì tỉ lệ 
các  biến  chứng  do  bệnh  tiến  triển  nặng  và  do 
thuốc điều trị xảy ra càng cao(15).  

Đặc điểm lâm sàng 
Số khớp viêm 
Số  khớp  viêm  trung  bình  khi  bệnh  nhân 
kháng  trị  là  10,7  ±  5,6  khớp;  tương  đương  với 
Alexeeva  EI.  là  11,8  ±  2,4  khớp(1).  Điều  này  cho 
thấy các bệnh nhân VKTNTP kháng  trị  có  hoạt 
tính  bệnh  cao  kèm  với  số  lượng  khớp  tổn 
thương nhiều(2). Theo Flato số khớp tổn thương 
càng nhiều thì tiên lượng bệnh càng xấu(8). 
Vị trí khớp viêm 
Khớp  tổn  thương  thường  gặp  là  khớp  gối 
(78,6%),  khớp  cổ  chân  (64,3%),  khớp  cột  sống 
50%  và  khớp  háng  42,9%.  Tổn  thương  khớp 
thường có tính chất đối xứng hai bên, hầu hết 
có  tổn  thương  khớp  thân  trục.  Khác  với  ghi 
nhận trong y văn về nhóm VKTNTP thường bị 
viêm  các  khớp  lớn  ngoại  biên  và  thường 
không đối xứng(17). Tổn thương khớp đối xứng 
2  bên,  tổn  thương  khớp  thân  trục  là  các  dấu 

hiệu  tiên  lượng  kém  và  có  liên  quan  chặt  chẽ 
với mức độ tàn tật(8).  
Thời gian cứng khớp sáng 
75% bệnh nhân bị cứng khớp vào buổi sáng, 
trong  đó  có  9  bệnh  nhân  (chiếm  tỉ  lệ  32,1%)  bị 
cứng khớp buổi sáng > 2giờ. Cứng khớp sáng là 
dấu hiệu chứng tỏ bệnh còn hoạt tính. 

498

Tốc độ lắng máu 
VS  giờ  đầu  trung  bình  là  79,1  ±  18,1mm, 
cao hơn Alexeeva EI. với VS trung bình là 48 ± 
21,5mm(1).  42,9%  có  VS  tăng  vừa  50  –  100mm 
và 57,1% có VS tăng cao > 100mm. Tốc độ lắng 
máu  có  vai  trò  trong  việc  đánh  giá  hoạt  tính 
bệnh,  chọn  lựa  thuốc  điều  trị  đồng  thời  giúp 
theo dõi sự cải thiện hoạt tính bệnh trong quá 
trình điều trị. VS tăng cao, kéo dài có ý nghĩa 
tiên lượng kém và liên quan đến quá trình hủy 
xương khớp(15).  
Điện di đạm máu 
Đa số có xáo trộn miễn dịch với đảo ngược 
trị  số  A/G  và  sự  thay  đổi  một  hay  nhiều  thành 
phần  globulin,  thường  gặp  nhất  là  tăng  α2‐
globulin  (57,1%)  và  tăng  γ‐globulin  (26,9%). 
96,2%  có  giảm  albumin  máu.  Giảm  albumin 
máu thường do phản ứng viêm mạnh tiến triển 
hơn là do tình trạng dinh dưỡng của trẻ. Điện di 
đạm máu có giá trị khi tiến hành đồng thời với 

VS  để  đánh  giá  tình  trạng  tăng  đáp  ứng  miễn 
dịch và phản ứng viêm(4). 
Các đặc điểm về X quang khớp 
Tất  cả  đều  bị  tổn  thương  xương  với  nhiều 
mức  độ  khác  nhau:  100%  mất  vôi  xương  (18% 
mất vôi nặng), 39% hẹp khe khớp, 32% phá hủy 
đầu xương, 25% dính khớp và biến dạng khớp, 
18%  rối  loạn  tăng  trưởng  xương.  So  với  Van
Rossum MA.(18),  tỉ  lệ  rối  loạn  tăng  trưởng  xương 
của  chúng  tôi  ít  hơn  nhưng  tỉ  lệ  tổn  thương 
xương nặng cao hơn, có thể do mẫu bệnh nhân 

Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 
VKTNTP  kháng  trị  của  chúng  tôi  nặng  hơn  so 
với  mẫu  VKTNTP  của  Van Rossum MA.  và  thời 
gian  mắc  bệnh  trung  bình  trong  nhóm  của 
chúng tôi lâu hơn (4,4 năm so với 3,2 năm). 

Đặc điểm chẩn đoán 
Phân nhóm điều trị, đánh giá hoạt tính bệnh 
và yếu tố tiên lượng kém theo ACR 2011 
Năm  2011,  Hội  thấp  khớp  học  Mỹ  đưa  ra 
khuyến cáo ACR 2011 về điều trị bệnh VKTNTP 
theo  phân  nhóm  và  hoạt  tính  bệnh.  Trong  đó, 
mức độ hoạt tính bệnh và yếu tố tiên lượng kém 
được  nhấn  mạnh  như  là  một  chìa  khóa  thành 
công  cho  điều  trị(2).  Phân  nhóm  điều  trị  theo 

khuyến  cáo  của  ACR  2011:  50%  thuộc  nhóm 
viêm  ≥  5  khớp,  21,4%  thuộc  thể  hệ  thống  với 
viêm khớp hoạt động, 14,3% thuộc thể hệ thống 
với  hoạt  tính  bệnh  toàn  thân  và  14,2%  thuộc 
nhóm  viêm  khớp  cùng  chậu  hoạt  động.  Tất  cả 
đều có yếu tố tiên lượng kém với hoạt tính bệnh 
từ trung bình đến cao (28,6% có hoạt tính bệnh 
trung bình và 71,4% có hoạt tính bệnh cao). Như 
vậy, ngay từ đầu các bệnh nhân này đều đã cần 
được  theo  dõi  sát  và  điều  trị  tích  cực  với  can 
thiệp  sớm  DMARDs  để  tránh  phá  hủy  xương 
khớp dẫn đến tàn phế cũng như tránh các biến 
chứng nặng khác của bệnh.  
Phân  độ  chức  năng  vận  động  khớp  theo 
Steinbrocker 
42,9% ở giai đoạn II; 46,4% ở giai đoạn III và 
10,7% ở giai đoạn IV. Tỉ lệ tổn thương xương ở 
các giai đoạn nặng cao hơn  Cynthia  Savioli  với 
nghiên cứu trên nhóm bệnh nhân VKTNTP(5) và 
thấp  hơn  Liz  Wallin  với  nghiên  cứu  trên  bệnh 
nhân VKTNTP thể đa khớp. Điều này phù hợp 
với tiên lượng của thể đa khớp là có nguy cơ bị 
hủy xương nặng(4).  

Đặc điểm về điều trị 
Giai đoạn trước kháng trị 
Tất cả đều cần dùng NSAIDs trong quá trình 
bệnh  và  75%  còn  dùng  NSAIDs  cho  đến  thời 
điểm  kháng  trị  với  Ibuprofen  liều  trung  bình 
26,1  ±  5,9mg/kg/ngày.  Tất  cả  đều  bị  phụ  thuộc 

Corticoids toàn thân với liều khá cao, trung bình 

Nhi Khoa

Nghiên cứu Y học

là  0,99  ±  0,33mg/kg/ngày  cao  hơn  Baranov  AA. 
là  0,5mg/kg/ngày(3)  và  Femke  HM.  Prince  là 
0,33mg/kg/ngày(7).  Thời  gian  dùng  Corticoids 
trung  bình  21,5  ±  13,8  tháng.  Do  sử  dụng 
Corticoids  liều  cao  và  kéo  dài,  các  bệnh  nhân 
trong  nghiên  cứu  đều  bị  một  hoặc  nhiều  tác 
dụng  phụ  của  thuốc  này.  DMARDs  là  nhóm 
thuốc cần được chỉ định ngay trong các trường 
hợp  bệnh  có  hoạt  tính  cao  hay  có  yếu  tố  tiên 
lượng  kém(1).  50%  bệnh  nhân  có  thời  điểm  bắt 
đầu dùng DMARDs trễ do chẩn đoán xác định 
bệnh  trễ  và  không  được  đánh  giá  đầy  đủ  hoạt 
tính bệnh cũng như các yếu tố tiên lượng kém. 
DMARDs  được  sử  dụng  chủ  yếu  là 
Methotrexate  (MTX)  kế  đến  là  Sulfasalazine. 
Liều  MTX  uống  trung  bình  là  9,2  ± 
2,5mg/m²/tuần. 

Giai đoạn kháng trị 
14,2% được tăng liều Corticoids (uống hoặc 
truyền tĩnh mạch liều cao trong thời gian ngắn) 
và vẫn giữ nguyên thuốc điều trị cơ bản để tạm 
thời làm giảm hoạt tính bệnh. Phương pháp này 
đồng  thời  cũng  làm  tăng  tác  dụng  phụ  của 

Corticoids.  3,6%  được  tăng  liều  MTX  uống  từ 
liều 10mg/m²/tuần đến liều 12,5mg/m²/tuần. Tuy 
nhiên,  bệnh  nhân  vẫn  có  những  đợt  bệnh  tiến 
triển  nặng.  Đối  với  bệnh  nhân  này,  sau  khi  tối 
ưu hóa liều MTX mà vẫn không khống chế được 
hoạt  tính  bệnh  nặng  cần  xem  xét  điều  trị  sinh 
học. 50% được phối hợp hai DMARDs, chủ yếu 
là  phối  hợp  MTX  và  Sulfasalazine.  Tuy  nhiên, 
chỉ  có  2  bệnh  nhân  được  phối  hợp  DMARDs 
sớm có cải thiện triệu chứng; các bệnh nhân còn 
lại không đáp ứng với điều trị và vẫn có những 
đợt cấp với hoạt tính bệnh tiến triển nặng. LPSH 
là sử dụng các tác nhân chẹn hoặc tương tác với 
các chức năng của các cytokines hoạt động trong 
cơ chế bệnh sinh của VKTNTP. 53,6% bệnh nhân 
có điều kiện được dùng LPSH với thuốc kháng 
IL‐6  (Tocilizumab)  liều  từ  4  –  8mg/kg/tháng  và 
vẫn duy trì điều trị cơ bản với DMARDs. Sau 3 
tháng  điều  trị  với  Tocilizumab,  tỉ  lệ  cải  thiện 
theo  ACR‐Pedi  30,50,70  lần  lượt  là  92%,54%  và 
23%; ít hơn so với Baranov AA. và Imagawa T. 

499


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

có  thể  do  mẫu  nghiên  cứu  của  chúng  tôi  nặng 

hơn,  thời  điểm  được  dùng  LPSH  trễ  hơn  hoặc 
do liều lượng thuốc ít hơn(3,10). 

Đặc điểm về biến chứng 
Hội chứng thực bào máu là một biến chứng 
nặng,  đe  dọa  tính  mạng  các  bệnh  nhân 
VKTNTP, nhất là thể hệ thống. 2/10 bệnh nhân 
thể hệ thống bị biến chứng thực bào máu, chiếm 
tỉ lệ 20% tương đương với nghiên cứu của Kejian
Zhang (19,8%) và cao hơn ghi nhận trong y văn 
(7 ‐ 13%)(4,11). Một bệnh nhân không đáp ứng với 
phác  đồ  điều  trị  thực  bào  máu  thứ  phát  và  tử 
vong trong bệnh cảnh suy đa cơ quan. Biểu hiện 
của biến chứng thực bào máu gần giống với đợt 
tiến  triển  nặng  của  VKTNTP  thể  hệ  thống  nên 
cần  phải  cảnh  giác  biến  chứng  này  trước  khi 
nghĩ  đến  tiến  triển  nặng  của  bệnh.  71,4%  bị 
chậm tăng trưởng chiều cao, cao hơn Nikishina 
I.  và  Shapovalenko  A.  (40%  trong  số  170  trẻ 
VKTNTP có thời gian mắc bệnh trung bình là 5,1 
năm)(14).  Chậm  tăng  trưởng  chiều  cao  có  liên 
quan đến mức độ nặng, thời gian bị bệnh cũng 
như thời gian điều trị Corticoids. 57,1% bị thiếu 
máu,  tương  đương  nghiên  cứu  của  Alexeeva 
EI.(1). Thiếu máu ở trẻ VKTNTP do nhiều yếu tố 
kết hợp như thiếu sắt, tăng nồng độ IL‐6 gây cản 
trở phân phối sắt, sắt không được sử dụng, mất 
máu  mạn  ở  dạ  dày  ruột  do  dùng  thuốc  kháng 
viêm...  14,3%  bị  viêm  màng  bồ  đào,  cao  hơn 
Heiligenhaus  A.  là  12%  trong  nhóm  trẻ 

VKTNTP chung(9). 17,9% bị đục thủy tinh thể do 
sử dụng Corticoids liều cao, kéo dài. Các trẻ này 
đều  có  thời  gian  sử  dụng  Corticoids  >  2  năm. 
82,1%  bị  loãng  xương.  Theo  Cassidy  JT.  và 
Haughen M., loãng xương do  hậu  quả  của  quá 
trình  viêm  tiến  triển  không  được  kiểm  soát  tốt 
và  có  liên  quan  với  thời  gian,  liều  lượng 
Corticoids(4).  71,4%  bị  các  biến  chứng  liên  quan 
đến  cơ  xương  khớp  như  cứng  khớp,  teo  cơ 
quanh khớp, khác biệt chiều dài chi. Phòng ngừa 
cứng khớp, teo cơ bằng cách kiểm soát hoạt tính 
bệnh,  khống  chế  phản  ứng  viêm.  78,6%  bị  hội 
chứng Cushing; 28,6% bị tăng huyết áp; 3,6% bị 
suy  thượng  thận  cấp  do  sử  dụng  Corticoids.  4 

500

bệnh nhân bị tổn thương gan và 1 bệnh nhân bị 
viêm phổi kẽ khi dùng MTX. 2 bệnh nhân bị sốc 
phản vệ và 1 bệnh nhân bị dị ứng khi sử dụng 
Tocilizumab. 

KẾT LUẬN 
Tỉ  lệ  VKTNTP  kháng  trị  là  10,9%,  phần  lớn 
thuộc  thể  hệ  thống  và  thể  đa  khớp.  Bệnh  nhân 
nữ chiếm ưu thế với tỉ lệ nữ/nam là 1,8/1. Đây là 
nhóm  bệnh  có  phản  ứng  viêm  tăng  cao,  tổn 
thương xương khớp nặng với nhiều biến chứng 
toàn thân nguy hiểm do hoạt tính bệnh tiến triển 
và  do  thuốc  điều  trị.  Trước  khi  có  biểu  hiện 

kháng  trị,  tất  cả  bệnh  nhân  đều  cần  DMARDs 
phối  hợp  với  các  thuốc  kháng  viêm  và  bị  lệ 
thuộc  Corticoids  với  liều  khá  cao  (0,99  ± 
0,33mg/kg/ngày). Khi kháng trị, nhiều biện pháp 
điều  trị  đã  được  áp  dụng  như  tăng  liều 
Corticoids,  tối  ưu  hóa  liều  MTX,  phối  hợp  các 
DMARDs cổ điển… nhưng kết quả còn hạn chế. 
Bệnh có đáp ứng với LPSH, giúp cải thiện triệu 
chứng và giảm liều Corticoids đang lệ thuộc. 

TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.

2.

3.

4.

5.

6.

7.

8.

9.

Alexeeva EI (2011), “Efficacy and safety of repeat  courses  of 

Rituximab  treatment  in  patients  with  severe  refractory 
juvenile  idiopathic  arthritis”,  Clin  Rheumatol,  30,  pp.  1163‐
1235. 
American  College  of  Rheumatology  (2011),  “ACR  2011 
Recommendations  for  the  Treatment  of  Juvenile  idiopathic 
arthritis”, from: . 
Baranov  AA  (2011),  “Biologic  Therapy  in  Patients  with 
Juvenile  Idiopathic  Arthritis  –  A  Unique  Single  Centre 
Experience  at  the  Scientific‐Research  Pediatric  Centre  in  the 
Russian Federation”, Clin Rheumatol, 32, pp. 1153‐1175. 
Cassidy  JT  (2010),  “Chonic  arthritis”,  Textbook  of  pediatric 
rheumatology, 6th edition, Elsevier Saunders, Philadelphia, pp. 
221‐324. 
Cynthia S (2009), “Dental and facial characteristics of patients 
with juvenile idiopathic arthritis”, Rev. Bras. Reumatol, 49, pp. 
87‐112  
De Kleer IM (2004), “Autologous stem cell transplantation for 
refractory  juvenile  idiopathic  arthritis:  analysis  of  clinical 
effects,  mortality,  and  transplant  related  morbidity”,  Ann 
Rheum Dis, 63(2), pp. 1318‐1326. 
Femke  HM  (2009),  “Long‐term  effectiveness  and  safety  of 
Etanercept  in  Juvenile  Idiopathic  Arthritis”,  Annals  of  the 
Rheumatic Diseases, 68, pp. 635‐676. 
Flato  M  (2003),  “Prognostic  factors  in  juvenile  rheumatoid 
arthritis: a case‐conrtrol study revealing early predic‐tors and 
outcome after 14.9 years”, J Rheumatol, 30(3), pp. 386‐479. 
Heiligenhaus  A,  Niewerth  M,  Ganser  G,  et  al  (2007), 
“Prevalence  and  complications  of  uveitis  in  juvenile 
idiopathic  arthritis  in  a  population‐based  nation‐wide  study 


Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 

10.

11.

12.

13.
14.

in Germany: suggested modification of the current screening 
guidelines”, Rheumatology, 46(6), pp. 1015‐1024. 
Imagawa T, Ozawa R, Miyamae T, et al (2007), “Efficacy and 
safety in 48‐week treatment of  Tocilizumab  in  children  with 
polyarticular  course  juvenile  idiopathic  arthritis  with 
polyarticular or oligoarticular onset”, Ann Rheum Dis, 66, pp. 
550‐552. 
Kejian  Z  (2008),  “Macrophage  Activation  Syndrome  in 
Systemic  Juvenile  Idiopathic  Arthritis  is  Associated  With 
MUNC13‐4 Gene Polymorphisms”, Arthritis Rheum, 58(8), pp. 
2892‐2896.  
Kuo  HC,  Yu  HR,  Wu  CC,  Chang  LS,  Yang  KD  (2011), 
“Etanercept  treatment  for  children  with  refractory  juvenile 
idiopathic  arthritis”, J  Microbiol Immunol Infect,  44(9),  pp.  52‐
56. 
Liz  W  (2009),  “The  adult  patient  with  polyarticular  juvenile 

idiopathic arthritis”, Rev. Bras. Reumatol.,49, pp. 120‐132. 
Nikishina I and Shapovalenko A (2008), “Growth retardation 
in  patients  with  juvenile  idiopathic  arthritis  and  growth 
hormone therapy” Pediatric Rheumatology, 6, pp. 50‐51.  
 

Nhi Khoa

15.

16.

17.
18.

Nghiên cứu Y học

Ravelli A, Martini A (2003), “Early  predictors  of  outcome  in 
juvenile  idiopathic  arthritis”,  Clin Exp Rheumatol,  21,  pp.  89‐
93. 
Spiegel  LR  (2000),  “Early  predictors  of  poor  functional 
outcome  in  systemic‐onset  juvenile  rhematoid  arthritis:  a 
multicenter cohort study”, Arthritis Rheum, 4, pp. 2409‐2411. 
Taunton  RS  and  Ilona  SS  (2010),  “Juvenile  Idiopathic 
Arthritis”, ABC of Rheumatology, 2, pp. 85‐97. 
Van  Rossum  MA  (2003),  “Radiologic  features  in  juvenile 
idiopathic  arthritis:  a  first  step  in  the  development  of  a 
standardized  assessment  method”,  Arthritis  Rheum,  48,  pp. 
507‐522. 


 
Ngày nhận bài báo:  

 

 

01/11/2013 

Ngày phản biện nhận xét bài báo:  

05/11/2013 

Ngày bài báo được đăng:  

05/01/2014 

 

501



×