Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Giá trị tiên lượng của các cytokine TNF‐α, IL‐6, IL 10 ở bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết nặng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (484.71 KB, 8 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 

Nghiên cứu Y học

GIÁ TRỊ TIÊN LƯỢNG CỦA CÁC CYTOKINE TNF‐α, IL‐6, IL 10  
Ở BỆNH NHÂN NHIỄM KHUẨN HUYẾT NẶNG 
Phạm Thị Ngọc Thảo* 

TÓM TẮT 
Mở đầu: Một số cytokine như TNF‐α, IL‐6, IL‐10 là các chất trung gian điều hòa quan trọng trong sinh lý 
bệnh của nhiễm khuẩn huyết (NKH). Một số nghiên cứu về cytokine đã được công bố trên thế giới cho thấy giá 
trị của cytokine trong vai trò tiên lượng đối với những bệnh nhân NKH nặng và sốc nhiễm khuẩn (7). Ở nước ta 
việc định lượng và nghiên cứu giá trị tiên lượng các cytokine TNF‐α, IL‐6, IL‐10 trên bệnh nhân NKH nặng 
chưa được nghiên cứu sâu và có hệ thống. Vì thế chúng tôi thực hiện nghiên cứu này. 
Đối  tượng  và  phương  pháp  nghiên  cứu: Đối tượng nghiên cứu: bệnh nhân  ≥18 tuổi, được chẩn đoán 
NKH nặng dựa theo tiêu chuẩn của Hội nghị thống nhất các Hội hồi sức thế giới năm 2001(11) nhập khoa HSCC‐
BV Chợ Rẫy từ 12/2008 đến 12/ 2010. 
Phương pháp nghiên cứu: tiến cứu, cắt ngang, phân tích. Cỡ mẫu nghiên cứu cần tối thiểu 97 bệnh nhân. 
Bệnh nhân vào nghiên cứu được thu thập dữ liệu vào mẫu bệnh án nghiên cứu và lấy máu định lượng TNF‐α, 
IL‐6, IL‐10 ngay khi nhập HSCC, sau 2 giờ, sau 4 giờ và sau 24 giờ. Xử lý số liệu bằng phần mềm Stata 16.0. 
Kết quả: Có 123 bệnh nhân được đưa vào nghiên cứu. Điểm APACHE II: 23,3 ± 8,3 và SOFA: 10,6 ± 3,6. 
Tại tất cả thời điểm nghiên cứu, ở bệnh nhân NKH nặng, trung vị nồng độ của các cytokin TNF‐α, IL‐6, và IL‐
10 tăng cao hơn giá trị trung bình ở người bình thường. Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê khi so sánh trung vị 
nồng độ một số cytokin của hai nhóm bệnh nhân NKH nặng sống và tử vong tại các thời điểm: IL‐6 ở thời điểm 
T24; IL‐10 ở thời điểm T24. Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ thay đổi của nồng độ cytokin IL‐6 tại 
thời điểm T24 so với T0 giữa hai nhóm bệnh nhân NKH nặng sống và tử vong. Ngoài ra, tỷ lệ IL‐10/TNF‐α tại 
thời điểm T24 cũng có khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa 2 nhóm bệnh nhân NKH nặng sống và tử vong. Diện 
tích dưới đường cong (AUC) của nồng độ IL‐6, IL‐10, tỷ lệ IL‐10/TNF‐α huyết thanh giờ thứ 24 và tỷ lệ sai biệt 
của nồng độ IL‐6 huyết thanh giờ thứ 24 so với giờ T0 trong tiên lượng tử vong trên bệnh nhân nhiễm khuẩn 
huyết nặng đều ở mức > 0,70. Hầu hết chúng đều có độ nhạy cao, trên 80% và độ đặc hiệu khoảng 60%, giá trị 
tiên đoán dương và tiên đoán âm trong khoảng 70 – 80%. 


Kết  luận: Nồng độ IL‐6 huyết tương ở thời điểm T24  ≥ 97,6 pg/ml có khả năng tiên lượng tử vong trên 
bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết nặng với độ nhạy 82,1% và độ đặc hiệu 68%, diện tích dưới đường cong 0,746. 
Tương tự, nồng độ IL‐10 huyết tương ở thời điểm T24  ≥ 7,1 pg/ml có khả năng tiên lượng tử vong trên bệnh 
nhân nhiễm khuẩn huyết nặng với độ nhạy 88,1% và độ đặc hiệu 58,6%, diện tích dưới đường cong là 0,723. Tỷ 
lệ trung vị nồng độ IL‐10/TNF‐α giờ thứ 24 > 2,33 có khả năng tiên lượng tử vong trên bệnh nhân nhiễm khuẩn 
huyết nặng với độ nhạy 54,5% và độ đặc hiệu 79,3%, diện tích dưới đường cong 0,710. Nồng độ IL‐6 huyết 
thanh giờ thứ 24 giảm 0,81 lần so với thời điểm T0 có khả năng tiên lượng tử vong trên bệnh nhân nhiễm khuẩn 
huyết nặng với độ nhạy 86,4% và độ đặc hiệu 62,9%, diện tích dưới đường cong 0,775. 
Từ khóa: Nhiễm khuẩn huyết, cytokines 

* Bệnh viện Chợ Rẫy 
Tác giả liên lạc: TS.BSCKII. Phạm Thị Ngọc Thảo   ĐT: 0903628016 

 Email:   

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật – Bệnh Viện Chợ Rẫy ‐ Năm 2013

7


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013

Nghiên cứu Y học 
ABSTRACT 

PROGNOSTIC VALUE OF SERUM CONCENTRATIONS OF CYTOKINES TNF‐α, IL‐6, IL‐10 IN 
PATIENTS WITH SEVERE SEPSIS 
Pham Thi Ngoc Thao* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 2 ‐ 2013: 7 ‐ 14 
Introduction: Serum concentration of cytokines and balance of these inflammatory and anti‐inflammatory 
cytokines play an important role in pathophysiology of sepsis. This issue has been reported for recent years  in 

developed countries. However, that yet studied in Vietnam. Therefore, we applied Biochip Array Technology – 
EVIDENCE analyzer of Randox Laboratories Ltd, in measuring serum TNF‐α, IL‐6, and IL‐10 concentrations 
in  patient  with  severe  sepsis  and  revealed  the  relationship  between  those  concentrations  with  clinical 
characteristics, severity and outcome of patient with sepsis and septic shock. 
Patient and Method: Patient: From December 2008 to December 2010, adult patients with severe sepsis, 
admitted to ICU of Cho Ray Hospital, met the diagnosis criteria of ACCP/SCCM 2001 and had microbiological 
evidence will be recruited. Method: prospective, cross‐sectional observation study. Serum TNF‐α, IL‐6, and IL‐10 
will be quantified within the first 24 hours of admission. 
Result: Of 123 patients were diagnosed severe sepsis had been included, mean APACHE II score was: 21,75 
± 8,89; and SOFA score:12,67 ± 3,56. Serum concentrations of cytokines elevated in patient with severe sepsis. 
There was a significantly differences between serum cytokine concentrations of TNF‐α, IL‐6, IL‐10, and IL‐6/IL‐
10 and IL‐10/TNF‐α ratios in groups: patient with vs without septic shock, with vs without MODS and non‐
survivors vs survivors (p< 0.01; 0.01; 0.01 respectively). The ratio of IL‐10/TNF‐α ≥ 5 was related with mortality 
of patient with sepsis, OR = 1.40 (1.01 – 1.53), p= 0.004. Furthermore, the ratio of IL‐6/IL‐10 in non‐survivors 
(IL‐6/IL‐10 = 3.26) was 1.31 folds higher than that of survivors (IL‐6/IL‐10 = 2.48). 
Conclusion: Serum IL‐6 concentration at 24th hour (T24)  ≥ 97.6 pg/ml could predict mortality in patients 
with severe sepsis with a sensitivity of 82.1% and specificity 68%, AUC‐ROC was 0.746. Similarly, serum IL‐10 
concentration  at  24th  hour  (T24)  ≥  7.1  pg/ml  could  predict  mortality  in  patients  with  severe  sepsis  with  a 
sensitivity 88.1% and specificity 58.6%, AUC‐ROC 0.723. Median ratio of IL‐10/TNF‐α (T24) > 2.33 abled to 
predict mortality in patients with severe sepsis with a sensitivity of 54.5% and a specificity of 79.3%, area under 
the curve 0.710. The serum concentration of IL‐6 at T24 decreased as much as 0.81 times compared to that of T0 
had the ability to predict mortality in patients with severe sepsis with a sensitivity of 86.4% and a specificity of 
62.9%, area under the curve 0.775. 
Keywords: Sepsis, cytokines. 

ĐẶT VẤN ĐỀ 
Nhiễm khuẩn huyết (NKH) là nguyên nhân 
gây  tử  vong  hàng  đầu  ở  bệnh  nhân  bệnh  nặng 
dù được điều trị với các kháng sinh và các liệu 
pháp hồi sức hiện đại. Những hiểu biết mới về 

sinh học phân tử cytokin làm sáng tỏ hơn cơ chế 
bệnh  sinh  của  NKH,  trong  đó  có  vai  trò  của 
TNF‐α,  IL‐6,  IL‐10  là  các  chất  trung  gian  điều 
hòa  quan  trọng  trong  sinh  lý  bệnh  của  NKH. 
Một số nghiên cứu về cytokin đã được công bố 
trên  thế  giới  cho  thấy  giá  trị  của  cytokin  trong 
vai  trò  tiên  lượng  đối  với  những  bệnh  nhân 

8

NKH  nặng  và  sốc  nhiễm  khuẩn  (7).  Ở  nước  ta 
việc định lượng và nghiên cứu giá trị tiên lượng 
các  cytokin  TNF‐α,  IL‐6,  IL‐10  trên  bệnh  nhân 
NKH nặng chưa được nghiên cứu sâu và có hệ 
thống.  Vì  thế  chúng  tôi  thực  hiện  nghiên  cứu 
này. 

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Tiêu chuẩn chọn bệnh 
Bệnh nhân ≥18 tuổi, được chẩn đoán nhiễm 
khuẩn huyết nặng dựa theo tiêu chuẩn của Hội 
nghị  thống  nhất  các  Hội  Hồi  sức  thế  giới  năm 

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật – Bệnh Viện Chợ Rẫy ‐ Năm 2013 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 
2001(11)  và  có  bằng  chứng  vi  sinh,  nhập  khoa 
HSCC‐BVCR  từ  tháng  12/2008  đến  tháng 

12/2010. 

Tiêu chuẩn loại trừ 
Phụ nữ có thai, có ngưng tim trước khi vào 
khoa  HSCC,  ung  thư,  suy  thận  mạn  giai  đoạn 
cuối,  xơ  gan  Child  C.  Bệnh  nhân  không  được 
thực hiện xét nghiệm đo (cytokin) máu liên tiếp 
trên 2 thời điểm nghiên cứu. 

đưa  ra  từ  năm  1992  và  được  sử  dụng  trong  y 
văn cho đến nay (11).  

 KẾT QUẢ 
Đặc  điểm  chung  của  bệnh  nhân  vào 
nghiên cứu 
Bảng 1. 
Số bệnh nhân
Tuổi (năm)
Nam / nữ
Thời gian nằm viện (ngày)
Điểm APACHE II trung bình

Phương pháp nghiên cứu 
Tiến  cứu,  cắt  ngang,  phân  tích.  Cỡ  mẫu 
nghiên  cứu  cần  tối  thiểu  97  bệnh  nhân.  Bệnh 
nhân vào nghiên cứu được thu thập dữ liệu vào 
mẫu bệnh án nghiên cứu và lấy máu định lượng 
TNF‐α,  IL‐6,  IL‐10  ngay  khi  nhập  HSCC,  sau  2 
giờ, sau 4 giờ và sau 24 giờ. Xử lý số liệu bằng 
phần mềm Stata 16.0. 


Các  tiêu  chuẩn  áp  dụng  trong  lô  nghiên 
cứu 
Tiêu chuẩn chẩn đoán NKH, NKH nặng đã 
được  Hội  Hồi  sức  và  Hội  Thầy  thuốc  Hoa  Kỳ 

Nghiên cứu Y học

Điểm SOFA trung bình
Tỷ lệ tử vong

123
58,2 ± 18,8
62 / 61
11 (5 ; 20)
23,3 ± 8,3
10,6 ± 3,6
75/123 (61%)

Tỉ  lệ  mắc  và  tử  vong  theo  ngõ  vào  nhiễm 
khuẩn huyết 
Bảng 2. 
Đường vào
Tiêu hóa
Hô hấp
Niệu dục
Da
Cơ xương
Không rõ


Tỉ lệ mắc
56,1%
21,1%
7,3%
6,5%
1,6%
7,3%

Tỉ lệ tử vong
66,7%
61,5%
44,4%
25,0%
50,0%
66,7%

Kết quả cấy máu ở bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết 

 
Biểu đồ 1 

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật – Bệnh Viện Chợ Rẫy ‐ Năm 2013

9


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013

Nghiên cứu Y học 


Tỉ  lệ  RLCN  và  tỉ  lệ  tử  vong  theo  từng  cơ 
quan 
Bảng 3 
Cơ quan
Tuần hoàn
Hô hấp
Thận
Tiêu hóa
Thần kinh
Huyết học

Tỉ lệ RLCN chức năng
88,6%
83,7%
69,9%
49,6%
41,5%
33,3%

Tỉ lệ tử vong
62,4%
69,9%
65,1%
60,7%
78,4%
61,0%

Các yếu tố lâm sàng liên quan tử vong 
Tử vong


Còn sống

P

Thời gian nằm viện (ngày) 12,7 ± 15,4 21,5 ± 13,8 0,002
Điểm APACHE II
(trung bình ± SD)
Điểm SOFA
(trung bình ± SD)

26, 6 ± 7,9 18,0 ± 5,8 <0,001
11,6 ± 3,6

Số cơ quan RLCN

4±1

Tử vong

Còn sống

pH

7,28 ± 0,14

7,33 ± 0,11

0,037

PaCO2 (mmHg)


33,5 ± 9,3

35,6 ± 7,8

0,213

PaO2 (mmHg)

129,9 ± 99,6

120,4 ±
79,3

0,581

HCO3 (mmol/L)

16,4 ± 5,8

19,0 ± 4,4

0,008

CRP (mg/l)

122,4 ± 60,8

Procalcitonin (ng/dl)


54,4 ± 91,4

Lactate máu

47,6 ± 38,7

123,3 ±
45,7
42,5 ±
109,8
36,2 ± 23,4

0,931
0,159
0,594

Diện  tích  dưới  đường  cong  của  biến  số  trong 
tiên lượng tử vong bn NKH nặng 
Bảng 6. 
APACHE II

AUC Điểm Độ Độ đặc PPV NPV
cắt nhạy hiệu
0,810 >25 57,3% 97,9% 97,7% 59%

SOFA

0,703 >10 64,9% 68,1% 76,2% 55,2%

9,1 ± 2,9 <0,001

3±1

P

Giá  trị  các  yếu  tố  lâm  sàng,  cận  lâm  sàng 
trong tiên lượng bn NKH nặng 

Bảng 4. 
Thông số

CLS

<0,001

Các  yếu  tố  cận  lâm  sàng  liên  quan  đến  tử 
vong  

Số cơ quan 0,668
RLCN

>3

65,3% 62,5% 73,1% 53,6%
AUC

Bảng 5. 
CLS

Tử vong


Hb (g/dl)

Còn sống

P

11,0 ± 2,6

11,3 ± 2,3

0,460

BC (K/mm )

18,1 ± 13,2

20,6 ± 14,2

0,337

TC (K/mm3)

193 ± 134

164 ± 126

0,249

3


Đường huyết (mg/dl)

138,6 ± 77,8

129,3 ±
80,8

0,547

BUN (mg/dl)

45,9 ± 25,1

35,7 ± 21,6

0,019

Creatinin (mg/dl)

2,47 ± 1,62

1,97 ± 1,45

0,08

Bilirubin (mg/dl)

3,34 ± 4,62

2,40 ± 2,44


0,168

PT

18,6 ± 10,0

16,9 ± 5,4

0,273

aPTT

42,9 ± 20,8

35,9 ± 9,4

0,018

CRP

0,528

Procalcitonin

0,604
AUC

Điểm cắt


Độ nhạy Độ đặc hiệu

BUN

0,611

>30

72%

53,2%

Creatinin máu

0,562

>1,8

56%

66%

pH máu động
mạch
HCO3

0,632

≤ 7,22


33,8%

90,5%

0,670

≤ 16,8

62%

72,3%

aPTT

0,592

> 36,8

50,7%

66,7%

Giá trị của một số cytokin trợ viêm và kháng viêm  (TNF‐α,  IL‐6,  IL‐10)  trong  tiên lượng 
bệnh nhân NKH nặng 
TNF‐α, IL‐6, IL‐10 các thời điểm nc giữa nhóm bn NKH nặng sống và tử vong 
Bảng 7 
Cytokin

TNF-α
(bình thường:<11pg/ml )


10

SỐNG

TỬ VONG

Thời
điểm

N

Trung vị

N

Trung vị

Giá trị p
(Mann-Whitney test)

T0

43

12,035

70

12,600


0,212

T2

39

9,760

68

12,930

0,070

T4

36

7,980

66

13,700

0,054

T24

32


7,575

46

9,595

0,293

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật – Bệnh Viện Chợ Rẫy ‐ Năm 2013 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 
SỐNG

TỬ VONG

Nghiên cứu Y học

Thời
điểm

N

Trung vị

N

Trung vị


Giá trị p
(Mann-Whitney test)

T0

43

413,290

71

530,000

0,339

T2

39

266,780

68

530,000

0,079

T4

36


244,730

66

530,000

0,056

T24

32

65,395

46

286,860

0,002

T0

42

40,190

70

50,800


0,556

T2

39

35,080

68

37,690

0,660

T4

36

19,440

66

33,820

0,159

T24

32


5,700

46

18,385

< 0,001

27

-5,550

44

-0,220

0,028

IL-10

T24 so
với T0

27

-5,480

44


-0,650

0,101

Tỷ lệ IL-6/IL-10

T24

32

0,740

46

2,665

0,465

Tỷ lệ IL-10/TNF

T24

32

16,805

46

9,495


< 0,001

Cytokin

IL-6
(bìnhthường:<1,23pg/ml)

IL-10
(bình thường:<1,9pg/ml)

IL-6

Diện  tích  dưới  đường  cong  của  các  nồng 
độ  cytokin  trong  tiên  lượng  tử  vong  trên 
bệnh nhân NKH nặng 
Bảng 8. 
AU
C

95% CI

Độ
Điểm Độ
đặc PPV NPV
cắt nhạy
hiệu

IL-6_T24

0,7

21

0,602 0,821

> 84,8 59,4 75,0 73,1
97,6 %
% % %

IL-10_T24

0,7
66

0,651 0,859

> 7,1

IL-10 /TNF
(T24)

0,7
19

0,606 0,815

> 82,6
71,7 68,0
53%
0,73 %
% %


IL-6 T24 so
với T0

0,7
75

0,661 0,866

> - 86,4 62,9 79,2 73,9
0,81 %
% % %

89,1 59,4 75,9 79,2
%
% % %

trung bình lần lượt là 69 ± 17 tuổi, 27,2 ± 10,4, 8 ± 
1,4  điểm(13).  Có  sự  khác  biệt  đáng  kể  về  điểm 
SOFA giữa nhóm bệnh nhân còn sống và nhóm 
tử  vong  (9,1  so  với  11,6  điểm,  với  p  <  0,001). 
Điểm  SOFA  có  khả  năng  tiên  đoán  tử  vong  ở 
bệnh nhân NKH nặng, với AUC khoảng 0,71. 

Về ngõ vào của NKH 
Nhiễm  khuẩn  từ  đường  tiêu  hóa  và  từ 
đường hô hấp dưới thường gặp nhất với tỷ lệ tử 
vong  lần  lượt  là  66,7%  và  61,5%.  Kết  quả  này 
tương  tự  nghiên  cứu  của  Phạm  Lưu  Nhất 
Hoàng,  phổi  và  dạ  dày  ruột  là  hai  ngõ  vào 

thường  gặp  nhất,  phổi  chiếm  87,85%,  dạ  dày– 

BÀN LUẬN 

ruột chiếm 12,15%(13). Theo báo cáo EPIC II (năm 

Đặc  điểm  lâm  sàng  và  cận  lâm  sàng  của 
bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết nặng 

2009),  phân  tích  dữ  liệu  từ  13.796  bệnh  nhân  ở 

Đặc điểm chung 
123 bệnh nhân vào nghiên cứu có tuổi trung 
bình  58,2  ±  18,8;  Tỉ  lệ  nam/nữ  #  1/1.  Thời  gian 
nằm viện là 15,9 ± 15,4 ngày. Bệnh nhân có điểm 
APACHE II > 25 có tỷ lệ tử vong rất cao (95,6%) 
so  với  nhóm  APACHE  II  ≤  25  (p=0,001).  Điểm 
APACHE II có khả năng phân tách khá tốt trong 
tiên đoán tử vong ở bn NKH nặng. Kết quả của 
chúng  tôi  tương  tự  nghiên  cứu  của  Phạm  Lưu 
Nhất  Hoàng  tại  khoa  HSCC  bệnh  viện  Nhân 
Dân Gia Định, tuổi, điểm APACHE II và SOFA 

137  khoa  HSCC  của  châu  Á),  cho  thấy  tỷ  lệ 

1.265  khoa  HSCC  của  75  quốc  gia  (trong  đó  có 
nhiễm khuẩn ở các khoa HSCC châu Á là 56,6% 
và  ngõ  vào  từ  đường  hô  hấp  chiếm  hàng  đầu 
(65,6%)(1).  
Tình  trạng  RLCN  đa  cơ  quan  ở  bệnh  nhân 

NKH  nặng  trong nghiên cứu của  chúng  tôi  có 
82,1%  bệnh  nhân  có  biểu  hiện  RLCN  đa  cơ 
quan,  trung  bình  số  cơ  quan  RLCN  là  3,53  ± 
0,12,  tương  đồng  với  báo  cáo  của  các  tác  giả 
trong và ngoài nước: 

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật – Bệnh Viện Chợ Rẫy ‐ Năm 2013

11


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013

Nghiên cứu Y học 
Bảng 9: 
Các nghiên cứu cơ quan bị RLCN
Hô hấp
Tuần hoàn
Gan
Thần kinh
Thận
Huyết học

SOAP (20)
26,3– 34,5
34,3– 42,3
27,5– 45,1
40,6– 43,9
22,5– 41,2
35,4– 52,9


Tỷ lệ tử vong (%) theo hệ cơ quan bị RLCN
CUB-Réa (40
ChengB (3)
TN Hải (17)
97,0
51,4
67,53
90,7
76,3
66,67
(không đánh giá)
61,0
63,79
19,6
63,6
58,93
57,6
75,8
58,00
5,6
58,5
53,49

Đặc điểm về cận lâm sàng 
Về xét nghiệm huyết học 
Kết  quả  nghiên  cứu  cho  thấy  ở  bệnh  nhân 
NKH nặng, số lượng bạch cầu máu tăng cao so 
với  người  bình  thường,  tuy  nhiên  không  có  sự 
khác biệt có ý nghĩa thống kê của số lượng bạch 

cầu máu tăng giữa nhóm bn sống và tử vong. 
Về xét nghiệm sinh hóa máu (bảng 6) 
Nồng  độ  BUN  và  creatinin/máu:  nồng  độ 
BUN  và  creatinin/máu  của  bệnh  nhân  vào 
nghiên  cứu  là  41,9  ±  24,2  mg%  và  2,28  ±  1,57 
mg%, là cao so với giá trị bình thường và cao so 
với  báo  cáo  của  LTD  Tuyết  (có  nồng  độ 
creatinin/máu  là  1,63  ±  0,9  mg%)(8).  Theo  nhóm 
nghiên  cứu  BEST  Kidney,  khảo  sát  ở  54  khoa 
HSCC của 23 quốc gia, tỷ lệ tử vong chung của 
suy  thận  cấp  là  60,2%  và  sốc  nhiễm  khuẩn  là 
nguyên nhân gây suy thận cấp thường gặp nhất 
(chiếm 48%)(16).  
Nồng  độ  CRP,  Procalcitonin  trong  huyết 
tương  bệnh  nhân  nhiễm  khuẩn  huyết  nặng  vào 
nghiên  cứu  tăng  cao,  với  nồng  độ  CRP  trung 
bình  là  122,7  mg/l  và  nồng  độ  procalcitonin 
trung bình là 49,8 ng/ml. Không có sự khác biệt 
có ý nghĩa thống kê giữa nhóm bệnh nhân sống 
và tử vong với p lần lượt là 0,931 và 0,159. Kết 
quả  của  chúng  tôi  phù  hợp  với  kết  quả  nghiên 
cứu của Nguyễn Nghiêm Tuấn, Hà Tấn Đức về 
giá trị của CRP và Procalcitonin cho thấy có giá 
trị  chẩn  đoán  tốt  tình  trạng  nhiễm  khuẩn,  tuy 
nhiên, giá trị tiên đoán tử vong thấp(1,8).  
Nồng độ  Lactate máu  động  mạch,  Nồng độ 
Lactate  máu  của  bệnh  nhân  NKH  nặng  vào 
nghiên cứu của chúng tôi tăng rất cao 43,6 ± 34,4 
mmol/L; đồng thời nồng độ pH máu giảm (7,302 


12

Chúng tôi
69,9
62,4
60,7
78,4
65,1
61,0

± 0,131) và nồng độ HCO3 máu giảm (17,4 ± 5,4 
mmol/L)  chứng  tỏ  tình  trạng  toan  chuyển  hóa 
đã  rất  nghiêm  trọng.  Không  có  khác  biệt  có  ý 
nghĩa  thống  kê  về  nồng  độ  lactate  máu  giữa 
nhóm bn còn sống và tử vong. Theo H.N Bryant, 
nếu bệnh lý diễn tiến đã vào giai đoạn muộn thì 
tiên lượng tử vong rất cao(10). 
Kết  quả  phân  tích  khí  máu  động  mạch  cho 
thấy:  các  thông  số  pH  máu,  PaO2,  PaCO2  và 
HCO3‐ ở bệnh nhân NKH nặng vào nghiên cứu 
thay  đổi  theo  hướng  toan  chuyển  hóa,  với  pH 
trung bình 7,302; HCO3‐ là 17,4 mmol/l, khác biệt 
có ý nghĩa thống kê giữa bệnh nhân còn sống và 
tử vong với p< 0,05. 

Về xét nghiệm vi sinh 
Trong  nghiên  cứu  của  chúng  tôi,  tỷ  lệ  cấy 
máu  dương  tính  là  37/109  trường  hợp 
(=33,9%),  tương  tự  với  một  số  báo  cáo 
khác(5,9,14,15,20).  Vi  khuẩn  gram  âm  chiếm  tỷ  lệ 

nhiều hơn vi khuẩn gram dương, Acinetobacter 
chiếm tỷ lệ cao nhất (27,0%). 

Giá trị tiên lượng của các cytokin TNF‐α, IL‐6 
và  IL‐10  ở  bệnh  nhân  nhiễm  khuẩn  huyết 
nặng 
Đặc điểm về nồng độ TNF‐α, IL‐6, IL‐10 ở bn 
NKH nặng vào nghiên cứu, Tham khảo y văn và 
kết  quả  các  nghiên  cứu  trong  và  ngoài  nước, 
chúng tôi đã chọn các thời điểm: lúc bệnh nhân 
NKH nặng đủ tiêu chuẩn được chọn vào nghiên 
cứu (T0), tiếp đó 2 giờ sau (T2), 4 giờ sau (T4) và 
24 giờ sau (T24) để đo nồng độ và nhận thấy:  
Tại tất cả thời điểm nghiên cứu, ở bệnh nhân 
NKH  nặng,  trung  vị  nồng  độ  của  các  cytokin 
TNF‐α, IL‐6, và IL‐10 tăng cao hơn giá trị trung 
bình ở người bình thường. 

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật – Bệnh Viện Chợ Rẫy ‐ Năm 2013 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 

Nghiên cứu Y học

Có  sự  khác  biệt  có  ý  nghĩa  thống  kê  khi  so 
sánh  trung  vị  nồng  độ  một  số  cytokin  của  hai 
nhóm bệnh nhân NKH nặng sống và tử vong tại 
các thời điểm: IL‐6 ở thời điểm T24; IL‐10 ở thời 
điểm T24 (bảng 7).  


Tương tự, nồng độ IL‐10 ở thời điểm T24 tăng 
trên  7,1  pg/ml  có  khả  năng  tiện  lượng  tử  vong 
trên bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết nặng với độ 
nhạy 88,1% và độ đặc hiệu 58,6%, diện tích dưới 
đường cong là 0,723.  

Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ 
thay  đổi  của  nồng  độ  cytokin  IL‐6  và  IL‐10  tại 
thời điểm T24 so với T0 giữa hai nhóm bệnh nhân 
NKH nặng sống và tử vong. 

Tỷ  lệ  nồng  độ  IL‐10/TNF‐α  huyết  tương  ở 
thời  điểm  T24  tăng  trên  2,33  có  khả  năng  tiên 
lượng tử vong trên bệnh nhân NKH nặng với độ 
nhạy 54,5% và độ đặc hiệu 79,3%, diện tích dưới 
đường cong là 0,710.  

Ngoài ra, tỷ lệ IL‐10/TNF‐α tại thời điểm T24 
cũng  có  khác  biệt  có  ý  nghĩa  thống  kê  giữa  2 
nhóm bệnh nhân NKH nặng sống và tử vong. 

Liên  quan  giữa  nồng  độ  các  cytokin  TNF‐
α,  IL‐6  và  IL‐10  với  tiên  lượng  trên  bệnh 
nhân NKH nặng 
Nồng độ IL‐6 ở thời điểm T24 > 97,6 pg/ml có 
khả năng tiên lượng tử vong trên BN NKH nặng 
với độ nhạy 82,1% và độ đặc hiệu 68%, diện tích 
dưới đường cong là 0,746.  
Mặt khác, nồng độ IL‐6 huyết tương giờ thứ 

24 so với thời điểm T0 giảm 4,28 lần có khả năng 
tiên  lượng  tử  vong  trên  bệnh  nhân  NKH  nặng 
với  độ  nhạy  84,2%  và  độ  đặc  hiệu  66,7%,  diện 
tích dưới đường cong 0,782 (Bảng 8) 

Diện  tích  dưới  đường  cong  của  IL‐6  giờ 
thứ  24  trong  tiên  lượng  tử  vong  qua  các 
nghiên cứu 
Bảng 10 
Các nghiên cứu
Pettilä – 2002(16)
Bozza – 2007(11)
Tschaikowsky –
2011(19)
Chúng tôi - 2011

Độ tin cậy Giá trị
95%
p
61 0,799
0,001
60 0.684 0.548–0.820 0,014
n

AUC

67 0,700

-


0,001

78 0,746 0,578 - 0,792 0,0001

Kết quả của chúng tôi tương tự các nghiên 
cứu khác, giá trị AUC của IL‐6 ở thời điểm T24 
là  khoảng  0,7  –  0,8  cho  thấy  khả  năng  phân 
biệt  khá  tốt.  Theo  nghiên  cứu  của  chúng  tôi, 
điểm cắt của IL‐6, IL‐10 thời điểm 24 giờ, tỉ số 
sai  biệt  giữa  IL‐6  ở  thời  điểm  24  giờ  so  với  0 
giờ, tỉ số IL‐10/TNF‐α lần lượt là > 97,6 pg/ml; 
> 7,1 pg/ml; > ‐4,28 và > 2,33. 

KẾT LUẬN 
Qua kết quả nghiên cứu trên 123 bệnh nhân 
NKH  nặng  tại  khoa  HSCC  Bệnh  viện  Chợ  Rẫy 
có  tuổi  trung  bình  58,2  ±  18,8  tuổi,  điểm 
APACHE II là 23,3 ± 8,3 và SOFA là 10,6 ± 3,6. 
Tỷ  lệ  tử  vong  chung  là  61%.  Tỷ  lệ  sốc  nhiễm 
khuẩn  là  88,6%,  RLCN  đa  cơ  quan  chiếm  tỷ  lệ 
82,1%. RLCN tuần hoàn và hô hấp là hai hệ gặp 
nhiều  nhất.  Chúng  tôi  rút  ra  kết  luận  về  giá  trị 
tiên lượng của TNF‐α, IL‐6 và IL‐10  ở  bn  NKH 
nặng như sau: 
Nồng độ IL‐6 huyết tương ở thời điểm T24 ≥ 
97,6 pg/ml có khả năng tiên lượng tử vong trên 
bệnh  nhân  nhiễm  khuẩn  huyết  nặng  với  độ 
nhạy 82,1% và độ đặc hiệu 68%, diện tích dưới 
đường cong 0,746.  
Tương tự, nồng độ IL‐10 huyết tương ở thời 

điểm T24 ≥ 7,1 pg/ml có khả năng tiên lượng tử 
vong  trên  bệnh  nhân  nhiễm  khuẩn  huyết  nặng 
với  độ  nhạy  88,1%  và  độ  đặc  hiệu  58,6%,  diện 
tích dưới đường cong là 0,723. 
Tỷ lệ trung vị nồng độ IL‐10/TNF‐α giờ thứ 
24  >  2,33  có  khả  năng  tiên  lượng  tử  vong  trên 
bệnh  nhân  nhiễm  khuẩn  huyết  nặng  với  độ 
nhạy 54,5% và độ đặc hiệu 79,3%, diện tích dưới 
đường cong 0,710. 
Nồng  độ  IL‐6  huyết  thanh  giờ  thứ  24  giảm 
0,81  lần  so  với  thời  điểm  T0  có  khả  năng  tiên 
lượng  tử  vong  trên  bệnh  nhân  nhiễm  khuẩn 
huyết  nặng  với  độ  nhạy  86,4%  và  độ  đặc  hiệu 
62,9%, diện tích dưới đường cong 0,775. 

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật – Bệnh Viện Chợ Rẫy ‐ Năm 2013

13


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013

Nghiên cứu Y học 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.

2.

3.


4.

5.

6.

7.

8.

9.

10.

11.

14

Afessa B, Gajic O, Keegan M T (2007), ʺSeverity of illness and 
organ  failure  assessment  in  adult  intensive  care  unitsʺ.  Crit 
Care Clin, 23(3), 639‐658. 
Bozza  F  A,  Salluh  J  I,  Japiassu  A  M,  Soares  M,  Assis  E  F, 
Gomes  R  N,  et  al.  (2007),  ʺCytokine  profiles  as  markers  of 
disease  severity  in  sepsis:  a  multiplex  analysisʺ.  Crit  Care, 
11(2), R49. 
Cheng  B,  Xie  G,  Yao  S,  Wu  X,  Guo  Q,  Gu  M,  et  al.  (2007), 
ʺEpidemiology of severe sepsis in critically ill surgical patients 
in  ten  university  hospitals  in  Chinaʺ.  Crit  Care  Med,  35(11), 
2538‐2546. 
Guidet  B,  Aegerter  P,  Gauzit  R,  Meshaka  P,  Dreyfuss  D 

(2005),  ʺIncidence  and  impact  of  organ  dysfunctions 
associated with sepsisʺ. Chest, 127(3), 942‐951. 
Hà  Mạnh  Tuấn  (1992),  Góp  phần  nghiên  cứu  nhiễm  khuẩn 
huyết tại bệnh viện Nhi Đồng 1, Luận văn tốt nghiệp bác sĩ 
nội trú chuyên ngành Nhi, 56‐72. 
Hà  Tấn  Đức  (2006),  Giá  trị  tiên  lượng  của  nồng  độ 
procalcitonin máu trong 72 giờ đầu nhập viện trên bệnh nhân 
viêm phổi nặng, Luận văn thạc sĩ y học, ĐHYD TP.HCM, 50‐
80. 
Kibe  S,  Adams  K,  Barlow  G  (2011),  ʺDiagnostic  and 
prognostic biomarkers of sepsis in critical careʺ. J Antimicrob 
Chemother, 66 Suppl 2, ii33‐40. 
Lê Thị Diễm Tuyết, Trần Minh Tuấn, Nguyễn Gia Bình và cs 
(2007), ʺĐánh giá tác dụng của lọc máu liên tục trong điều trị 
suy đa tạng tại khoa Điều trị tích cực ‐ Bệnh viện Bạch Maiʺ. Y 
Học Lâm Sàng(4), 39‐ 43. 
Lê Thị Thu Thảo (2001), ʺMột số đặc điểm về dịch tễ học, lâm 
sàng và vi trùng học của nhiễm khuẩn huyết gram âmʺ. Y học 
thực hành(2), 6‐11. 
Nguyen H B, Kuan W S, Batech M, Shrikhande P, Mahadevan 
M, Li C H, et al. (2011), ʺOutcome effectiveness of the severe 
sepsis resuscitation bundle with addition of lactate clearance 
as  a  bundle  item:  a  multi‐national  evaluationʺ.  Crit  Care, 
15(5), R229. 
Nguyễn Nghiêm Tuấn (2008), Vai trò của procalcitonin trong 
chẩn đoán và điều trị nhiễm khuẩn huyết, Luận văn thạc sĩ y 
học, ĐHYD TP.HCM, 67‐82. 
 

12.


13.

14.

15.

16.

17.

18.

19.

20.

Pettila  V  (2002),  ʺSequential  assessment  of  multiple  organ 
dysfunction  as  a  predictor  of  outcomeʺ.  JAMA,  287(6),  713‐
714. 
Phạm  Lưu  Nhất  Hoàng  (2011),  Giá  trị  ba  thang  điểm 
APACHE II, LODS và SOFA trong tiên lượng tử vong đối với 
hội  chứng  nhiễm  trùng  toàn  thân  nặng  và  choáng  nhiễm 
trùng,  Luận  văn  Thạc  sĩ,  chuyên  ngành  Nội  Tổng  Quát, 
ĐHYD TP.HCM, 50‐85. 
Phạm  thị  Xuân  Tú,  Phạm  Văn  Hùng  (2002),  Đặc  điểm  lâm 
sàng, sinh học nhiễm khuẩn huyết sơ sinh, Hội nghị nhi khoa 
Việt Nam. Nhà xuất bản y học, tập 10, 86‐ 91. 
Sheng  Z  (2002),  ʺPrevention  of  multiple  organ  dysfunction 
syndrome  in  patients  with  extensive  deep  burnsʺ.  Chin  J 

Traumatol, 5(4), 195‐199. 
Simmons  E  M,  Himmelfarb  J,  Sezer  M  T,  Chertow  G  M, 
Mehta R L, Paganini E P, et al. (2004), ʺPlasma cytokine levels 
predict mortality in patients with acute renal failureʺ. Kidney 
Int, 65(4), 1357‐1365. 
Trương  Ngọc  Hải,  Vũ  Đình  Hùng,  Đỗ  Tất  Cường  (2009), 
ʺNghiên cứu lâm sàng, cận lâm sàng và hiệu quả điều trị của 
liệu pháp lọc máu liên tục ở bệnh nhân suy đa tạngʺ. Y Dược 
Học Quân Sự, Học viện quân y(34), 63‐69. 
Tschaikowsky K, Hedwig‐Geissing M, Braun G G, Radespiel‐
Troeger  M  (2010),  ʺPredictive  value  of  procalcitonin, 
interleukin‐6,  and  C‐reactive  protein  for  survival  in 
postoperative patients with  severe  sepsisʺ.  J  Crit  Care,  26(1), 
54‐64. 
Vincent  J  L,  Sakr  Y,  Sprung  C  L,  Ranieri  V  M,  Reinhart  K, 
Gerlach  H,  et  al.  (2006),  ʺSepsis  in  European  intensive  care 
units: results of the SOAP studyʺ. Crit Care Med, 34(2), 344‐
353. 
Võ  Hồng  Lĩnh  (2001),  Khảo  sát  nhiễm  khuẩn  bệnh  viện  tại 
khoa  Săn  Sóc  Đặc  Biệt  Bệnh  viện  Chợ  Rẫy,  Luận  văn  tốt 
nghiệp bác sĩ nội trú chuyên ngành Nội Tổng Quát, 45‐70. 

 
Ngày nhận bài báo: 18/04/2013 
Ngày phản biện đánh giá bài báo: 2/05/2013 
Ngày bài báo được đăng: 27/05/2013 

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật – Bệnh Viện Chợ Rẫy ‐ Năm 2013 




×