Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

26 khảo sát các yếu tố nguy cơ gây huyết khối tĩnh mạch sâu trên bệnh nhân tại Bệnh viện Chợ Rẫy

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (360.08 KB, 8 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 5 * 2013

Nghiên cứu Y học 

26 KHẢO SÁT CÁC YẾU TỐ NGUY CƠ GÂY HUYẾT KHỐI TĨNH 
MẠCH SÂU TRÊN BỆNH NHÂN TẠI BỆNH VIỆN CHỢ RẪY 
Phan Thanh Thăng*, Trần Thanh Tùng*, Nguyễn Trường Sơn* 

TÓM TẮT 
Mục tiêu: khảo sát nồng độ một số yếu tố đông máu và kháng đông sinh lý trên bệnh nhân mắc huyết khối 
tĩnh mạch sâu lần đầu, xác định chỉ số nguy cơ mắc bệnh gây ra bởi từng yếu tố. 
Đối tượng nghiên cứu: gồm 39 bệnh nhân được chẩn đoán huyết khối tĩnh mạch sâu lần đầu bởi siêu âm 
Doppler, CT‐Scaner, MRI từ tháng 9/2012 đến 3/2013, và 31 người khỏe mạnh hiến máu tình nguyện, đồng ý 
tham gia nghiên cứu. 
Phương pháp nghiên cứu: tiến hành theo phương pháp mô tả cắt ngang. 
Kết quả: khảo sát quần thể đối chứng gồm 31 người khỏe mạnh, chúng tôi ghi nhận nồng độ trung bình các 
yếu tố như sau: VIII: 91,4 ± 37,2 IU/dL; IX: 115,2 ± 37,7 IU/dL; XI: 113,9 ± 18,2 IU/dL; PS: 99,6 ± 10,2 IU/dL; 
PC: 93,2 ± 16,0 IU/dL; ATIII:  90,2  ±  8,1  IU/dL;  DD:  132,9  ±  101,0  ng/mL;  APCR:  2,1  ±  0,2;  Plasminogen: 
111,4 ± 14,2 IU/dL; α2‐antiplasmin: 89,3 ± 9,9 IU/dL; PAI‐1: 0,2 ± 0,6 IU/mL. Khảo sát quần thể gồm 39 bệnh 
nhân, chúng tôi ghi nhận nồng độ trung bình các yếu tố: VIII: 177,2 ± 79,0 IU/dL; IX: 113,5 ± 53,1 IU/dL; XI: 
100,0 ± 47,6 IU/dL; PS: 98,9 ± 25,8 IU/dL; PC: 66,5 ± 32,3 IU/dL; ATIII: 78,9 ± 25,9 IU/dL; DD: 1696,3 ± 
1764,8 ng/mL; APCR: 2,2 ± 0,4; Plasminogen: 115,7 ± 32,0 IU/dL; α2‐antiplasmin: 99,3 ± 38,2 IU/dL; PAI‐1: 
3,0 ± 2,2 IU/mL. Khảo sát nguy cơ mắc bệnh ở những người có bất thường về nồng độ so với nhóm chứng, 
chúng tôi ghi nhận: PAI‐1 gây ra nguy cơ mắc bệnh gấp 4,0 lần; VIII: 1,7 lần; α2‐antiplasmin: 1,5 lần; PC: 1,5 
lần;  ATIII:  1,4  lần;  IX:  1,2  lần;  và  plasminogen:  1,1  lần.  Chỉ  số  nguy  cơ  giữa  nam  và  nữ  là:  ATIII:  2,0:1,0; 
plasminogen: 1,5:0,9; α2‐antiplasmin: 2,1:1,0; VIII: 1,5:1,9; IX: 0,7:2,2; PC: 1,4:1,4; PAI‐1: 4,2:4,4. Chỉ số nguy 
cơ  giữa  nhóm  già  (trên  41  tuổi)  và  nhóm  trẻ  (dưới  41  tuổi)  là:  PC:  2,7:1,3;  α2‐antiplasmin:  1,0:1,5;  PAI‐1: 
2,5:3,3; IX: 1,2:1,3. Chỉ số nguy cơ khi tăng đồng thời yếu tố VIII và IX là 2,5 lần. 
Kết luận: nguyên nhân phổ biến nhất gây huyết khối tĩnh mạch sâu là sự tăng cao nồng độ các yếu tố VIII, 
IX, PAI‐1, α2‐antiplasmin, hay thiếu hụt nồng độ PC, ATIII, plasminogen. ATIII, plasminogen, α2‐antiplasmin 
gây nguy cơ cao hơn ở nam, yếu tố VIII và IX gây nguy cơ cao hơn ở nữ. PC gây nguy cơ cao hơn ở người trên 


41 tuổi, α2‐antiplasmin, PAI‐1 gây nguy cơ cao hơn ở nhóm dưới 41 tuổi. Yếu tố VIII, IX tăng đồng thời gây 
nguy cơ cao hơn nhiều lần. 
Từ khóa: huyết khối tĩnh mạch sâu, yếu tố đông máu, yếu tố kháng đông, tăng đông.  

ABSTRACT 
INVESTIGATING THE RISK FACTORS FOR DEEP VENOUS THROMBOSIS ON PATIENTS AT CHO 
RAY HOSPITAL 
Phan Thanh Thang, Tran Thanh Tung, Nguyen Truong Son  
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ No 5 ‐ 2013: 143 ‐ 150 
Objective:  study  the  concentrations  of  some  coagulant  and  anticoagulant  factors  in  patients  with  a  first 
objectively diagnosed episode of DVT. Assess relative risk between increasing (or decreasing) concentrations of 
these factors with incidence of DVT. 
* Bệnh viện Chợ Rẫy 
Tác giả liên lạc: Phan Thanh Thăng  ĐT: 097.714.8046 

Chuyên Đề Truyền Máu – Huyết Học  

 Email:  

144


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 5 * 2013 

Nghiên cứu Y học

Subjects: 31 healthy adults and 39 patients at Cho Ray hospital from 9/2012 to 3/2013, agreed to participate 
in research. 
Method: cross‐sectional descriptive method. 
Results: studying 31 control subjects, we have median values: factor VIII: 91.4 ± 37.2 IU/dL; IX: 115.2 ± 

37.7 IU/dL; XI: 113.9 ± 18.2 IU/dL; PS: 99.6 ± 10.2 IU/dL; PC: 93.2 ± 16.0 IU/dL; ATIII: 90.2 ± 8.1 IU/dL; DD: 
132.9 ± 101.0 ng/mL; APCR: 2.1 ± 0.2; Plasminogen: 111.4 ± 14.2 IU/dL; α2‐antiplasmin: 89.3 ± 9.9 IU/dL; 
PAI‐1: 0.2 ± 0.6 IU/mL. The median  values  of  39  patients:  factor  VIII:  177.2  ±  79.0  IU/dL;  IX:  113.5  ±  53.1 
IU/dL; XI: 100.0 ± 47.6 IU/dL; PS: 98.9 ± 25.8 IU/dL; PC: 66.5 ± 32.3 IU/dL; ATIII: 78.9 ± 25.9 IU/dL; DD: 
1696.3 ± 1764.8 ng/mL; APCR: 2.2 ± 0.4; Plasminogen: 115.7 ± 32.0 IU/dL; α2‐antiplasmin: 99.3 ± 38.2 IU/dL; 
PAI‐1: 3.0 ± 2.2 IU/mL. Assessing the relative risks on patients with abnormal concentration, we found a 4.0‐
fold increase risk caused by PAI‐1; 1.7‐fold by factor VIII; 1.5‐fold by α2‐antiplasmin and PC; 1.4‐fold by ATIII; 
1.2‐fold by factor IX; and 1.2‐fold by plasminogen. The relative risks between male and female: ATIII: 2.0:1.0; 
plasminogen:  1.5:0.9;  α2‐antiplasmin:  2.1:1.0;  VIII:  1.5:1.9;  IX:  0.7:2.2;  PC:  1.4:1.4;  PAI‐1:  4.2:4.4.  Relative 
risks  between  old  and  young  groups:  PC:  2.7:1.3;  α2‐antiplasmin:  1.0:1.5;  PAI‐1:  2.5:3.3;  IX:  1.2:1.3.  The 
combination of increasing factor VIII and IX levels cause relative risk 2.5‐fold. 
Conclusion:  DVT  most  common  caused  by  increasing  concentrations  of  factor  VIII,  IX,  PAI‐1,  α2‐
antiplasmin,  or  decreasing  concentrations  of  protein  C,  antithrombin  III,  plasminogen.  The  lacking  of  ATIII, 
plasminogen or increasing α2‐antiplasmin levels cause the relative risk higher in men. Conversely, factor VIII 
and IX cause the relative risk higher in women. DVT caused by lacking of PC is more often seen in old group. 
Conversely, α2‐antiplasmin and PAI‐1 is more often seen in young group. The combination of factor VIII and IX 
cause the relative risk very high.  
Keywords: deep venous thrombosis, coagulant factors, anticoagulant factors, hypercoagulation.  
xác  định  chỉ  số  nguy  cơ  mắc  bệnh  gây  ra  bởi 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
từng yếu tố. 
Huyết khối tĩnh mạch sâu (HKTMS) là bệnh 
Mục tiêu cụ thể 
lý  nghiêm  trọng,  với  tỉ  lệ  mắc  bệnh  hàng  năm 
Tính trị số trung bình các yếu tố đông máu, 
khoảng  1/1.000  dân.  Có  rất  nhiều  nguyên  nhân 
kháng đông sinh lý ở người bình thường. 
gây  HKTMS.  Tuy  nhiên,  có  thể  chia  thành  3 
nhóm chính: do tăng cường hoạt động của một 
số  yếu  tố  trong  con  đường  đông  máu;  do  suy 

giảm hoạt động của cơ chế kháng đông; hay do 
suy giảm cơ chế ly giải fibrin(14).  
Tại Việt Nam, hiện chưa có báo cáo đầy đủ 
về mối liên hệ giữa nguy cơ mắc HKTMS với các 
yếu tố đông máu và yếu tố kháng đông. Vì vậy, 
việc  xác  định  mối  liên  hệ  này  nhằm  góp  phần 
chẩn  đoán  kịp  thời,  phòng  ngừa,  giúp  quyết 
định  hướng  điều  trị  kháng  đông  thích  hợp  cho 
bệnh nhân. 

Mục tiêu nghiên cứu 
Mục tiêu tổng quát: khảo sát nồng độ một số 
yếu  tố  đông  máu  và  kháng  đông  sinh  lý  trên 
bệnh  nhân  huyết  khối  tĩnh  mạch  sâu  lần  đầu, 

145

Tính trị số trung bình các yếu tố đông máu, 
kháng đông sinh lý ở nhóm bệnh. 
Tính  chỉ  số  nguy  cơ  mắc  bệnh  (RR)  gây  ra 
bởi từng yếu tố. 

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Đối  tượng  trong  nghiên  cứu  này  gồm  39 
bệnh  nhân  trên  15  tuổi  được  chẩn  đoán 
HKTMS lần đầu (tĩnh mạch chi trên, chi dưới, 
não,  cửa)  bằng  siêu  âm  Doppler,  CT‐Scaner 
hay  MRI  tại  Bệnh  viện  Chợ  Rẫy  từ  tháng 
9/2012  đến  tháng  3/2013.  (Nghiên  cứu  này 

không can thiệp vào bệnh nhân, tất cả các xét 
nghiệm  trong  nghiên  cứu  này  là  thực  sự  cần 

Chuyên Đề Truyền Máu – Huyết Học 


Nghiên cứu Y học 
thiết trong chẩn đoán, phòng ngừa và điều trị 
kháng đông cho bệnh nhân). 
Quần  thể  đối  chứng  trong  nghiên  cứu  gồm 
31 người khỏe mạnh hiến máu tình nguyện, trên 
15 tuổi và không mắc bệnh nan y, không có tiền 
sử  gia  đình  mắc  chứng  huyết  khối,  tim  mạch, 
không  sử  dụng  thuốc  ngừa  thai,  hormone, 
không  béo  phì.  Tất  cả  các  bệnh  nhân  và  người 
hiến  máu  tình  nguyện  không  hội  đủ  các  điều 
kiện  như  trên  hay  không  đồng  ý  tham  gia 
nghiên cứu đều không được chọn. 
Tiến hành thu mẫu máu của các đối tượng, 
ly tâm thu plasma, lưu giữ ở ‐70oC tối đa 6 tuần, 
sau đó phân tích cùng lúc với mẫu đối chứng, sử 
dụng cùng lô thuốc thử.  

Phương pháp nghiên cứu 
Thiết kế nghiên cứu 
Nghiên  cứu  được  tiến  hành  theo  phương 
pháp mô tả cắt ngang nhằm thu thập dữ liệu về 
đối tượng nghiên cứu theo tiêu chuẩn như trên, 
từ  đó  phân  tích  thống  kê  mô  tả  tìm  mối  liên 
quan giữa sự thay đổi nồng độ các yếu tố đông 

máu  và  kháng  đông  sinh  lý  với  nguy  cơ  mắc 
bệnh.  
Định  lượng  các  yếu  tố  đông  máu  và  kháng 
đông 
Nồng độ các yếu tố đông máu VIII, IX, XI và 
các yếu tố kháng đông Protein S (PS), protein C 
(PC),  Antithrombin  III  (ATIII)  cùng  với 
Plasminogen  (Plas),  α2‐antiplasmin  (α2AP), 
PAI‐1  được  phân  tích  trên  máy  đông  máu  tự 
(Instrumentation 
động 
ACL‐TOP 
500 
Laboratory  Company,  Mỹ),  Sysmex‐cs2000i 
(Siemens, Đức) sử dụng các bộ KIT định lượng 
của cùng hãng. 
Xét  nghiệm  định  lượng  yếu  tố  VIII,  IX  và 
XI trên một nguyên lý chung(10,11). Đầu tiên, sử 
dụng  plasma  chuẩn  đã  loại  bỏ  yếu  tố  VIII  (IX 
hay XI) (≤ 1% hoạt tính/ml ≈ 0,01 IU/ml) (tất cả 
các  yếu  tố  đông  máu  khác  đều  bình  thường) 
trộn theo tỉ lệ 1:1 với một loạt các nồng độ yếu 
tố VIII (IX hay XI) khác nhau từ thấp đến cao. 
Bổ  sung  ion  Ca2+  để  đo  các  chỉ  số  aPTT  (thời 

Chuyên Đề Truyền Máu – Huyết Học  

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 5 * 2013
gian  Thrombin  nội  sinh),  từ  đó  xây  dựng 
đường  cong  chuẩn  thể  hiện  mối  tương  quan 

giữa aPTT và nồng độ yếu tố VIII (IX hay XI). 
Tiếp theo, làm thí nghiệm với mẫu bệnh nhân, 
dựa  vào  đường  cong  chuẩn  để  tính  nồng  độ 
yếu  tố  VIII  (IX  hay  XI).  Định  lượng  PS  cũng 
được  tiến  hành  theo  nguyên  lý  tương  tự 
nhưng  sử  dụng  plasma  chuẩn  đã  loại  bỏ  PS, 
yếu tố TF tái tổ hợp; PC đã hoạt hóa và đo thời 
gian PT. 
Định lượng PC, ATIII và plasminogen được 
tiến hành theo nguyên lý chung, sử dụng cơ chất 
phát  màu  paranitroaniline(10,2).  PC  (hay 
plasminogen)  trong  plasma  bệnh  nhân  được 
hoạt  hóa  bởi  protein  hoạt  hóa  PC  (hay 
streptokinase), sau đó thêm cơ chất phát màu và 
đo  động  dược  học  của  paranitroaniline  ở  bước 
sóng  405  nm.  ATIII  trong  plasma  bệnh  nhân 
được ủ với heparin, sau đó thêm một lượng dư 
yếu tố Xa. Lượng Xa dư biết được bằng cách đo 
động  dược  học  của  paranitroaniline  khi  Xa  dư 
tương  tác  và  phân  ly  cơ  chất  phát  màu,  từ  đó 
suy ra lượng ATIII trong plasma bệnh nhân. 
Định  lượng  α2‐antiplasmin  hay  PAI‐1  sử 
dụng  kháng  thể  đơn  dòng  gắn  trên  các  hạt 
polystyrene(10,2).  Nồng  độ  α2‐antiplasmin  hay 
PAI‐1  được  suy  ra  từ  đồ  thị  tương  quan  giữa 
nồng độ yếu tố và độ cản quang. 

Phân tích thống kê 
Nghiên cứu được chia thành hai phần. Đầu 
tiên  chúng  tôi  nghiên  cứu,  mô  tả  đặc  điểm  các 

yếu tố đông máu và kháng đông nói trên trong 
quần  thể  đối  chứng.  Xác  định  nồng  độ  trung 
bình, độ lệch chuẩn từng yếu tố, từ đó xác định 
cut‐off của từng yếu tố. Giá trị cut‐off có ý nghĩa 
là  mức  trung  bình  của  người  bình  thường,  sử 
dụng trong việc tính tỉ lệ bất thường nồng độ các 
yếu  tố.  Ngoài  ra,  tiến  hành  khảo  sát  nồng  độ 
trung bình từng yếu tố theo giới tính, theo từng 
độ tuổi. 
Tiếp  theo,  chúng  tôi  khảo  sát  mối  liên  hệ 
giữa  việc  tăng  (hay  giảm)  nồng  độ  các  yếu  tố 
đông  máu  và  kháng  đông  với  nguy  cơ  mắc 
HKTMS bằng cách tính chỉ số nguy cơ RR (CI = 

146


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 5 * 2013 
95%).  Sự  tăng  (hay  giảm)  nồng  độ  các  yếu  tố 
được xác định dựa vào cut‐off của quần thể đối 
chứng. Chúng tôi cũng tiến hành khảo sát, đánh 
giá nguy cơ mắc HKTMS theo giới tính, theo độ 
tuổi dựa vào tương quan chỉ số nguy cơ. Do yếu 
tố  VIII  là  cofactor  của  yếu  tố  IX,  chúng  tôi  tiến 
hành khảo sát thêm nguy cơ mắc HKTMS trong 
sự kết hợp tăng nồng độ của 2 yếu tố này. 

KẾT QUẢ 
Độ tuổi trung bình của nhóm bệnh và nhóm 
chứng trong nghiên cứu là 41 tuổi, trong đó độ 

tuổi nhóm chứng từ 19 – 79 tuổi, nhóm bệnh từ 

Nghiên cứu Y học
15 – 90 tuổi. Tỉ lệ nam trong trong nhóm chứng 
cao hơn nữ (58% so với 42%). Tỉ lệ mắc bệnh ở 
nữ chiếm đa số (64%). 

Đặc  điểm  các  yếu  tố  đông  máu  và  kháng 
đông nhóm đối chứng 
Qua  khảo  sát,  chúng  tôi  ghi  nhận  nồng  độ 
trung  bình  từng  yếu  tố  của  nhóm  chứng  như 
trong  bảng  1.  Nồng  độ  trung  bình  các  yếu  tố 
nghiên cứu đều nằm trong giới hạn tham khảo. 
Giá  trị  cut‐off  của  từng  yếu  tố  được  xác  định 
bằng cách làm tròn giá trị trung bình. 

Bảng 1: Nồng độ trung bình từng yếu tố của nhóm chứng 
Yếu tố
Trung
bình
SD
Cut-off

VIII
PS
IX (IU/dL) XI (IU/dL)
(IU/dL)
(IU/dL)

PC

(IU/dL)

ATIII
(IU/dL)

DD
(ng/mL)

APCR
(R)

Plas
(IU/dL)

a2AP
(IU/dL)

PAI-1
(IU/mL)

91,4

115,2

113,9

99,6

93,2


90,2

132,9

2,1

111,4

89,3

0,2

37,2
91

37,7
115

18,2
114

10,2
100

16,0
93

8,1
90


101,0
133

0,2
2,1

14,2
111

9,9
89

0,6
0,2

Kết  quả  nghiên  cứu  nhóm  chứng  cũng  cho 
thấy, không có sự khác nhau về nồng độ trung 
bình  các  yếu  tố  giữa  2  giới  (t  stat  <  2,1)  trừ  PS 

(bảng 2). Nồng độ trung bình PS ở nữ thấp hơn 
nam, với sự khác biệt 8,3 IU/dL (t Stat > 2,1). 

Bảng 2: Nồng độ trung bình từng yếu tố của nhóm chứng theo giới tính 
Yếu tố

VIII
PS
IX (IU/dL) XI (IU/dL)
(IU/dL)
(IU/dL)


PC
(IU/dL)

ATIII
(IU/dL)

DD
(ng/mL)

APCR
(R)

Plas
(IU/dL)

a2AP
(IU/dL)

PAI-1
(IU/mL)

Nam

97,0

114,7

111,2


103,1

94,4

92,3

129,9

2,16

111,9

87,0

0,21

Nữ

83,8

115,9

117,8

94,8

91,6

87,3


137,0

2,06

110,9

92,4

0,27

T stat

< 2,1

< 2,1

< 2,1

> 2,1

< 2,1

< 2,1

< 2,1

< 2,1

< 2,1


< 2,1

< 2,1

Tiến hành khảo sát nồng độ trung bình từng 
yếu tố theo 2 nhóm tuổi: dưới 41 và trên 41tuổi, 
chúng tôi ghi nhận kết quả như bảng 3. Kết quả 
cho  thấy  nồng  độ  trung  bình  các  yếu  tố  nhóm 

chứng không có sự khác nhau theo độ tuổi (t stat 
nhỏ). 

Bảng 3: Nồng độ trung bình từng yếu tố của nhóm chứng theo độ tuổi 
Yếu tố

VIII
PS
IX (IU/dL) XI (IU/dL)
(IU/dL)
(IU/dL)

PC
(IU/dL)

ATIII
(IU/dL)

DD
(ng/mL)


APCR
(R)

Plas
(IU/dL)

a2AP
(IU/dL)

PAI-1
(IU/mL)

≤41

87,1

116,6

113,0

99,0

93,1

90,3

127,7

2,1


111,4

88,4

0,3

> 41

132,7

102,3

122,1

105,6

94,0

89,4

179,7

2,2

112,2

97,4

0,0


T stat

< 4,3

< 3,2

< 4,3

< 4,3

< 2,0

< 2,1

< 4,3

< 4,3

< 4,3

< 4,3

< 2,0

Đặc  điểm  các  yếu  tố  đông  máu  và  kháng 
đông nhóm bệnh 
Khảo sát nồng độ trung bình từng yếu tố của 
nhóm  bệnh  chúng  tôi  ghi  nhận  kết  quả  như 
bảng  4.  Nồng  độ  trung  bình  yếu  tố  VIII  nhóm 


147

bệnh (177,2 IU/dL) vượt xa giới hạn bình thường 
(150  IU/dL)  và  cao  hơn  rất  nhiều  so  với  nhóm 
chứng (t Stat > 2,0), với sự khác biệt lên tới 85,8 
IU/dL.  
Tương  tự,  nồng  độ  D‐Dimer  trung  bình 
nhóm  bệnh  (1696,3  ng/mL)  cũng  vượt  xa  giới 

Chuyên Đề Truyền Máu – Huyết Học 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 5 * 2013 
hạn  bình  thường  (255  ng/mL),  và  cao  hơn  rất 
nhiều so với nồng độ trung bình nhóm chứng 
(t  Stat  >  2,0).  Cụ  thể,  sự  khác  biệt  này  lên  tới 
1563,4 ng/mL. 

Nghiên cứu Y học
nhóm bệnh so với nhóm chứng (chênh lệch 26,5 
IU/dL) là có ý nghĩa thống kê (t Stat > 2,0). 
Nồng  độ  trung  bình  ATIII  của  nhóm  bệnh 
thấp hơn (11,3 IU/dL) so với nhóm chứng, và có 
ý  nghĩa  thống  kê  (t  Stat  >  2,0).  Nồng  độ  trung 
bình PAI‐1 của nhóm bệnh cao hơn rất nhiều so 
với nhóm chứng (chênh lệch 2,8 IU/mL) và có ý 
nghĩa thống kê (t Stat > 2,0). 

Nồng độ trung bình PC của nhóm bệnh (66,5 
IU/dL)  hơi  thấp  hơn  giới  hạn  bình  thường  (70 

IU/dL), và thấp hơn rất nhiều so với trung bình 
nhóm chứng (93,2 IU/dL). Sự thiếu hụt này của 
Bảng 4: Nồng độ trung bình từng yếu tố của nhóm bệnh 
Yếu tố

VIII
PS
IX (IU/dL) XI (IU/dL)
(IU/dL)
(IU/dL)

PC
(IU/dL)

ATIII
(IU/dL)

DD
(ng/mL)

APCR
(R)

Plas
(IU/dL)

α2AP
(IU/dL)

PAI-1

(IU/mL)

TB bệnh

177,2

113,5

100,0

98,9

66,5

78,9

1696,3

2,2

115,7

99,3

3,0

SD

79,0


53,1

47,6

25,8

32,2

25,9

1764,8

0,4

32,0

38,2

2,2

TB chứng

91,4

115,2

113,9

99,6


93,2

90,2

132,9

2,1

111,4

89,3

0,2

T stat

> 2,0

< 2,0

< 2,0

< 2,0

> 2,0

> 2,0

> 2,0


< 2,0

< 2,0

< 2,0

> 2,0

Sự thay đổi nồng độ yếu tố và nguy cơ mắc 
HKTMS 

nguy cơ mắc HKTMS gấp 1,1 lần (CI:95%: 0,9 – 
1,4) so với người bình thường. 

Số  lượng  bệnh  nhân  hay  đối  chứng  có  các 
yếu tố tăng hơn (hay giảm hơn) cut‐off được xác 
định, từ đó tính chỉ số nguy cơ RR (CI:95%) thể 
hiện như trong bảng 5. 

Những người có nồng độ PC thấp hơn cut‐
off  (93  IU/dL)  có  nguy  cơ  mắc  HKTMS  gấp  1,5 
lần (CI:95%: 1,3 – 1,7) so với người bình thường. 
Tương  tự,  những  người  có  nồng  độ  ATIII  thấp 
hơn cut‐off (90 IU/dL) có nguy cơ mắc HKTMS 
gấp 1,4 lần (CI:95%: 0,9 – 2,3) so với người bình 
thường. α2‐antiplasmin cũng là yếu tố nguy cơ 
cao khi gây ra nguy cơ mắc HKTMS gấp 1,5 lần 
(CI:95%: 1,3 – 1,7) ở những người tăng nồng độ 
trên  89  IU/dL.  Đặc  biệt,  PAI‐1  là  yếu  tố  gây  ra 
nguy cơ mắc HKTMS cao nhất trong các thông 

số  khảo  sát  của  nghiên  cứu  này.  Những  người 
có nồng độ PAI‐1 cao hơn cut‐off (0,2 IU/mL) có 
nguy cơ mắc HKTMS cao gấp 4 lần (CI:95%: 2,6 
– 6,1) so với người bình thường. 

Kết  quả  nghiên  cứu  cho  thấy  những  người 
có nồng độ yếu tố VIII cao hơn cut‐off (91 IU/dL) 
có nguy cơ mắc HKTMS gấp 1,7 lần (CI:95%: 0,7 
– 3,8) so với người có nồng độ yếu tố VIII thấp 
hơn cut‐off. Hay nói cách khác, những người có 
nồng  độ  yếu  tố  VIII  trên  91  IU/dL  có  nguy  cơ 
mắc  HKTMS  cao  hơn  người  bình  thường  tới 
70%. Tương tự, những người có nồng độ yếu tố 
IX  cao  hơn  cut‐off  (115  IU/dL)  có  nguy  mắc 
HKTMS cao gấp 1,2 lần (CI:95%: 0,9 – 1,6) so với 
người  bình  thường.  Những  người  có  nồng  độ 
plasminogen  thấp  hơn  cut‐off  (111  IU/dL)  có 
Bảng 5: Chỉ số nguy cơ RR 
Yếu tố
RR
CI:95%

VIII
1,7
3,8
0,7

IX
1,2
1,6

0,9

XI
0,6
1,0
0,4

PS
0,8
1,0
0,7

Nguy cơ huyết khối theo giới tính 
Tiếp tục khảo sát 7 yếu tố nguy cơ ở nam và 
nữ chúng tôi thu được kết quả như trong bảng 6. 
Kết  quả  cho  thấy  sự  tăng  nồng  độ  yếu  tố  VIII 
trên  cut‐off  (>  91  IU/dL)  gây  ra  nguy  cơ  mắc 

PC
1,5
1,7
1,3

ATIII
1,4
2,3
0,9

APCR
0,5

1,0
0,3

Plas
1,1
1,4
0,9

a2AP
1,5
1,7
1,3

PAI-1
4,0
6,1
2,6

HKTMS  cao  hơn  ở  nữ  giới  (1,9  lần  so  với  1,5 
lần).  Tương  tự,  sự  tăng  nồng  độ  yếu  tố  IX  trên 
115  IU/dL  cũng  gây  ra  nguy  cơ  cao  hơn  ở  nữ 
giới (2,2 lần so với 0,7). Ngược lại, nguy cơ mắc 
HKTMS  ở  nam  giới  là  cao  hơn  khi  có  sự  thiếu 

147
Chuyên Đề Truyền Máu – Huyết Học 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 5 * 2013


Nghiên cứu Y học 
hụt  ATIII  (<  90  IU/dL)  hay  tăng  nồng  độ 
plasminogen (> 111 IU/dL), α2‐antiplasmin (> 89 
IU/dL)  (2,0  lần  so  với  1,0  và  1,5  so  với  0,9).  Sự 
thiếu hụt PC (< 93 IU/dL) hay tăng nồng độ PAI‐
1 (> 0,2 IU/mL) gây ra nguy cơ mắc HKTMS như 
nhau ở 2 giới (4,4 lần và 4,2 lần). 
Bảng 6: Chỉ số nguy cơ RR theo giới tính 
Giới

VIII

IX

PC

ATIII

Plas α2AP PAI-1

Nam

1,5

0,7

1,4

2,0


1,5

2,1

4,2

Nữ

1,9

2,2

1,4

1,0

0,9

1,0

4,4

Nguy cơ huyết khối theo nhóm tuổi 
Nguy  cơ  mắc  HKTMS  giữa  nhóm  già  và 
nhóm  trẻ  được  thể  hiện  trong  bảng  7.  Kết  quả 
nghiên  cứu  cho  thấy  nguy  cơ  mắc  HKTMS  ở 
nhóm  già  cao  hơn  khi  có  sự  thiếu  hụt  nồng  độ 
PC (< 93 IU/dL). Ngược lại, nguy cơ này là cao 
hơn  ở  nhóm  trẻ  khi  có  sự  tăng  nồng  độ  α2‐
antiplasmin hay PAI‐1. Khi có sự tăng nồng độ 

yếu tố VIII hay IX, nguy cơ này là như nhau ở 2 
nhóm. Không có ý nghĩa so sánh khi yếu tố đó là 
ATIII hay plasminogen. 
Bảng 7: Chỉ số nguy cơ RR theo nhóm tuổi 
Nhóm tuổi VIII IX
≤ 41
1,5 1,3
> 41
1,4 1,2

PC
1,3
2,7

ATIII
1,2
0,8

Plas a2AP PAI-1
1,1
1,5
3,3
0,5
1,0
2,5

Nguy cơ huyết khối khi nồng độ yếu tố VIII và 
IX cao đồng thời 
Kết  quả  khảo  sát  khi  tăng  cao  đồng  thời 
yếu  tố  VIII  và  IX  cho  thấy:  mặc  dù  sự  tăng 

nồng độ (> 91 IU/dL) của yếu tố VIII hay IX (> 
115 IU/dL) một cách riêng rẽ đều gây ra nguy 
cơ  mắc  HKTMS,  nhưng  khi  nồng  độ  2  yếu  tố 
này tăng đồng thời sẽ gây ra nguy cơ cao hơn 
nhiều (2,5 lần). 
Bảng 8: Chỉ số nguy cơ RR khi nồng độ VIII, IX cao 
đồng thời 
VIII
> 91 IU/dL
> 91 IU/dL
≤ 91 IU/dL
≤ 91 IU/dL

IX
RR
CI: 95%
> 115 IU/dL
2,5
1,0
6,5
≤ 115 IU/dL
3,1
0,6
15,6
> 115 IU/dL
1,0
0,1
7,1
≤ 115 IU/dL
1*

1*: giá trị so sánh tham khảo

148
Chuyên Đề Truyền Máu – Huyết Học  

BÀN LUẬN 
Đặc  điểm  các  yếu  tố  đông  máu  và  kháng 
đông nhóm đối chứng 
Trị số trung bình các yếu tố VIII, IX, XI, DD 
của  nhóm  chứng  tương  đương  với  kết  quả 
nghiên cứu của Trần Thanh Tùng và cộng sự(13) 
(VIII: 104,1 ± 43,2 IU/dL; IX: 114,3 ± 33,1 IU/dL; 
XI: 108,1 ± 27,0 IU/dL; DD: 145,6 ng/mL). Nồng 
độ trung bình các yếu tố này thấp  hơn  kết  quả 
nghiên  cứu  của  Mary  Cushman  và  cộng  sự  (4) 
(VIII: 128,0 ± 28,0 IU/dL; IX: 144,0 ± 31,0 IU/dL; 
XI: 132,0 ± 36,0 IU/dL; DD: 590,0 ± 670 ng/mL). 
Trị  số  trung  bình  các  yếu  tố  PS,  PC,  ATIII, 
APCR  là  tương  đương  với  kết  quả  nghiên  cứu 
của Trần Thanh Tùng (PS: 99,2 ± 10,9 IU/dL; PC: 
93,8 ± 2,3 IU/dL; ATIII: 89,5 ± 8,9 IU/dL; APCR: 
2,0 ± 0,2), nhưng thấp hơn so với kết quả nghiên 
cứu  của  Huỳnh  Thị  Thanh  Trang  và  cộng  sự (7) 
(PS:  121,7  ±  47,5  IU/dL;  PC:  172,9  ±  40,4  IU/dL; 
ATIII: 101,2 ± 17,9 IU/dL). 

Đặc  điểm  các  yếu  tố  đông  máu  và  kháng 
đông nhóm bệnh 
Tỉ lệ bệnh nhân có nồng độ yếu tố VIII vượt 
ngoài 150 IU/dL là 56,4% (22/39 người), cao hơn 

kết  quả  nghiên  cứu  của  Trần  Thanh  Tùng  và 
cộng sự năm 2009 (25,5%)(12), và cao hơn kết quả 
nghiên cứu của Koster(8) (25%). 
Tỉ  lệ  bệnh  nhân  có  nồng  độ  PC  dưới  70 
IU/dL  là  61,5%  (24/39  người),  cao  hơn  kết  quả 
nghiên  cứu  của  Trần  Thanh  Tùng  và  cộng  sự 
(18,3%)(12). 
Tỉ  lệ  bệnh  nhân  có  nồng  độ  ATIII  dưới  80 
IU/dL  là  48,7%  (19/39  người),  tương  đương  với 
kết  quả  nghiên  cứu  của  Trần  Thanh  Tùng  và 
cộng sự (53,2%)(12). 
Nồng  độ  D‐Dimer  trung  bình  nhóm  bệnh 
là cao hơn so với kết quả nghiên cứu của Đặng 
Vạn  Phước  và  cộng  sự(5)  (816  ng/mL).  Có  tới 
97,4%  (38/39  bệnh  nhân)  có  nồng  độ  D‐Dimer 
cao hơn trung bình nhóm chứng (133 ng/mL). 
Có thể nói D‐Dimer là thông số rất tốt và có ý 
nghĩa  trong  chẩn  đoán  bước  đầu  HKTMS, 
tương đương với kết quả nghiên cứu của Đặng 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 5 * 2013 
Vạn  Phước  và  cộng  sự(5)  (“độ  nhạy  và  độ  đặc 
hiệu  của  D‐Dimer  theo  siêu  âm  Doppler  lần 
lượt là 77,8% và 42,8%”). 

Sự thay đổi nồng độ yếu tố và nguy cơ mắc 
HKTMS 
Từ 11 yếu tố được khảo sát trong nghiên cứu 
này, có tới 7 yếu tố gây ra nguy cơ mắc HKTMS 

có  ý  nghĩa  thống  kê,  gồm  yếu  tố  VIII,  IX, 
plasminogen, PC, ATIII, α2‐antiplasmin và PAI‐
1.  Trong  đó,  yếu  tố  VIII,  PC,  ATIII,  α2‐
antiplasmin  và  PAI‐1  gây  ra  nguy  cơ  cao,  đặc 
biệt  là  PAI‐1.  Điều  đáng  nói  ở  đây,  trong  3  xét 
nghiệm  định  lượng  plasminogen,  α2‐
antiplasmin  và  PAI‐1  lần  đầu  tiên  được  triển 
khai  tại  Khoa  Huyết  học,  Bệnh  viện  Chợ  Rẫy 
năm 2012 thì cả 3 yếu tố này đều gây ra nguy cơ 
mắc  HKTMS,  và  2  trong  3  số  đó  là  yếu  tố  có 
nguy cơ cao (α2AP, PAI‐1). Điều này cho thấy 3 
xét  nghiệm  này  thực  sự  rất  có  ý  nghĩa  trong 
chẩn đoán xác định HKTMS, đặc biệt là PAI‐1. 
Trong nghiên cứu, chỉ số nguy cơ gây ra do 
tăng  nồng  độ  yếu  tố  XI,  giảm  nồng  độ  PS  nhỏ 
hơn  1  do  đó  không  có  ý  nghĩa  thống  kê.  Nguy 
cơ gây ra do giảm tỉ lệ APCR trong nghiên cứu 
nhỏ hơn 1 nên cũng không có ý nghĩa thống kê. 
Tuy nhiên, theo Steffen Rosén(11) và Trần Thanh 
Tùng(12,13), đột biến V‐Leiden dẫn tới hiện tượng 
đề  kháng  APC  rất  hiếm  gặp  trong  cộng  đồng 
người Châu Á. Vì vậy, khả năng gây HKTMS do 
sự  bất  thường  này  là  hiếm  gặp  trong  quần  thể 
nghiên cứu. 
Kết quả nghiên cứu như trên cũng có một số 
khác  biệt  về  tỉ  lệ.  Điều  này  có  thể  do  số  lượng 
mẫu  nghiên  cứu  còn  thấp.  Do  đó,  trong  thời 
gian  tới  chúng  tôi  sẽ  tiếp  tục  thực  hiện  nghiên 
cứu  để  thu  thập  thêm  dữ  liệu  và  đánh  giá  lại 
nguy cơ mắc bệnh. 


KẾT LUẬN 
Khảo sát 11 yếu tố có nguy cơ gây HKTMS 
trên  quần  thể  gồm  39  bệnh  nhân  được  chẩn 
đoán HKTMS lần đầu bởi siêu âm Doppler, CT‐
Scaner hay MRI, và quần thể đối chứng gồm 31 
người  khỏe  mạnh  hiến  máu  tình  nguyện  tại 

Nghiên cứu Y học
Bệnh viện Chợ Rẫy từ tháng 9/2012 đến 3/2013, 
chúng tôi đi đến những kết luận như sau: 
Nguyên  nhân  phổ  biến  nhất  gây  HKTMS 
trên bệnh nhân tại Bệnh viện Chợ Rẫy là: (1) do 
sự tăng cao nồng độ các yếu tố VIII (> 91 IU/dL), 
IX  (>  115  IU/dL),  PAI‐1  (>  0,2  IU/mL),  α2‐
antiplasmin (> 89 IU/dL); và (2) do sự thiếu hụt 
nồng độ các yếu tố PC (< 93 IU/dL), ATIII (< 90 
IU/dL), plasminogen (< 111 IU/dL). 
Nghiên cứu cho thấy những người có sự bất 
thường nồng độ PAI‐1 như trên có nguy cơ mắc 
bệnh  gấp  4  lần  người  bình  thường.  Tương  tự, 
nguy cơ gây ra do sự bất thường nồng độ yếu tố 
VIII là 1,7 lần; do sự bất thường nồng độ PC và 
α2‐antiplasmin là 1,5 lần; do sự bất thường nồng 
độ  ATIII  là  1,4  lần;  do  sự  bất  thường  nồng  độ 
yếu tố IX là 1,2 lần và do plasminogen là 1,1 lần. 
Trong  7  yếu  tố  gây  nguy  cơ,  sự  tăng  cao 
nồng  độ  yếu  tố  VIII  và  IX  gây  ra  nguy  cơ  cao 
hơn ở nữ giới; sự thiếu hụt ATIII hay tăng nồng 
độ plasminogen, α2‐antiplasmin gây ra nguy cơ 

cao  hơn  ở  nam  giới;  sự  thiếu  hụt  PC  hay  tăng 
nồng  độ  PAI‐1  gây  ra  nguy  cơ  như  nhau  ở  2 
giới. 
Tuổi  không  ảnh  hưởng  tới  nguy  cơ  mắc 
HKTMS gây ra do tăng nồng độ yếu tố VIII hay 
IX, nhưng những người trên 41 tuổi có nguy cơ 
mắc  bệnh  cao  hơn  khi  thiếu  hụt  PC,  những 
người dưới 41 tuổi có nguy cơ mắc bệnh cao hơn 
khi nồng độ α2‐antiplasmin và PAI‐1 tăng cao. 
Nguy  cơ  mắc  HKTMS  ở  những  người  có 
nồng độ yếu tố VIII và IX tăng cao đồng thời cao 
hơn  nhiều  lần  (2,5  lần)  so  với  những  người  có 
nồng độ 2 yếu tố này bình thường. 

TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.
2.
3.

4.

Axelsson F (1995), Plasminogen, version 11, Chromogenix AB. 
Cheng G (2012), Deep Vein Thrombosis, Published by InTech, 
Janeza Trdine 9, 51000 Rijeka, Croatia. 
Cushman  M  (2003),  Fibrin  fragment  D‐dimer  and  the  risk  of 
future  venous  thrombosis,  The  American  Society  of 
Hematology. 
Cushman  M  et.al  (2009),  Coagulation  factors  IX  through  XIII 
and  the  risk  of  future  venous  thrombosis:  the  Longitudinal 
Investigation  of  Thromboembolism  Etiology,  American 

Society of Hematology. 

149
Chuyên Đề Truyền Máu – Huyết Học 


Nghiên cứu Y học 
5.

6.

7.

8.

9.

10.

Đặng Vạn Phước, Nguyễn Văn Trí (2012), Đánh giá vai trò của 
D‐Dimer  trong  chẩn  đoán  huyết  khối  tĩnh  mạch  sâu,  y  học 
Tp.HCM. 
Goldenberg  NA,  Manco‐Johnson  MJ  (2008),  Haemophilia, 
Protein  C  deficiency,  page  1214  –  1221,  Blackwell  Publishing 
Ltd. 
Huỳnh  Thị  Thanh  Trang,  Huỳnh  Nghĩa,  Lê  Bạch  Lan,  Phạm 
Thị Huỳnh Giao, Trần Thị Kim Thanh, Nguyễn Văn Tiên, Lê 
Quốc Việt (2008), Bước đầu khảo sát tăng đông trên bệnh nhân 
huyết khối tắc mạch, tạp chí Y học TpHCM. 
Koster T et al (1995), Role of clotting factor VIII in effect of von 

Willebrand  factor  on  occurrence  of  deep‐vein  thrombosis, 
Lancet, 345:152–155. 
Meltzer  ME  (2010),  Venous  thrombosis  risk  associated  with 
plasma hypofibrinolysis is explained by elevated plasma levels 
of TAFI and PAI‐1, volume 116, number 1, American Society 
of Hematology. 
O’Shaughnessy  D,  Makris  M,  Lillicrap  D  (2005),  Practical 
Hemostasis and Thrombosis, Blackwell Publishing Ltd. 
 

150
Chuyên Đề Truyền Máu – Huyết Học  

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 5 * 2013
11.

12.

13.

14.

Rosén  S  and  Casoni  MC  (2006),  Factor  VIII,  Chromogenic 
determination of factor VIII activity in plasma and factor VIII 
concentrates,  Chromogenix  Monograph  Series,  P/n  98087‐32 
Rev.1. 
Trần Thanh Tùng (2009), Tỷ lệ các yếu tố tăng đông trên bệnh 
nhân huyết khối tĩnh mạch sâu tại bệnh viện Chợ Rẫy, Y học 
Việt Nam tháng 3, số 2. 
Trần Thanh Tùng, Lê Trung Nhân, Lê Phước Đậm, Hồ Trọng 

Toàn,  Phó  Phước  Sương  (2012),  Bước  đầu  khảo  sát  hoạt  tính 
một  số  yếu  tố  đông  máu  và  kháng  đông  sinh  lý  trên  người 
khỏe  mạnh  bình  thường  tại  bệnh  viện  Chợ  Rẫy,  Y  học  Việt 
Nam tháng 8 – số đặc biệt. 
van Hylckama Vlieg A (2000), High levels of factor IX increase 
the  risk  of  venous  thrombosis,  American  Society  of 
Hematology. 

 
Ngày nhận bài báo:    
Ngày phản biện:  
 
Ngày bài báo được đăng:  

30 tháng 7 năm 2013 
30 tháng 8 năm 2013 
22 tháng 10 năm 2013 



×