Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Nghiên cứu Y học
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ PHẪU THUẬT NỘI SOI TRÊN CHẤN THƯƠNG
BỤNG KÍN CÓ VỠ BÀNG QUANG TRONG PHÚC MẠC
Nguyễn Xuân Toàn*, Ngô Xuân Thái**, Trần Ngọc Sinh**, Lê Việt Hùng*, Tô Quốc Hân**
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: chấn thương mạnh vào vùng bụng gây vỡ bàng quang trong phúc mạc cũng thường gây vỡ
các tạng khác trong ổ bụng kèm theo, làm lu mờ triệu chứng, dễ bỏ sót thương tổn.
Mục tiêu: Đánh giá kết quả phẫu thuật nội soi ổ bụng trên chấn thương bụng kín có vỡ bàng quang trong
phúc mạc.
Đối tượng – Phương pháp nghiên cứu: trong giai đoạn từ 09/2011 đến 06/2013 tại bệnh viện Chợ Rẫy và
nhân dân Gia Định, 33 bệnh nhân chấn thương bụng kín có vỡ bàng quang trong phúc mạc được phẫu thuật nội
soi ổ bụng khâu bàng quang. Phương pháp: tiến cứu mô tả hàng loạt trường hợp.
Kết quả: Có 26/33 TH vỡ bàng quang trong phúc mạc đơn thuần và 7/33 TH có vỡ bàng quang trong phúc
mạc phối hợp vỡ tạng trong ổ bụng. Phẫu thuật nội soi ổ bụng chẩn đoán được 7/7 TH có thương tổn phối hợp
với vỡ bàng quang trong phúc mạc và điều trị thành công 5/7 trường hợp, không có trường hợp nào tử vong.
Kết luận: PTNS ổ bụng trên bệnh nhân chấn thương bụng kín có vỡ bàng quang trong phúc mạc có giá trị
trong chẩn đoán và điều trị, giảm mở bụng không cần thiết.
Từ khóa: vỡ bàng quang trong phúc mạc, chấn thương bụng kín, phẫu thuật nội soi ổ bụng
ABSTRACT
LAPAROSCOPIC IN BLUNT ABDOMINAL TRAUMA PATIENT WITH INTRAPERITONEAL
BLADDER RUPTURES
Nguyen Xuan Toan, Ngo Xuan Thai, Tran Ngoc Sinh, Le Viet Hung , To Quoc Han
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 – 2014: 45 ‐ 50
Background: A serious abdominal trauma does not only result in bladder rupture but also other intra‐
abdominal organs injuries. The symptoms are not clear and may be easily overlooked.
Objective: To evaluate the role of laparoscopic in blunt abdominal trauma patient with intra‐peritoneal
bladder rupture.
Method: We performed prospective case‐series study, from September 2011 to June 2013 in Cho Ray
hospital and Gia Dinh People’s hospital; upon 33 patients who had intra‐peritoneal bladder rupture secondary to
blunt abdominal trauma. All patient were evaluated by laparoscopic.
Results: 26 over 33 isolated intra‐peritoneal bladder rupture and 7 over 33 intra‐peritoneal bladder rupture
combined with other abdominal organs injury. (Out of 33 intra‐peritoneal cases, 26 cases involved only bladder
rupture while the other 7 cases also involved other abdominal organs injury). Laparoscopy diagnosed 7 over 7
cases with intra‐abdominal organs trauma and treated 5 over 7 cases, no mortal.
Conclusion: Laparoscopy proved to be useful for blunt abdominal trauma patients with intra‐peritoneal
bladder rupture as a diagnostic and therapeutic tool. By applying Laparoscopy with the appropriate amount of
expertise; medical experts could avoid unnecessary laparotomies.
Keywords: intra‐peritoneal bladder rupture, blunt abdominal trauma, laparoscopic
* Bệnh viện Nhân dân Gia Định TPHCM ** Đại học Y Dược TPHCM
Tác giả liên lạc: Nguyễn Xuân Toàn ĐT: 0914038922 Email:
Niệu Khoa
45
Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
ĐẶT VẤN ĐỀ
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Ổ bụng là một khoang lớn trong cơ thể và
chứa nhiều tạng nhưng lại không có cấu trúc
xương che đỡ xung quanh nên vùng bụng rất dễ
bị tổn thương khi có chấn thương. Tổn thương
ruột, gan, lách, tụy, thận là những tổn thương
hay gặp trong chấn thương bụng kín (CTBK).
Riêng bàng quang nằm dưới thấp hơn và được
bao quanh bởi các xương chậu nên được bảo vệ
tốt hơn đối với các chấn thương vùng bụng. Bên
cạnh đó chấn thương mạnh vào vùng bụng gây
vỡ bàng quang trong phúc mạc (VBQTPM) cũng
thường gây ra các chấn thương khác kèm theo
như vỡ tạng đặc (gan, lách) hay tạng rỗng (ruột
non, đại tràng), làm lu mờ triệu chứng đường
tiết niệu, dễ bỏ sót thương tổn. Chấn thương
bàng quang trong chấn thương bụng kín hiếm
khi nào là chấn thương đơn thuần, 80% đến 94%
bệnh nhân có chấn thương ngoài hệ niệu(4,5).
Thiết kế nghiên cứu
Việc áp dụng kỹ thuật mổ nội soi trong phẫu
thuật chương trình ngày càng rộng rãi trong chỉ
định và chọn bệnh, riêng phẫu thuật nội soi
trong cấp cứu niệu vẫn còn nhiều hạn chế và dè
dặt. Đối với chấn thương bụng, thái độ xử trí có
nhiều thay đổi nhằm đạt được mục đích: giảm tỉ
lệ mở bụng thám sát hay mở bụng không điều
trị, can thiệp đúng thời điểm, giảm tỉ lệ bỏ sót
thương tổn trong ổ bụng. Thỏa mãn mục tiêu
đó, phẫu thuật nội soi (PTNS) ổ bụng là phương
pháp tốt không những trong chẩn đoán mà còn
điều trị.
Vì vậy câu hỏi đặt ra cho nghiên cứu: Khi
bệnh nhân chấn thương bụng kín có vỡ bàng
quang trong phúc mạc sẽ được chẩn đoán và
điều trị ra sao? PTNS ổ bụng có vai trò như thế
nào trên bệnh nhân chấn thương bụng kín có
vỡ bàng quang trong phúc mạc?
MỤC TIÊU
Đánh giá kết quả phẫu thuật nội soi ổ bụng
trong chấn thương bụng kín có vỡ bàng quang
trong phúc mạc.
46
Nghiên cứu được thiết kế theo: tiến cứu mô
tả hàng loạt trường hợp.
Thực hiện từ tháng 9/2011 đến tháng 6/2013.
Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Chúng tôi chọn tất cả bệnh nhân chấn
thương bụng kín có vỡ bàng quang nhập viện
Chợ Rẫy và Nhân dân Gia Định, trong khoảng
thời gian nghiên cứu, có đủ tiêu chuẩn chọn
bệnh.
Tiêu chuẩn chọn bệnh
Bệnh nhân được chẩn đoán VBQTPM sau
chấn thương bụng kín: được xác định qua
bệnh cảnh lâm sàng, khám thực thể, siêu âm,
chọc dò ổ bụng, chụp bàng quang cản quang
ngược chiều (cystography) và/hoặc chụp cắt
lớp điện toán (Computerized Tomography
scan ‐ CT scan).
Bệnh nhân VBQTPM sau chấn thương bụng
kín có kèm vỡ gan, lách, ruột, gãy khung chậu,
chấn thương sọ não, gãy các xương chi nhưng
sinh hiệu và tri giác ổn định.
Tiêu chuẩn loại trừ
Bệnh nhân bị vỡ bàng quang thể đụng dập
(contusion) không mổ, vỡ/thủng bàng quang do
vết thương thấu bụng như dao, súng cọc nhọn
có vết thương thông với môi trường bên ngoài.
Bệnh nhân có tình trạng huyết động học
không ổn định sau hồi sức tích cực ban đầu.
Bệnh nhân mắc các bệnh về huyết học hay
rối loạn đông máu – cầm máu.
Bệnh nhân có tiền căn phẫu thuật vùng bụng
‐ chậu trước đó.
Bệnh nhân VBQTPM nhưng tri giác xấu
(điểm Glassgow < 10 điểm) có hoặc không kèm
chấn thương sọ não.
Bệnh nhân vỡ bàng quang trong bệnh cảnh
phức tạp”Down Trouser’s injury” (kèm gãy
Chuyên Đề Ngoại Khoa
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
khung chậu + rách/đứt niệu đạo ‐ trực tràng ‐
âm đạo).
Bệnh nhân đang trong bệnh cảnh sốc
nhiễm trùng.
Bệnh nhân bị suy hô hấp do thương tổn
lồng ngực sau chấn thương hay thương tổn
phổi mạn tính.
Bệnh nhân có chống chỉ định của gây mê
toàn thân.
KẾT QUẢ
Trong thời gian từ tháng 9/2011 đến tháng
6/2013, bệnh viện Chợ Rẫy và bệnh viện Nhân
dân Gia Định đã tiếp nhận 33 trường hợp chấn
thương bụng kín có VBQTPM được phẫu
thuật nội soi ổ bụng, có 26 trường hợp
VBQTPM đơn thuần và 7 trường hợp
VBQTPM phối hợp. Các bệnh nhân này đã
được phẫu thuật khâu bàng quang và thám sát
qua nội soi ổ bụng. Không có bệnh nhân nào
tử vong trong nhóm nghiên cứu này.
Phân bố tuổi và giới tính
Có 32 bệnh nhân nam (97%) và 1 bệnh
nhân nữ (3%).
Tuổi trung bình 32 tuổi ± 9 (10 – 54).
Bảng 1: Nguyên nhân gây VBQTPM
Số TH
30
3
Tỉ lệ (%)
90
10
Tổn thương phối hợp trong chấn thương
bụng kín
Bảng 2: Tổn thương phối hợp vỡ bàng quang trong
chấn thương bụng kín.
Thương tổn phối hợp
Trong ổ bụng
Vỡ gan
Vỡ lách
Vỡ ruột non
Rách mạc treo ruột
Rách thanh mạc đại trực tràng
Ngoài ổ bụng
Chấn thương đầu mặt
Chấn thương ngực
Niệu Khoa
Số TH
7
2
1
1
1
2
13
8
3
Số TH
9
2
Tỉ lệ (%)
27,3
6,1
Trong số 33 TH của nhóm nghiên cứu có 26
TH (78,8%) là vỡ bàng quang đơn thuần, vỡ
bàng quang trong phúc mạc phối hợp với các
thương tổn khác trong ổ bụng có tỉ lệ ít hơn,
với 7 TH (21,2%).
32/33 TH (97%) được chẩn đoán VBQTPM
trước mổ, 1 TH (3%) được chẩn đoán trong lúc
nội soi ổ bụng (do phẫu thuật viên Ngoại tổng
quát thực hiện).
Kết quả phẫu thuật
Thời gian phẫu thuật
Thời gian trung bình cho phẫu thuật là
108,7 phút ± 63,5 (45‐200).
Thời gian phẫu thuật trung bình của mỗi
nhóm:
‐ VBQTPM đơn thuần: 108,11 phút ± 37,34
‐ VBQTPM phối hợp: 110,85 phút ± 27,78.
Thời gian nằm viện trung bình bệnh nhân là
6,8 ngày ± 1.6.
‐ Nhóm VBQTPM đơn thuần là 6,5 ngày ±
1,6.
‐ Nhóm VBQTPM phối hợp là 7,7 ngày
Nguyên nhân gây chấn thương
Nguyên nhân gây chấn thương
Tai nạn giao thông
Tai nạn lao động
Thương tổn phối hợp
Gãy xương chi
Gãy khung chậu
Nghiên cứu Y học
Tỉ lệ (%)
21,2
6,1
3
3
3
6,1
39,4
24,2
9,1
1.
Thời gian rút ống dẫn lưu
Thời điểm rút ống dẫn lưu trung bình của 2
nhóm VBQTPM là:
‐ VBQTPM đơn thuần 3,11 ngày ± 0,86.
‐ VBQTPM phối hợp 4,14 ngày ± 1,07.
Triệu chứng sau mổ
Bảng 3: Triệu chứng sau mổ
Triệu chứng VBQTPM đơn VBQTPM phối Tổng cộng
thuần
hợp
Sốt
Không
17
5
22
Có
9
2
11
Đau bụng
Không
18
0
18
01 ngày
5
2
7
02 ngày
3
5
8
Trung tiện
Ngày 02
14
1
14
47
Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Triệu chứng VBQTPM đơn VBQTPM phối Tổng cộng
thuần
hợp
Ngày 03
10
5
15
Ngày 04
1
1
2
Ngày 05
1
1
2
Thời gian nằm viện
Thời gian nằm viện trung bình bệnh nhân là
6,8 ngày ±1,6.
Nhóm VBQTPM đơn thuần là 6,5 ngày ±1,6.
Nhóm VBQTPM phối hợp là 7,7 ngày ± 1.
BÀN LUẬN
Trong nhóm nghiên cứu của chúng tôi có
26/33 trường hợp (78,8%) là VBQTPM đơn
thuần được PTNS khâu bàng quang. Có 7/33
trường hợp có thương tổn tạng khác kèm theo
trong ổ bụng, trong đó có 2 trường hợp được
chẩn đoán trước mổ và 5 trường hợp chỉ phát
hiện được thương tổn trong nội soi ổ bụng.
Ngoài ra bệnh nhân VQBTPM còn có kèm các
sang thương khác trong bệnh cảnh đa chấn
thương phối hợp.
Khi tiếp cận một bệnh nhân chấn thương
bụng vào cấp cứu, câu hỏi đặt ra cho các bác sĩ:
bệnh nhân có tổn thương tạng trong ổ bụng
hay không? Nếu có thì cần can thiệp ngoại
khoa cấp cứu hay là theo dõi thêm? Nếu
không chắc chắn về tổn thương thì tiếp tục
theo dõi hay cho bệnh nhân xuất viện. Khi
kinh nghiệm của phẫu thuật viên ngày càng
tăng thì mở ra hướng mới cho phẫu thuật xâm
hại tối thiểu trong chẩn đoán cũng như điều trị
cho bệnh nhân(2). Theo khuyến cáo của Hội
Phẫu Thuật Nội Soi Châu Âu, nội soi ổ bụng
được cân nhắc trong chẩn đoán bệnh nhân sau
chấn thương bụng (mức độ tin cậy B và C)(7).
Trong nghiên cứu của chúng tôi có 7 trường
hợp VBQTPM phối hợp chiếm 21,2% trường
hợp VBQTPM được PTNS vừa thám sát và điều
trị chấn thương trong ổ bụng. Trong đó có 3
trường hợp được chẩn đoán có tổn thương gan,
lách trước mổ.
‐ 1 trường hợp vỡ lách, bệnh nhân nhập viện
có dấu hiệu tụt huyết áp và mạch nhanh, đã
48
được truyền máu và hồi sức tại cấp cứu, bệnh
nhân được phẫu thuật khi huyết động ổn định.
Trong mổ ghi nhận dịch ổ bụng đỏ sậm kèm
theo có máu đông ở hạ vị và hố lách, khoảng 300
gram. Lách vỡ độ III, đường vỡ chưa đến cuống
lách, vỡ bao lách nhưng không thấy máu đang
chảy ở vết rách của lách, chỉ có vài vị trí chảy
máu ở dây chằng lách – đại tràng bị đứt. Quyết
định bảo tồn lách, đốt cầm máu chỗ dây chằng
đứt, sau đó khâu vỡ bàng quang, rửa sạch ổ
bụng. Bệnh nhân được đặt 1 ống dẫn lưu vùng
Douglas, không đặt dẫn lưu ở hố lách vì máu đã
đông nên ống dẫn lưu không có tác dụng thoát
dịch mà chỉ theo dõi tình trạng chảy máu, tuy
nhiên ống có thể làm bung cục máu đông làm
chảy máu thì hai. Theo các báo cáo của tác giả
Andrea Carobbi (2010)(3): cắt lách qua PTNS
10/12 trường hợp chấn thương bụng vỡ lách, 1
trường hợp bảo tồn lách. PTNS đối với các
trường hợp chấn thương lách cần can thiệp
phẫu thuật là an toàn và hiệu quả.
‐ 2 trường hợp vỡ gan được chẩn đoán
trước mổ. Bệnh nhân không có dấu hiệu mất
máu nặng tại cấp cứu, chỉ được truyền dịch.
Huyết động bệnh nhân ổn định khi được tiến
hành PTNS ổ bụng. Trong mổ ghi nhận 1
trường hợp dập gan độ I, 1 trường hợp dập
gan độ II, có máu tụ dưới bao gan, dịch máu
trong bụng không nhiều, không thấy tổn
thương khác kèm theo. Chấn thương gan được
điều trị bảo tồn, bệnh nhân được khâu bàng
quang và đặt dẫn lưu Douglas.
Cả 3 trường hợp trên bệnh nhân có tổn
thương tạng đặc kèm theo đã được chẩn đoán
trước mổ, trong lúc PTNS cho phép đánh giá rõ
ràng tổn thương hơn, có thể xác định tình trạng
chảy máu hiện thời, giúp ra kế hoạch điều trị
thích hợp, cả 3 trường hợp đều được điều trị bảo
tồn thành công.
Chúng tôi có 4 TH tổn thương tạng rỗng
phối hợp với vỡ bàng quang. Cả 4 trường hợp
đều chỉ được chẩn đoán trong lúc nội soi ổ bụng.
‐ 1 trường hợp vỡ hồi tràng: Bệnh nhân nhập
viện trong bệnh cảnh CTBK sau tai nạn giao
Chuyên Đề Ngoại Khoa
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
thông, không có dấu hiệu choáng. Bệnh nhân đi
tiểu ít, nước tiểu đỏ qua thông niệu đạo, kèm
đau bụng dưới. Khám lâm sàng trước mổ có đề
kháng thành bụng. Chụp cắt lớp trước mổ có
thuốc cản quang trong dịch ổ bụng, không thấy
hơi tự do trong ổ bụng, chỉ thấy hình ảnh dày
thành đoạn ruột non và dịch ổ bụng. Trường
hợp này được chẩn đoán VBQTPM trước mổ,
bệnh nhân được PTNS. Khi vào bụng và quan
sát qua trocar đầu tiên thấy có dịch tiêu hóa
trong ổ bụng, sau đó chuyển mổ mở, một đoạn
hồi tràng khoảng 15 cm, cách góc hồi manh
tràng khoảng 70 cm, dập nát, có chổ vỡ. Xử trí:
cắt đoạn ruột non, nối tận – tận, được thực hiện
bởi phẫu thuật viên ngoại tổng quát. PTNS
trong trường hợp này có giá trị chẩn đoán, giúp
phát hiện sớm thương tổn, đây không phải là
thất bại của PTNS. Theo báo cáo Pietro(2011)(9)
đã nội soi chẩn đoán và khâu ruột non vỡ cho 1
trường hợp, tác giả kết luận: phẫu thuật nội soi ổ
bụng đã có vai trò rõ ràng trong chẩn đoán và
điều trị vỡ ruột non trong chấn thương. Với
bệnh nhân có huyết động ổn định PTNS cho
phép chẩn đoán sớm và hướng đến điều trị
tránh chẩn đoán muộn và mở bụng không cần
thiết(8,9).
‐ 1 trường hợp rách mạc treo ruột chỉ phát
hiện khi nội soi ổ bụng. Bệnh nhân không có
triệu chứng đau bụng hay đề kháng thành bụng
khi thăm khám, chụp CT cũng không phát hiện
thương tổn. Mạc treo hồi tràng có vết rách
khoảng 5 cm, có máu đông ở vết rách và đoạn
ruột non tương ứng còn hồng, không có dấu
hiệu thiếu máu hay tụ máu ở thành ruột. Sau khi
kiểm tra và hội chẩn với bác sĩ ngoại tổng quát
bệnh nhân được điều trị bảo tồn. Sau mổ không
có dấu hiệu vỡ ruột non muộn.
‐ 2 trường hợp rách thanh mạc đại tràng
phát hiện trong mổ. Đại tràng sigma là đoạn đại
tràng di động khó chấn thương, đoạn ranh giới
giữa đại tràng sigma và trực tràng (cố định) rất
dễ chấn thương vì bị giằng xé, khi có chấn động
mạnh vào vùng hạ vị gây vỡ bàng quang cũng
ảnh hưởng đến đoạn đại tràng này vì nằm gần
Niệu Khoa
Nghiên cứu Y học
sát bàng quang. Trong đó 1 trường hợp đại
tràng chướng hơi, giãn lớn gây khó khăn cho
thao tác khâu bàng quang nên được chuyển mổ
mở khâu bàng quang và khâu tăng cường thành
đại tràng. Trường hợp còn lại, thanh mạc đại
tràng xích‐ma và trực tràng có vết rách khoảng 4
cm, không thấy tổn thương niêm mạc, chúng tôi
tiến hành khâu thanh mạc đại tràng qua nội soi,
khâu 3 mũi đơn bằng chỉ vicryl 3.O. Sau mổ
bệnh nhân được nuôi ăn qua đường tĩnh mạch 3
ngày và không có biến chứng gì.
Trong cả 4 TH trên, tổn thương ruột chỉ
được đánh giá trong mổ, và có 3 TH có thể giải
quyết tốt bằng nội soi, 1 TH chuyển mổ mở giúp
giải quyết kịp thời, đem lại an toàn cho bệnh
nhân.
Qui trình thám sát ổ bụng(1,6)
Tổng hợp từ kinh nghiệm và y văn trong và
ngoài nước, chúng tôi đề ra qui trình thám sát ổ
bụng qua nội soi:
‐ Bệnh nhân được mê nội khí quản.
‐ Vào trocar rốn, 10cm, có thể dùng
phương pháp kín hay hở tùy kinh nghiệm
phẫu thuật viên.
‐ Bơm khí CO2 vào ổ bụng với áp lực từ 5‐8
mm Hg, tốc độ 1‐2 lít/phút, qua trocar rốn quan
sát hai vòm hoành trong khi tư thế bệnh nhân
đầu cao để chắc chắn không có rách cơ hoành,
quan sát dịch ổ bụng. Sau đó có thể tăng áp lực
khí lên 8‐10 mmHg, vào tiếp 2 trocar thao tác.
‐ Kiểm tra một cách hệ thống. Bắt đầu từ bên
(P) ở phía dưới cơ hoành, kiểm tra các tạng đặc,
vùng tâm vị, dạ dày, đại tràng lên, đại tràng
ngang. Kiểm tra tầng bụng dưới bắt đầu từ góc
hồi manh tràng, lần theo ruột non đi ngược lên
đến hổng tràng gần góc Treitz. Kiểm tra tiểu
khung, bàng quang, đại tràng xuống, đại tràng
xích ma, trực tràng, tử cung và hai phần phụ.
Quan sát sau phúc mạc, xem có hình ảnh tụ
máu, tụ dịch hay không.
‐ Trong trường hợp cần thiết phải mở mạc
nối giữa đại tràng ngang và bờ cong lớn dạ dày
để vào hậu cung mạc nối nhằm phát hiện vỡ tá
49
Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
tràng, vỡ tụy.
Đối với các phẫu thuật viên tổng quát 2
trocar thao tác thường đặt cao ngang rốn theo
đường nách giữa để dễ kiểm tra toàn bộ ổ
bụng, nhưng ngược lại sẽ khó khăn khi khâu
bàng quang.
Trong quá trình tiến hành PTNS chúng tôi
nhận thấy: kỹ thuật khâu trong nội soi đối với
các phẫu thuật viên niệu khoa có kinh nghiệm
không phải là khó. Trong phẫu thuật mở niệu
quản lấy sỏi thời gian một mũi khâu chỉ khoảng
3‐5 phút, tuy nhiên trong PTNS khâu bàng
quang thời gian thường kéo dài hơn và khó
khăn hơn. Có thể do tư thế mổ khó khăn vì
trocar đặt hai bên hố chậu nên phải dang tay
rộng gây dễ mỏi và thao tác kém linh hoạt. Mặt
khác, vết rách bàng quang có hình dạng bất kì,
sau khi bàng quang xẹp có thể nằm sát lên thành
bụng trước cũng gây khó khăn.
Chúng tôi chủ trương đặt 2 trocar thao tác
sau khi quan sát tổn thương bàng quang, không
nhất thiết phải ở hai hố chậu, mục đích giúp
thao tác dễ dàng và thuận lợi nhất đem lại an
toàn cho bệnh nhân. Các vị trí đặt trocar cần
tránh bó mạch thượng vị dưới. Trong trường
hợp khó khăn không nên ngần ngại thêm trocar
thứ 4, chúng tôi quan niệm: một đường rạch da
nhỏ khoảng 0,7cm không làm ảnh hưởng đến
bệnh nhân nhưng có thể mang lại nhiều lợi ích.
Yêu cầu khi đặt trocar: khoảng cách giữa các
trocar đủ xa để tạo khoảng trống thao tác, 3
trocar không nằm trên một đường thẳng.
Cách đặt trocar có thể thay đổi tùy theo mỗi
phẫu thuật viên và tùy theo tổn thương quan sát
được trong mổ, để đạt được sự thoải mái và
hiệu quả cao nhất cho bệnh nhân.
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu 33 TH VBQTPM được điều
trị bằng phẫu thuật nội soi tại bệnh viện Chợ
Rẫy và Nhân dân Gia Định trong thời gian từ
tháng 9/2011 đến tháng 6/2013, chúng tôi rút ra
những kết luận sau:
Phẫu thuật nội soi ổ bụng chẩn đoán được
50
7/7 TH có thương tổn phối hợp với vỡ bàng
quang trong phúc mạc và điều trị thành công 5/7
trường hợp, không có trường hợp nào tử vong.
Đối với bệnh nhân chấn thương bụng kín
không phải chỉ có vỡ bàng quang đơn thuần mà
cần nghĩ đến những thương tổn khác trong ổ
bụng. PTNS ổ bụng có vai trò nhất định trong
thám sát chẩn đoán các thương tổn kèm theo.
Tỉ lệ thành công của phẫu thuật nội soi ổ
bụng trên chấn thương bụng kín có vỡ bàng
quang trong phúc mạc là 93,9% với thời gian
nằm viện trung bình 7 ngày.
PTNS điều trị vỡ bàng quang trong phúc
mạc có khả năng áp dụng không chỉ với vỡ bàng
quang đơn thuần mà còn có giá trị trong vỡ
bàng quang phối hợp với các tạng khác trong ổ
bụng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.
9.
Addeoa P, Calabreseb DP (2011). Diagnostic and therapeutic
value of laparoscopy for small bowel blunt injuries: A case
report. Int J Surg Case Rep., 2(8): 316–318.
Ahmed A (2011). A review on the role of Laparoscopy in
abdominal trauma. World journal of laparoscopic surgery, 13‐17.
Carobbi A, Romagnani F, Antonelli G, Bianchini M (2010).
Laparoscopic splenectomy for severe blunt trauma: initial
experience of ten consecutive cases with a fast hemostatic
technique. Surgical Endoscopy, Volume 24, Issue 6, pp 1325‐
1330.
Cass AS, Luenberg M (1987). ”Features of 164 bladder
ruptures”. J Urol, 138(4):743‐745.
Parry NG, Rozycki GS, Feliciano DV, Tremblay LN, Cava RA,
Voeltz Z, Carney J, (2003). ”Traumatic rupture of the urinary
bladder: Is the suprapubic tube Necessary?”. The Journal of
Trauma: Injury, Infection and Critical care, Vol 54(3):431‐436.
SAGE (2002). Guidelines for Diagnostic Laparoscopy. Retrieved from
Society of American Gastrointestinal and Endoscopic Surgeons:
/>diagnostic‐laparoscopy/
Sauerland S, Agresta F, et al (2006). Review Laparoscopy for
abdominal emergencies: evidence‐based guidelines of the
European Association for Endoscopic Surgery. Surg Endosc.,
20(1):14‐29.
Shih HC, Wen YS, Ko TJ, Wu JK, Su CH, Lee CH (1999).
Noninvasive evaluation of blunt abdominal trauma:
prospective study using diagnostic algorithms to minimize
nontherapeutic laparotomy. World J Surg, 23(3):265‐69;
discussion 269‐70.
Trương Vĩnh Quý (2012). Nghiên cứu ứng dụng PTNS trong
chẩn đoán và xử trí chấn thương bụng. Tạp chí PTNS Việt
Nam, tập 2, số 1.
Ngày nhận bài báo: 15/11/2013
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 21/11/2013
Chuyên Đề Ngoại Khoa