Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Khảo sát tần suất, đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và kết quả điều trị ngắn hạn các thể suy thận do nguyên nhân khác nhau trên bệnh nhân xơ gan

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (457.92 KB, 6 trang )

Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013

KHẢO SÁT TẦN SUẤT, ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG  
VÀ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ NGẮN HẠN CÁC THỂ SUY THẬN  
DO NGUYÊN NHÂN KHÁC NHAU TRÊN BỆNH NHÂN XƠ GAN 
Lý Phạm Hoàng Xuân* 

TÓM TẮT 
Tổng quan: Hội chứng gan thận là một thể đặc biệt của suy thận trên bệnh nhân xơ gan, điều trị rất tốn 
kém nhưng thời gian sống còn trung bình rất thấp. Tuy nhiên, ngoài hội chứng gan thận còn có các nguyên 
nhân khác cũng gây suy thận trên bệnh nhân xơ gan và hiện nay có rất ít dữ liệu về các thể suy thận này.  
Mục tiêu: Khảo sát tần suất, đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và kết quả điều trị ngắn hạn các thể suy thận 
do nguyên nhân khác nhau trên bệnh nhân xơ gan. 
Phương pháp và đối tượng: Nghiên cứu cắt ngang 81 trường hợp xơ gan và suy thận tại Bệnh viện Nhân 
Dân Gia Định từ 01/01/2010 đến 30/06/2011. 
Kết quả và bàn luận: Các nguyên nhân suy thận bao gồm: thường nhất là nhiễm trùng (29,6%) và giảm 
thể tích (22,2%), theo sau là hội chứng gan thận (13,6%) và bệnh nhu mô thận (12,3%). Nhóm suy thận do bệnh 
nhu mô thận có PT, nồng độ bilirubin máu, tỷ lệ bệnh nhân xơ gan Child – Pugh C và điểm MELD trung bình 
thấp hơn các nhóm còn lại (p<0,05). Bệnh nhân suy thận do bệnh nhu mô thận có kết quả điều trị ngắn hạn tốt 
nhất, theo sau là do giảm thể tích hay nhiễm trùng. Cuối cùng là hội chứng gan thận có kết quả điều trị ngắn hạn 
kém nhất (p< 0,0001). 
Từ khóa: Child, hội chứng gan thận, kết quả điều trị, MELD, suy thận, xơ gan. 

ABSTRACT 
SURVEY THE ETIOLOGY, THE CLINICAL AND LABORATORY FEATURES AND SHORT‐TERM 
TREATMENT RESULTS OF DIFFERENT TYPES OF RENAL FAILURE IN CIRRHOTIC PATIENTS 
Ly Pham Hoang Xuan * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 3‐ 2013: 46 ‐ 52 
Background: Hepatorenal syndrome is a well – characterized type of renal failure that occurs in patients 
with cirrhosis. Treatment of hepatorenal syndrome is considered too expensive but the average survival time is 


very short. However, cirrhotic patients may also suffer from other types of renal failure and information about 
these types is scarce.  
Aims: To investigate the etiology, the clinical and laboratory features and short‐term treatment results of 
different types of renal failure in cirrhotic patients.  
Patients  and  methods: This is a cross‐sectional study of 81 patients who were diagnosed with cirrhosis 
and renal failure during the period from January 2010 to June 2011 in the Gia Dinh People hopistal.  
Results and conclusions: The most frequent type was renal failure caused by infection (29,6%) and renal 
failure  caused  by  hypovolemia  (22,2%),  followed  by  hepatorenal  syndrome  (13,6%)  and  parenchymal 
nephropathy  (12,3%).  Parenchymal  nephropathy  had  lower  prothrombin  time,  lower  bilirubin  level,  lower 
percentage  of  Child  –  Pugh  class  C  patients  and  lower  MELD  score  in  compare  with  the  other  types  of  renal 
failure  in  cirrhotic  patients  (p  ≤  0,05).  Parenchymal  nephropathy  had  the  best  short‐term  treatment  result, 
followed  by  pre‐renal  failure.  Finally,  hepatorenal  syndrome  had  the  worst  short‐term  treatment  result  (p  ≤ 
* Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch 
Tác giả liên lạc: BS. Lý Phạm Hoàng Xuân 

46

ĐT: 0975 143 127  Email:  

Hội nghị Khoa Học Kỹ thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 

Nghiên cứu Y học

0,0001). 
Keywords: Child, hepatorenal syndrome, treatment result, MELD, renal failure, cirrhosis 
gây suy thận trên bệnh nhân xơ gan  
ĐẶT VẤN ĐỀ 

Xơ gan là một bệnh lý phổ biến, nhiều biến 
chứng và tỷ lệ tử vong cao. Tiên lượng cho bệnh 
nhân  có  xơ  gan  và  suy  thận  là  rất  xấu.  Tuy 
nhiên, tỷ lệ sống còn có thể khác nhau tùy theo 
nguyên  nhân  suy  thận.  Bệnh  nhân  hội  chứng 
gan thận điều trị tốn kém nhưng thời gian sống 
còn  trung  bình  thấp.  Nhưng  trên  thực  tế  lâm 
sàng,  khi  một  bệnh  nhân  xơ  gan  vào  viện  phát 
hiện suy thận thì chúng ta thường nghĩ rằng là 
hội chứng gan thận. Mặc dù còn nhiều nguyên 
nhân khác gây suy thận nhưng chưa được chú ý 
đúng mức. Hiện tại trên thế giới có rất ít nghiên 
cứu  về  các  thể  suy  thận  do  nguyên  nhân  khác 
nhau  trên  bệnh  nhân  xơ  gan  cũng  như  ở  Việt 
Nam chưa có nghiên cứu nào về đề tài này. 

Mục tiêu nghiên cứu 
Mục tiêu tổng quát 
Khảo  sát  tần  suất,  đặc  điểm  lâm  sàng,  cận 
lâm  sàng  và  kết  quả  điều  trị  ngắn  hạn  các  thể 
suy thận do nguyên nhân khác nhau trên bệnh 
nhân xơ gan tại Bệnh viện Nhân Dân Gia Định 
từ 01/01/2010 đến 30/06/2011. 
Mục tiêu chuyên biệt 
‐ Xác định tỷ lệ các thể suy thận do nguyên 
nhân khác nhau trên bệnh nhân xơ gan. 
‐  Phân  tích  các  đặc  điểm  lâm  sàng  và  cận 
lâm sàng của các thể suy thận do nguyên nhân 
khác nhau trên bệnh nhân xơ gan 
‐ Đánh giá kết quả điều trị ngắn hạn (trong 

thời  gian  nằm  viện)  tùy  theo  các  nguyên  nhân 

tại  Bệnh  viện  Nhân  Dân  Gia  Định  từ 
01/01/2010 đến 30/06/2011. 

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Nghiên cứu cắt ngang trên 81 trường hợp xơ 
gan và suy thận được khám và điều trị tại Bệnh 
viện  Nhân  Dân  Gia  Định  từ  01/01/2010  đến 
30/06/2011. 

Tiêu chuẩn chọn 
Tất cả bệnh nhân được nhập bệnh viện Nhân 
Dân  Gia  Định  từ  ngày  01/01/2010  đến  30/06/2011 
với chẩn đoán xơ gan và suy thận theo tiêu chuẩn 
chẩn đoán và có hồ sơ lưu trữ tại bệnh viện. 

Chẩn đoán xác định xơ gan khi thỏa 3 tiêu chuẩn 
‐  Dịch  màng  bụng  có  SAAG  ≥  1,1  g/dL, 
Protein  <  2,5  g/  dL  hay  các  dấu  hiệu  khác  của 
tăng  áp  cửa  (lách  to,  tuần  hoàn  bàng  hệ,  giãn 
tĩnh mạch thực quản)  chứng minh có tăng áp 
của tại và sau gan. 
‐ Có ít nhất 2 triệu chứng của hội chứng suy 
tế bào gan trên lâm sàng và cận lâm sàng (vàng 
da, sao mạch, lòng bàn tay son, nữ hóa tuyến vú, 
phù, bầm máu, INR kéo dài, Albumin máu giảm). 
‐ Siêu âm hay CT scan cho thấy tổn thương 
gan mạn (cấu trúc thô...), chỉ số APRI ≥ 1  đánh 
giá  mức  độ  xơ  hóa  (Fibroscan  gan  không  áp 

dụng được trong nghiên cứu này). 

Tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh nhân suy thận 
Creatinin  máu  ≥  1,5  mg/dl  (132  μmol/l)  lúc 
nhập viện hay quá trình nằm viện. 

Bảng 1: Định nghĩa các nguyên nhân suy thận trên bệnh nhân xơ gan 
Nguyên nhân

Định nghĩa
Giảm thể tích do xuất huyết, xuất huyết tiêu hóa (ói máu, đi cầu phân đen, đi cầu ra máu), do mất dịch:
qua thận (do dùng lợi tiểu quá mức) hay qua đường tiêu hóa (tiêu chảy là tiêu phân nhiều nước, trên 3
lần/24 giờ) hay do tháo báng lượng nhiều mà không bù dịch (tháo >5 lít dịch báng mà không truyền
Do giảm thể tích
albumin). Suy thận xảy ra ngay sau khi giảm thể tích và chức năng thận có cải thiện sau khi bù dịch, cải
thiện sau phục hồi thể tích tuần hoàn và không có nguyên nhân nào khác gây suy thận.
Ho, thở nhanh (>20 lần/phút) và sốt (>37,8oC) với ít nhất một dấu hiệu bất thường như rì rào
Do nhiễm trùng: khi
nhiễm trùng xuất Viêm phổi phế nang giảm, ran phế quản và ran nổ, Xquang phổi có tổn thương thâm nhiễm (đám mờ
trên phim) mới xuất hiện.
hiện trong vòng
48h lúc có sự gia
Nhiễm
Tiểu gắt buốt, tiểu lắt nhắt, tiểu nhiều lần, có thể kèm sốt và đau hông lưng, tổng phân tích
tăng creatinin máu trùng tiểu
nước tiểu có bạch cầu hay nitrit dương, cấy nước tiểu giữa dòng có ít nhất 105 khúm vi

Hội nghị Khoa Học Kỹ thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 

47



Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013

Nguyên nhân

Định nghĩa
khuẩn/ ml nước tiểu.
Có ổ nhiễm trùng và/ hoặc cấy máu (+) kèm hội chứng đáp ứng viêm toàn thân (2 trong 4
triệu chứng sau):
Nhiệt độ tăng > 38°C hoặc < 36°C
Nhiễm
trùng huyết
Tần số tim > 90 lần/phút
Tần số thở > 20 lần/phút hoặc PaCO2 < 32 mmHg (khí trời).
Bạch cầu> 12 000 hoặc < 4000/ mm3, hoặc > 10% bạch cầu non
Nhiễm
Sốt, đau bụng lan tỏa, rối loạn tri giác. Dịch báng: bạch cầu đa nhân > 250/mm3, bạch cầu đa
trùng báng
nhân chiếm trên 50% tổng số bạch cầu và/ hoặc cấy dịch báng dương tính.
Nhiễm Tam chứng Charcot (đau hạ sườn phải, sốt ớn lạnh, vàng da), đề kháng khu trú hạ sườn phải
hay có phản ứng thành bụng, bạch cầu > 12000/ mm3, có bạch cầu non, CRP tăng, Bilirubin,
trùng
ALP, GGT tăng.
đường mật
Nhiễm
Có tình trạng viêm của da: da sưng, nóng, đỏ, đau, có thể kèm sốt, mủ thoát nước từ da, cấy
trùng da

mủ dương tính.
Protein niệu (>500 mg protein/ ngày), tiểu máu (>50 hồng cầu/ quang trường x40), có tế bào biểu mô ống
Bệnh nhu mô thận
thận trong nước tiểu, siêu âm: thận teo nhỏ, tủy và vỏ thận không phân biệt.
Do thuốc
Hiện tại hay gần đây có dùng thuốc độc thận như thuốc kháng viêm non-steroid hoặc aminoglycoside.
Creatinin máu > 1,5mg/dL hay độ thanh thải creatinine <40ml/phút
Không có choáng, nhiễm trùng đang diễn tiến, giảm thể tích hoặc đang dùng thuốc độc
thận.
Tiêu chuẩn của
câu lạc bộ
Không cải thiện chức năng thận sau ngưng lợi tiểu hoặc sau truyền 1,5 lít dung dịch
báng quốc tế
đẳng trương.
Hội chứng gan
Đạm niệu < 500mg% và siêu âm thận bình thường, không bế tắc đường tiểu, không
thận
bệnh nhu mô thận.
Biểu hiện giảm chức năng thận tiến triển nhanh biểu hiện creatinin máu tăng gấp đôi và
Loại 1
trên 2,5 mg/dL hay độ thanh thải creatinin giảm 50% so với 24 giờ đầu và dưới 20mL/phút
trong vòng 2 tuần.
Loại 2
Suy thận diễn tiến chậm hơn, biểu hiện lâm sàng thường báng bụng kháng trị.

Tiêu  chuẩn  loại  trừ:  Hồ  sơ  bệnh  án  không 
đầy đủ các dữ liệu cần để thu thập. 

nhóm),  với  độ  tin  cậy  95%  được  xem  là  có  ý 
nghĩa thống kê. 


Trình  bày  xử  lý:  Phân  tích  và  xử  lý  số  liệu 
bằng SPSS 15.0 và Excel 2007. 

KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN 

Thống kê mô tả: Các tham số về dịch tễ, đặc 
điểm  lâm  sàng,  cận  lâm  sàng,  kết  quả  điều  trị 
ngắn  hạn  biểu  diễn  dưới  dạng  tần  số  và  tỷ  lệ 
phần trăm (biến định tính), giá trị trung bình và 
độ lệch chuẩn (biến định lượng phân phối bình 
thường),  giá  trị  trung  vị  và  bách  phân  vị  25%, 
75%  (biến  định  lượng  phân  phối  không  bình 
thường). 
Thống kê phân tích: So sánh biến  định  tính 
dùng kiểm định χ2 (Chi – Square Test). So sánh 
biến  định  lượng  dùng  kiểm  định  t  (nếu  phân 
phối  bình  thường,  so  sánh  2  nhóm),  kiểm  định 
ANOVA  (nếu  phân  phối  bình  thường,  so  sánh 
hơn  2  nhóm),  kiểm  định  Mann  –  Whitney  U 
(nếu  phân  phối  không  bình  thường,  so  sánh  2 
nhóm)  hay  kiểm  định  Kruskal  –  Wallis  (nếu 
phân  phối  không  bình  thường,  so  sánh  hơn  2 

48

Trong  thời  gian  nghiên  cứu,  chúng  tôi  ghi 
nhận có 81 bệnh án đủ tiêu chuẩn chọn mẫu. Kết 
quả như sau: 


Nguyên nhân gây suy thận trên bệnh nhân 
xơ gan 
Bảng 2: Nguyên nhân gây suy thận 
Nguyên nhân 
Giảm thể tích 
Nhiễm trùng 
Vừa giảm thể tích vừa nhiễm trùng 
Bệnh nhu mô thận 
HRS 
Thuốc 

Tỷ lệ 
22,2
29,6
21
12,3
13,6
1,3

Suy thận do nhiễm trùng (29,6%), giảm thể 
tích  (22,2%)  hay  do  cả  2  (21,0%)  là  nguyên 
nhân phổ biến nhất, hai nguyên nhân tiếp theo 

Hội nghị Khoa Học Kỹ thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 
là  do  bệnh  nhu  mô  thận  12,3%  và  hội  chứng 
gan thận 13,6%.  


tỷ  lệ  bệnh  nhân  suy  thận  do  giảm  thể  tích  cao 
nhất.  Có  thể  giải  thích  là  do  trong  nghiên  cứu 
của Montoliu chỉ bao gồm các bệnh nhân xơ gan 
có  báng  bụng  khác  so  với  mẫu  nghiên  cứu  của 
tôi, Martin‐Llahí, Mathurin và Carvalho là tất cả 
các bệnh nhân xơ gan. Kết quả của cả 4 nghiên 
cứu đều xác định suy thận do giảm thể tích hay 
nhiễm  trùng  nguyên  nhân  phổ  biến  nhất  (mà 
những nguyên nhân này thường có thể điều trị 
dễ dàng), theo sau là hội chứng gan thận và do 
bệnh  nhu  mô  thận.  Tần  suất  suy  thận  do  giảm 
thể tích hay nhiễm trùng cao nhất có thể là do sự 
bất  ổn  định  đặc  biệt  trong  huyết  động  học 
thường gặp ở bệnh nhân xơ gan. 

Bảng 3: So sánh với tác giả khác về tỷ lệ các thể suy 
thận trên bệnh nhân xơ gan 
Tác giả

Do giảm Do nhiễm Bệnh nhu
thể tích
trùng
mô thận
Chúng tôi
22,2%
29,6%
12,3%
Martin-Llahí
32,0%
46,0%

9,0%
Montoliu
58,2%
22,6%
9,6%
Mathurin
25,7%
28,6%
11,3%
Carvalho
32,0%
40,0%
15,0%

Nghiên cứu Y học

HRS
13,6%
13,0%
9,6%
19,9%
12,0%

Tỷ  lệ  các  nguyên  nhân  suy  thận  trên  bệnh 
nhân  xơ  gan  trong  nghiên  cứu  của  chúng  tôi 
tương  đồng  với  Martin‐Llahí,  Mathurin  và 
Carvalho nhưng có khác biệt so với Montoliu có 

Đặc điểm lâm sàng 
Bảng 4: Triệu chứng lâm sàng các thể suy thận [số trường hợp (tỷ lệ %)] 

Triệu chứng

Giảm thể tích Nhiễm trùng
(n=18)
(n=24)

Thiểu vô niệu
Báng bụng
Phù
Bệnh não gan

(*) 

9 (50,0%)
17 (94,4%)
11 (61,1%)
6 (33,3%)

6 (25,0%)
21 (87,5%)
13 (54,2%)
8 (33,3%)

Cả 2 (n=17)

Bệnh nhu mô
thận (n=10)

7 (41,2%)
17 (100%)

16 (94,1%)
6 (35,3%)

5 (50,0%)
7 (70,0%)
8 (80,0%)
1 (10,0%)

HRS
(n=11)
7 (63,6%)
11 (100%)
8 (72,7%)
4 (36,4%)

p*
0,225
0,076
0,078
0,659

Mẫu
(n=81)
35 (43,2%)
72 (88,9%)
55 (67,9%)
32 (39,5%)

Kiểm định χ2 


Tỷ lệ bệnh nhân suy thận trên nền xơ gan có 
thiểu  niệu  chiếm  dưới  một  nửa  (43,2%),  phần 
lớn  bệnh  nhân  có  phù  (67,9%)  và  báng  bụng 
(88,9%). Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống 

kê về triệu chứng lâm sàng giữa các thể suy thận 
(p>0,05). 

Đặc điểm cận lâm sàng 
Bảng 5: Kết quả xét nghiệm albumin, natri, kali máu của mẫu và các thể suy thận [Trung bình ± ĐLC (KBT)] 
Cận lâm
sàng
Albumin
(g/L)
Natri
(mmol/L)
Kali
(mmol/L)

 (*) 

Giảm thể tích Nhiễm trùng
(n=18)
(n=24)
23,2±7,8
(4,7 – 33,6)
130,2±6,1
(119 – 142)
4,0±1,2
(2,6 – 6,9)


22,0±5,8
(4,0 – 33,3)
127,5±6,1
(114 – 138)
4,1±0,8
(2,9 – 5,6)

Cả 2 (n=17)

Bệnh nhu mô
thận (n=10)

19,9±5,2
(13,1 – 33,7)
125,8±7,2
(115 – 139)
4,0±1,1
(2,2 – 5,7)

24,4±4,4
(19,3 – 31,2)
131,4±6,6
(119 – 142)
3,8±1,2
(1,7 – 6,0)

HRS
(n=11)
21,2±5,2

(13,7 – 31,1)
131,1±7,8
(120 – 150)
3,9±0,9
(2,4 – 5,3)

p*
0,430
0,081
0,986

Mẫu
(n=81)
22,0±5,9
(4,0 – 33,7)
128,8±6,8
(114 – 150)
4,0±1,0
(1,7 – 6,9)

Kiểm định ANOVA 

Bảng 6: Kết quả cận lâm sàng khác của mẫu và các thể suy thận [Trung vị (bách phân vị 25% – 75%)] 
Cận lâm
sàng

Giảm thể tích
(n=18)

Nhiễm trùng

(n=24)

Cả 2 (n=17)

Bệnh nhu mô
thận (n=10)

Hb
(g/L)
Tiểu cầu
(K/µL)

78
(61 – 101)
126,5
(97,7 – 165,2)

99
(82 – 112)
101,0
(54,0 – 180,7)

81
(65 – 106)
83,0
(48,5 – 143,0)

90
(88 – 95)
125

(83 – 157)

HRS
(n=11)
91
(65 – 102)
121
(61 – 147)

p*
0,250
0,442

Hội nghị Khoa Học Kỹ thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 

Mẫu
(n=81)
90
(73 – 102)
115
(70 – 157)

49


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013

Nghiên cứu Y học 
Cận lâm
sàng


Giảm thể tích
(n=18)

Nhiễm trùng
(n=24)

Cả 2 (n=17)

Bệnh nhu mô
thận (n=10)

PT
(giây)
Bilirubin
(µmol/L)
Creatinin
(µmol/L)

21,0
(17,6 – 22,7)
74,0
(44,5 – 302,5)
172,8
(151 – 270)
13,3
(10,1 – 20,7)

20,2
(17,2 – 26,8)

78,2
(34,4 – 324,8)
187,7
(158 – 346)
14,4
(10,3 – 20,4)

23,8
(18,4 – 34,9)
91,3
(34,7 – 453,1)
208,8
(176 – 315)
18,4
(12,2 – 33,2)

15,6
(13,6 – 18,3)
21,6
(10,7 – 56,8)
193,3
(163 – 276)
11,8
(8,4 – 12,2)

Ure
(mmol/L)

 (*) 


HRS
(n=11)
21,7
(17,7 – 30,8)
197,0
(91,5 – 406,1)
255,1
(219 – 294)
14,5
(8,9 – 23,2)

p*
0,022
0,017
0,283
0,054

Mẫu
(n=81)
21,0
(16,7 – 26,4)
74,0
(31, 9 – 327,3)
200,1
(163 – 298)
13,7
(10,1 – 20,8)

Kiểm định Kruskal – Wallis 


Có  đến  95,1%  bệnh  nhân  bị  thiếu  máu,  Hb 
trung  vị  của  mẫu  là  90g/L.  Trên  bệnh  nhân  xơ 
gan,  tình  trạng  thiếu  máu  có  tỷ  lệ  cao  với  mức 
tăng của tỷ lệ tử vong tại viện, mặc dù nó không 
phải là một yếu tố nguy cơ độc lập cho tử vong. 

Từ kết quả so sánh cho thấy PT và bilirubin máu 
ở nhóm suy thận do bệnh nhu mô thận thấp hơn 
so  với  các  thể  suy  thận  do  nguyên  nhân  khác 
(p≤0,05).  

Phân độ xơ gan theo Child – Pugh, MELD 
Bảng 6: Phân độ theo Child – Pugh và điểm số MELD của mẫu và các thể suy thận 
Giảm thể tích
(n=18)

Nhiễm trùng
(n=24)

Cả 2 (n=17)

Bệnh nhu mô
thận (n=10)

HRS
(n=11)

0 (0,0%)
4 (22,2%)
14 (77,8%)

27,8±8,0
(14 – 40)

0 (0,0%)
6 (25,0%)
18 (75,0%)
29,4±7,9
(18 – 40)

0 (0,0%)
2 (11,8%)
15 (88,2%)
33,3±7,1
(21 – 40)

2 (20,0%)
4 (40,0%)
4 (40,0%)
20,1±5,3
(15 – 30)

0 (0,0%)
3 (27,3%)
8 (72,7%)
31,6±8,3
(19 – 40)

Phân độ Child
A
B

C
Điểm MELD
TB±ĐLC(KBT)

(*) 

Kiểm định χ2 

 

(**) 

0,048*
0,003**

Mẫu
(n=81)
2 (2,5%)
19 (23,4%)
60 (74,1%)
28,7±8,3
(14 – 40)

Kiểm định ANOVA 

Tất  cả  các  bệnh  nhân  suy  thận  do  giảm  thể 
tích, nhiễm trùng và hội chứng gan thận đều xơ 
gan Child B trở lên và phần lớn là xơ gan Child 
C.  Điều  này  khẳng  định  mức  độ  nặng  của  xơ 
gan  ở  các  đối  tượng  của  mẫu  nghiên  cứu.  Qua 

khảo sát đã cho thấy tỷ lệ bệnh nhân bị xơ gan 
Child  –  Pugh  C  của  nhóm  bệnh  nhân  suy  thận 
do bệnh nhu mô thận thấp hơn có ý nghĩa thống 
kê so với các thể suy thận do nguyên nhân khác 
(p=0,048). Điều này cho thấy bệnh nhân suy thận 
do  bệnh  nhu  mô  thận  có  chức  năng  gan  và  hệ 
thống tuần hoàn bảo tồn so với các nhóm khác. 
Kết  quả  nghiên  cứu  cho  thấy  điểm  MELD 
trung bình của quần thễ mẫu là khá cao 28,7±8,3. 
Qua  kết  quả  so  sánh  chúng  tôi  ghi  nhận  bệnh 
nhân xơ gan bị suy thận do bệnh nhu mô thận 
có điểm MELD trung bình thấp hơn có ý nghĩa 
thống kê so với bệnh nhân xơ gan bị suy thận do 
các  nguyên  nhân  khác  (p=0,003).  Kết  quả  này 

50

p

cũng  tương  đồng  với  nghiên  cứu  của  Martin‐
Llahí bệnh nhân suy thận do bệnh nhu mô thận 
có  điểm  MELD  trung  bình  là  thấp  nhất  và  có 
tiên lượng sống 3 tháng cao nhất. 
Bảng 8: So sánh với tác giả khác về phân độ Child – 
Pugh giữa các thể suy thận 
Tác giả Phân
độ
Child
Chúng
A

tôi
B
C
MartinA
Llahí
B
C

Do
giảm
thể tích
0,0%
22,2%
77,8%
12,3%
40,8%
46,9%

Do
Bệnh
nhiễm nhu mô
trùng
thận
0,0%
20,0%
25,0% 40,0%
75,0% 40,0%
3,4%
22,2%
29,8% 63,9%

66,9% 13,9%

HRS

Mẫu

0,0%
27.3%
72,7%
3,8%
28,3%
67,9%

1,8%
14,3%
83,9%
8,1%
36,3%
55,7%

Tỷ  lệ  bệnh  nhân  bị  xơ  gan  Child  –  Pugh  C 
trong nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn so với 
nghiên  cứu  của  Martin‐Llahí,  nghiên  cứu  của 
Martin‐Llahí. Điều này có thể giải thích là do ở 
Việt Nam có nhiều dạng dịch vụ y tế, một khi bị 

Hội nghị Khoa Học Kỹ thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 

bệnh, bệnh nhân thường tự mua thuốc ở các nhà 
thuốc tư nhân uống, tỷ lệ bệnh nhân đến khám 
ở các dịch vụ y tế công thấp và chỉ khi bị bệnh 

Nghiên cứu Y học

nặng, vào giai đoạn trễ, bệnh nhân mới chọn lựa 
đến bệnh viện khám và điều trị.  

Kết quả điều trị ngắn hạn 
Bảng 9: Kết quả điều trị ngắn hạn và thời gian điều trị trung bình của mẫu và các thể suy thận 
Giảm thể Nhiễm trùng
Cả 2 (n=17)
tích n=18)
(n=24)
Bệnh giảm hay khỏi
Bệnh không giảm
Bệnh nặng xin về
TG điều trị TB (ngày)
(Khoảng biến thiên)

(*) 

15 (83,3%)
0 (0,0%)
3 (16,7%)
9,9±3,8
(2 – 24)

17 (70,8%)

0 (0,0%)
7 (29,2%)
11,2±4,7
(3 – 35)

6 (35,3%)
0 (0,0%)
11 (64,7%)
9,0±3,4
(1 – 22)

Bệnh nhu
mô thận
(n=10)
9 (90,0%)
1 (10,0%)
0 (0,0%)
13,4±4,4
(7 – 21)

HRS
(n=11)
0 (0,0%)
3 (27,3%)
8 (72,7%)
11,7±4,3
(3 – 24)

Mẫu
(n=81)


p

<0,0001*
0,562**

47 (58,0%)
4 (4,9%)
30 (37,1%)
10,94±4,6
(1 – 35)

Kiểm định χ2 (**)  Kiểm định ANOVA 

Kết  quả  điều  trị  ngắn  hạn  của  nhóm  bệnh 
nhân suy thận do bệnh nhu mô thận là tốt nhất 
(p<0,0001)  với  90,0%  bệnh  nhân  suy  thận  bệnh 
nhu mô thận xuất viện khi bệnh giảm hay khỏi. 
Sau đó là bệnh nhân bị suy thận do giảm thể tích 
hay  nhiễm  trùng.  Cuối  cùng  là  bệnh  nhân  hội 
chứng  gan  thận  có  kết  quả  điều  trị  ngắn  hạn 
kém nhất, tất cả bệnh nhân hội chứng gan thận 
đều  không  đáp  ứng  điều  trị,  điều  này  ngoài 
nguyên nhân do mức độ nặng của bệnh còn có 
thể  là  do  việc  điều  trị  hội  chứng  gan  thận  khá 
tốn kém (như cần truyền albumin) nên phần lớn 
bệnh nhân ở Việt Nam không đủ khả năng kinh 
tế để có thể hoàn tất điều trị theo đúng phác đồ. 
Mặt  khác,  ở  bệnh  nhân  xơ  gan,  suy  thận  có 
nguồn gốc  từ  rối  loạn  huyết  động  (ngay  cả  khi 

do giảm thể tích tuần hoàn hay do co mạch thận 
mà  không  có  giảm  thể  tích)  có  ảnh  hưởng  xấu 
đến kết quả điều trị cũng như sự sống còn hơn 
là suy thận có nguồn gốc tại thận.  

trung  bình  thấp  hơn  các  nhóm  còn  lại  (p<0,05). 
Bệnh nhân suy thận do bệnh nhu mô thận có kết 
quả  điều  trị  ngắn  hạn  tốt  nhất,  theo  sau  là  do 
giảm thể tích hay nhiễm trùng. Cuối cùng là hội 
chứng  gan  thận  có  kết  quả  điều  trị  ngắn  hạn 
kém nhất (p< 0,0001). 

TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.

2.

3.
4.

5.

6.

7.

KẾT LUẬN 
Với những kết quả thu nhận được bước đầu 
chúng  tôi  có  thể  kết  luận  suy  thận  do  nhiễm 
trùng  là  thể  suy  thận  thường  gặp  nhất  (29,6%), 

theo sau là do giảm thể tích (22,2%), hội chứng 
gan  thận  (13,6%)  và  do  bệnh  nhu  mô  thận 
(12,3%). Trong nhóm suy thận do bệnh nhu mô 
thận  có  PT,  nồng  độ  bilirubin  máu,  tỷ  lệ  bệnh 
nhân  xơ  gan  Child  –  Pugh  C  và  điểm  MELD 

8.

Carvalho GC, et al (2012). Causes of renal failure in patients 
with  decompensated  cirrhosis  and  its  impact  in  hospital 
mortality. Ann Hepatol. 11(1): p. 90‐95. 
Fleming  KM.,  et  al  (2008).  Incidence  and  prevalence  of 
cirrhosis  in  the  United  Kingdom,  1992‐2001:  a  general 
population‐based study. J Hepatol. 49(5): p. 732‐738. 
Gines  P.  and  Schrier  R.W  (2009).  Renal  failure  in  cirrhosis. 
New England Journal of Medicine. 361(13): p. 1279‐1290. 
Martin‐Llahí  M.,  et  al  (2011).  Prognostic  importance  of  the 
cause  of  renal  failure  in  patients  with  cirrhosis. 
Gastroenterology. 140(2): p. 488‐496 e4. 
Mathurin  S.,  et  al  (2008).  Renal  failure  in  patients  with 
cirrhosis  and  ascites:  incidence,  etiology  and  predictive 
factors. Acta Gastroenterol Latinoam. 38(2): p. 25‐116. 
Mathurin  S.A.,  et  al  (2009).  Anemia  in  hospitalized  patients 
with  cirrhosis:  prevalence,  clinical  relevance  and  predictive 
factors. Acta Gastroenterol Latinoam. 39(2): p. 103‐111. 
Montoliu S., et al (2010). Incidence and prognosis of different 
types  of  functional  renal  failure  in  cirrhotic  patients  with 
ascites. Clin Gastroenterol Hepatol. 8(7): p. 616‐622. 
Salerno  F.,  et  al  (2011).  Diagnosis,  treatment  and  survival  of 
patients  with  hepatorenal  syndrome:  a  survey  on  daily 

medical practice. J Hepatol. 55(6): p. 1241‐1248. 

 

 
Ngày nhận bài báo   
 
   
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 
Ngày bài báo được đăng: 

 

 

24‐02‐2013 
28‐03‐2013 

 25–09‐2013 

 

Hội nghị Khoa Học Kỹ thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 

51



×