TẠP CHÍ KHOA HỌC, Đại học Huế, Số 19, 2003
SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÔNG NGHỆ MÁY TÍNH
VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ TRONG VIỆC ĐỔI MỚI
PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC VẬT LÝ
Lê Công Triêm, Vương Đình Thắng
Trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế
1. Sự phát triển có tính bùng nổ của công nghệ thông tin:
Kỹ thuật điện tử, công nghệ vi mạch, vi xử lý càng phát triển thì vai trò chức
năng của máy vi tính với tư cách là một phương tiện dạy học càng phong phú và đa
dạng. Các thành tựu đạt được trong sự phát triển của công nghệ phần cứng và phần
mềm đã đẩy nhanh việc ứng dụng công nghệ thông tin. Người ta ước tính, cứ 3 năm
lại có một sự thay đổi cơ bản về phầm cứng, 2 năm lại có một sự thay đổi cơ bản
về phầm mềm, và tốc độ thay đổi đó lại càng tăng vào những năm gần đây. Mọi sự
nỗ lực trong sự phát triển của phần cứng lẫn phần mềm đều nhằm mục đích giải
quyết những yêu cầu của nhiều bài toán trong các lĩnh vực khác nhau, trong đó có
giáo dục.
Chúng ta nhận thấy rất rõ kết quả của sự phát triển ấy trên máy tính và các
thiết bị ngoại vi khi tham khảo các tham số cấu hình của một hệ thống máy tính đang
bán trên thị trường hiện nay: Tốc độ xử lý của CPU đã tăng hàng trăm lần (hơn 1
GHz) so với trước đây 5 năm (vài trăm MHz). Dung lượng bộ nhớ trong (RAM)
không còn là vài chục MB mà đã tăng lên đến hàng trăm MB. Dung lượng của ổ đĩa
cứng (Hard disk) cũng phải tính từ hàng chục đến hàng trăm GB, cùng với sự cải
thiện một cách đáng kể tốc độ truy cập thông tin trên ổ đĩa. Đã bắt đầu xuất hiện
những bộ nhớ ngoài RAM Disk (khác ổ đĩa cứng và mềm) dung lượng hàng trăm MB
với kích thước rất bé, khi được nối vào cổng USB nó được hiểu như một đĩa cứng,
rất tiện cho việc trao đổi thông tin giữa các máy tính.
Điều đáng lưu ý là trong cấu hình của các máy tính gia đình hiện nay, đầu đọc
CDROM đã là một bộ phận không thể thiếu được để phục vụ cho các nhu cầu sinh
hoạt như học ngoại ngữ, xem phim, nghe nhạc... và người ta cũng đã bắt đầu trang bị
37
cả ổ đĩa CD đọc/ghi (CD Read/Write). Sự ra đời và nhanh chóng phổ cập thiết bị
Multimedia như vậy đã mở rộng một cách đáng kể các ứng dụng của máy tính. Theo
thống kê sơ bộ của Tổng cục Bưu chính viễn thông thì có đến 70% trong số các máy
tính gia đình đã được nối mạng Internet và tham gia truy cập (khoảng 1 triệu người).
Sự trở ngại về khoảng cách không gian địa lý đã dần bị xoá bỏ và là điều kiện thuận
lợi để hội nhập và giao lưu trên nhiều lĩnh vực.
Đặc biệt gần đây, những thế hệ máy tính mới ra đời với màn hình phẳng, kích
thước hàng trăm inches; máy chiếu tường (Projector) đã xuất hiện ở các lớp học,
giảng đường, phòng hội nghị, những nơi công cộng như bến tàu, sân bay... đã cho
phép khuyếch đại các tín hiệu trình diễn ở mức đủ lớn với màu sắc và độ nét mong
muốn.
Giao tiếp ngườimáy không chỉ ràng buộc trên bàn phím và con chuột mà còn
thông qua các phương thức khác hết sức thân thiện và tiện lợi như nhập dữ liệu trực
tiếp trên màn hình bằng bút, ngón tay hay bằng tiếng nói...
Hàng loạt các thiết bị ngoại vi khác nhau ngày càng được cải thiện về chất
lượng và giá cả như máy quét ảnh (Scaner); máy in Laser đen trắng (Black and White
Printer) hay màu (Color Printer) có mật độ phân giải cao; các máy quay phim và chụp
ảnh kỹ thuật số (Digistal Camera) đa chức năng và tiện sử dụng; máy cắt chữ; máy
vẽ... cùng nhiều thiết bị chuyên dụng khác đã mở rộng phạm vi và nhiều triển vọng
ứng dụng mới.
2. Một số giải pháp kỹ thuật và triển vọng ứng dụng chúng trong giáo
dục:
Nắm bắt được những khó khăn của người dùng về mặt đầu tư kinh phí, các
nhược điểm cơ bản của việc sử dụng máy tính vào quá trình dạy học, nhiều hãng
máy tính lớn đã đưa ra những giải pháp có tính cách mạng trong cả hai lĩnh vực phần
cứng và phần mềm nhằm chiếm lĩnh thị trường rộng lớn của ngành giáo dục. Cũng
nhờ đó, đã làm tăng khả năng hiện thực hoá và đẩy nhanh việc ứng dụng công nghệ
thông tin vào quá trình dạy học nói riêng, và vào các lĩnh vực khác nói chung ở nhiều
quốc gia trên thế giới. Có thể nêu ra đây một vài giải pháp mà chúng tôi đã và đang
tiếp cận dưới góc độ của người nghiên cứu ứng dụng công nghệ vào giáo dục với
những mức độ khác nhau.
Có thể nói đến các giải pháp như HiShare, một giải pháp khá hoàn hảo, đạt
tiêu chuẩn ISO9001 do hãng IKONNET thiết kế. Tư tưởng chính của giải pháp này là
phát huy đến mức cao nhất tài nguyên của hệ thống máy tính: một CPU cho 04 người
sử dụng (One PCMulti User System), nhằm giảm thiểu kinh phí đầu tư (đến 45%),
kinh phí bảo hành, bảo trì, cài đặt và nâng cấp về sau (chỉ còn 1/4). HiShare có thể
38
được sử dụng thành nhóm đơn (1 CPU4User), tích hợp thành mạng LAN hoặc kết
hợp với hệ thống mạng giáo dục đa phương tiện (Multimedia Educational Network
System) và nối kết với mạng Internet.
39
Sơ đồ của giải pháp
HiShare
Mạng LAN với giải pháp HiShare
HiShare nối mạng Internet và các thiết bị ngoại vi
CD Ghost và Net CD là các giải pháp phần mềm cho phép tạo các đĩa CD ảo
trên đĩa cứng của máy tính (có thể có đến 23 đầu đọc CD ảo). Lợi ích của giải pháp
là đã kéo dài tuổi thọ của các đĩa CD khi nén chúng và ghi lên đĩa cứng dưới dạng CD
ảo, nhờ đó tốc độ truy cập thông tin trên chúng cũng nhanh chóng hơn (lên đến 200x).
Ứng dụng giải pháp này sẽ cho phép tạo nên một thư viện ảo khá đồ sộ trên máy
tính, một kho thông tin dùng chung và có thể tìm kiếm nhanh trên một mạng cục bộ.
40
HiConverter là một thiết bị chuyển đổi và kết nối đa phương tiện. Nó kết nối
với hầu hết các thiết bị đa phương tiện như: máy Cassette Recorder, Camera,
Camcorder, các đầu VCR, DVD, VCD, máy tính để bànPC, máy tính xách tay
Notebook PC và chuyển đổi tin hiệu của chúng và đưa ra màn hình máy tínhMonitor,
máy truyền hìnhTivi hay máy chiếu tường Projecter. Đây là một thiết bị cốt yếu cho
bất kỳ một loại hình phòng nghe nhìn nào.
41
LanStar 21st (giải pháp phần mềm) và HiClass (giải pháp phần cứng) là các
giải pháp hoàn hảo, có tính cách mạng trong việc ứng dụng công nghệ thông tin vào
dạy học. Nó cho phép thiết lập hệ thống giáo dục trên mạng hay những hệ thống
mạng giáo dục đa chức năng để tạo một môi trường dạy và học khá lý tưởng. Các
giải pháp này cung cấp cho giáo viên nhiều công cụ giảng dạy với các thiết bị đa
phương tiện, các phương tiện giám sát, theo dõi, giúp đỡ, định hướng hoạt động học
tập của học sinh nhờ khả năng tương tác mạnh của hệ thống. Đây là những giải
pháp có khả năng đáp ứng được hầu hết những yêu cầu của các xu hướng đổi mới
phương pháp dạy học hiện nay. Nó không chỉ đã khắc phục được một cách cơ bản
những nhược điểm trước đây của việc sử dụng máy tính trong dạy học mà hơn thế
nữa nó đã cho phép thực hiện được nhiều chức năng ưu việt như: trợ giảng, chức
năng đảm bảo ở mức cao nhất các luồng thông tin thuận, nghịch giữa giáo viên và
học sinh... Đặc biệt nó rất hiệu quả khi vận dụng các phương pháp dạy học hiện đại
vào quá trình dạy học như: phương pháp giải quyết vấn đề, phương pháp dạy học
chương trình hoá, phương pháp dạy học bằng hoạt động và thông qua hoạt động...
3. Sự biến đổi của giáo dục trong thời đại công nghệ thông tin:
Sự phát triển có tính bùng nổ của tin học, sự ra đời của thế hệ máy tính mới
với hệ thống đa phương tiện cùng mạng máy tính toàn cầu WWW đã dẫn tới những
thay đổi sâu sắc về phương pháp giảng dạy, về phương thức đào tạo, tổ chức và
quản lý giáo dục, thậm chí có thể làm thay đổi cả mục tiêu giáo dục. Những sự thay
đổi đó là cơ sở cho việc hình thành “nền giáo dục điện tử” trong thời đại công nghệ
thông tin. Đó là một nền giáo dục được đặt trên nền tảng áp dụng ICT ở mức độ cao
cả về phương diện tổ chức các phương tiện vật chất cho quá trình dạy học lẫn việc
bố trí các nội dung kiến thức cần thiết phải tiếp thu trong quá trình học tập.
Các khái niệm về “lớp học” giờ đây không còn là một không gian địa lý cụ thể,
cố định nữa, cũng không phải là nơi bắt buộc phải đến khi học sinh muốn học, bục
giảng bây giờ không còn là nơi làm việc duy nhất của thầy giáo“ lớp học ảo”, người
ta đã có thể dạy và học ở bất kỳ đâu. Người học được tự do đăng ký một ngành học
nào đó, một khóa học nào đó mà họ thích, được học với bất kỳ một giáo viên (giỏi)
nào mà họ muốn. Hơn nữa người học có thể tiếp thu tri thức về một lĩnh vực khoa
học không chỉ từ một thầy mà còn từ kho tàng thông tin bất tận của nhân loại thông
qua mạng Internet.
Trong nền giáo dục truyền thống, nếu như ở trường tiểu học, giáo viên giảng
dạy cho học sinh tất cả các môn học, thì bắt đầu từ trung học cơ sở trở đi, do chuyên
môn hoá mà mỗi giáo viên chỉ được phân công phụ trách một phân môn. Trong nền
42
giáo dục điện tử, sự liên kết vô hạn giữa các thành phần kiến thức khác nhau (trên
mạng Internet) đã làm cho học sinh trong mỗi thời điểm học tập có thể dễ dàng và
nhanh chóng chuyển từ việc nghiên cứu kiến thức của lĩnh vực này sang nghiên cứu
kiến thức của lĩnh vực khác. Sự liên kết mạnh, nhanh và dễ như thế giữa các phân
môn cũng đòi hỏi người giáo viên phải có một kiến thức bao quát rộng hơn so với
trước, phải theo dõi được tất cả các liên kết có ích cũng như các liên kết làm lệch
trọng tâm kiến thức.
Mối quan hệ thầytrò trong nền giáo dục điện tử đã có sự thay đổi một cách cơ
bản. Đi từ mối quan hệ 1 thầy1 trò trong nền giáo dục cổ đại phong kiến, đến 1
thầy1 lớp trong nền giáo dục của cách mạng công nghiệp và tiến đến quan hệ nhiều
thầy (có chung một chuyên ngành) với 1 trò (một người thựcmột đối tượng ảo trên
mạng). Sự tương tác giữa người và chương trình máy tính đang chạy thường dễ dẫn
người học xa rời định hướng của bài giảng mà giáo viên đang cố tình áp đặt, họ sẽ
được học tập theo nhu cầu và năng lực cá nhân. Những rẽ nhánh khác nhau hầu như
vô tận của các phần mềm ứng dụng làm cho giáo viên rất khó thực hiện một giáo án
cố định như trước đây đối với toàn lớp học truyền thống. Các phương tiện ICT dùng
trong dạy học đồng thời giúp cho người dạy dễ nắm bắt tình trạng học tập của từng
cá thể học sinh nhưng cũng làm cho mối quan hệ người dạyngười học thay đổi.
Mặc dù vai trò của giáo viên vẫn luôn là cần thiết trong một nền giáo dục như thế,
nhưng người ta vẫn có thể học mà không cần một giáo viên cụ thể “Giáo viên ảo”.
Cùng nảy sinh và tồn tại trong một nhà nước điện tử, một nền hành chính điện
tử, sẽ phải cần thiết đưa ra những thể chế mới cho sự cân bằng và một trật tự trong
nền giáo dục điện tử. Nền giáo dục điện tử đã dẫn đến hệ quả: một sự dân chủ hóa
cao độ trong hưởng thụ quyền được giáo dục. Người học được quyền lựa chọn
người dạy, chọn môn học mà mình thích. Mọi người, từ các cấp lãnh đạo giáo dục,
đến người học và gia đình của họ cũng có thể theo dõi hầu như tức thời hoạt động
giảng dạy và học tập, những chủ trương, những quy chế, những chính sách, đánh giá
kết quả học tập... vào bất kỳ lúc nào họ muốn. Nó đã dần xoá bỏ ranh giới giữa các
vùng, giữa các quốc gia, giữa các tầng lớp trong xã hội. Những tri thức khoa học,
những thành tựu trên mọi lĩnh vực mà mỗi một quốc gia đã đạt được và cả truyền
thông, văn hóa... trở thành tài sản chung của mọi người. Những đặc điểm như vậy
của nền giáo dục chỉ có thể có trong một “xã hội học tập”, trong đó mọi người đều
có quyền bình đẳng như nhau: Ai cũng được học hành (Open learning), học ở mọi
nơi (anywhere), học ở mọi lúc (anytime), học mọi thứ (anythings) học suốt đời
(lifelong learning) và học ở mọi người (any one). Hàng loạt các khai niệm mới về
phương tiện điện tử hỗ trợ cho hoạt động dạy và học cũng đã lần lượt ra đời.
43
4. HiClass giải pháp kỹ thuật để đổi mới phương pháp dạy học
Gần đây, ở một số cơ sở giáo dục của nước ta đã bước đầu ứng dụng các giải
pháp công nghệ như: Hệ thống mạng đào tạo đa phương tiện (HiClass). Vì hệ thống
này đã cho phép tạo nên một môi trường dạyhọc tương tác mạnh, cung cấp đầy đủ
các phương tiện cho tất cả các kịch bản đào tạo đa phương tiện khác nhau cho toàn
lớp học. Nhờ kết hợp sự tinh tế và tính nhân bản trong công nghệ đã đem đến cho hệ
thống các chức năng cao cấp chỉ cần thông qua các thao tác đơn giản.
Phòng học đa chức năng sử dụng mạng máy tính như HiClass đánh dấu một
cuộc cách mạng mới trong công nghệ dạy học bằng việc tạo ra một môi trường siêu
hiệu quả với tính năng giao tiếp hai chiều, khả năng truyền thông đa phương tiện và
sự hấp dẫn của âm thanh, hình ảnh tương tác giữa giáo viên và học sinh.
Với HiClass, lớp học như được thổi một luồng sinh khí mới, học sinh sẽ không
phải vây quanh thầy giáo để xem và nghe các bài giảng. Các kịch bản đào tạo trên cơ
sở Multimedia, việc chia nhóm dạy và thảo luận, khả năng giao tiếp tương tác hai
chiều dễ dàng được thực hiện thông qua bảng điều khiển hệ thống bên cạnh giáo
viên. Hiệu suất học tập của học sinh sẽ được tăng cường trong môi trường học tập
Multimedia nhờ việc sử dụng các công cụ minh hoạ trên đĩa CD, băng Video, máy
ảnh số, các chương trình hỗ trợ trên máy tính được truyền trực tiếp từ máy tính của
giáo viên tới từng máy tính của học viên với tốc độ thời gian thực. Bảng điều khiển
hệ thống bên cạnh giáo viên đem đến một tập hợp đầy đủ các chức cao cấp nhất.
Bộ khuyếch đại tín
hiệu
Cáp truyền tín hiệu
HiClass
II
Máy tính
Giáo viên
Bộ điều
khiển
trung tâm
Các máy tính của học sinh
Sơ đồ hệ thống mạng giáo dục đa phương tiện HiClass
Cấu trúc của một HiClass gồm có: khoảng 60 chiếc máy tính của học sinh, một
máy tính của giáo viên (có 2 màn hìnhmột để thực hiện các chương trình, một để
trao đổi và giám sát hoạt động của các máy học sinh), được liên kết với nhau qua bộ
điều khiển của giáo viên. Ngoài ra cũng có thể trang bị thêm đèn chiếu Projecter, thiết
44
bị kết nối và chuyển đổi tín hiệu đa phương tiện HiConverter. Các chức năng hỗ trợ
dạy học đều được thực hiện (bấm nút) thông qua bộ điều khiển của giáo viên.
HiClass có thể được điều khiển nhờ bộ điều khiển từ xa không dây.
Mọi hoạt động của giáo viên trên màn hình (SScreen) máy tính cùng âm thanh
(AAudio) và lời nói (MMicro) có thể chuyển tới máy tính của một học sinh, một
nhóm học sinh hay tất cả học sinh theo thời gian thực và cũng có thể đưa S của giáo
viên lên màn ảnh qua máy chiếu Projecter. Sử dụng chức năng này giáo viên có thể
thuyết trình theo bài giảng điện tử của mình trên máy tính, trình bày tranh ảnh, biểu
bảng, biểu đồ, mô hình, thực hiện các thí nghiệm mô phỏng trên không gian ba chiều,
trên các “vi thế giới”, các video clip thí nghiệm; thậm chí giáo viên có thể tiến hành
các thí nghiệm thực được kết nối với máy tính của mình hoặc đưa hình ảnh của các
thí nghiệm thực đó lên màn ảnh nhờ một Camera. Trong khi gửi S, A, M của mình tới
nhiều học sinh thì giáo viên vẫn có thể đối thoại với một, một nhóm các học sinh
khác.
Do yêu cầu của nội dung hay cách thức tổ chức dạy học, giáo viên có thể chia
lớp học thành các nhóm (trên máy tính, không nhất thiết là ngồi cạnh nhau) để cùng
giải quyết một nhiệm vụ hay nhận được cùng một thông tin gửi tới như nhau. Các
học viên trong nhóm có thể giao tiếp với nhau thông qua Micro và Headphone. Như
vậy, hệ thống đã giúp thực hiện việc cá biệt hoá cao độ học sinh đồng thời không
làm mất đi mà còn tạo điều kiện tốt để học sinh phát huy tính tập thể, hợp tác trong
hoạt động nhận thức của mình.
Giáo viên có thể quan sát nhanh để kiểm tra kết quả hoạt động trên máy tính
của bất kỳ một (hay một nhóm) học sinh nào mà không ảnh hưởng đến họ (khoảng
thời gian quan sát có thể được thiết lập tự động từ 299 giây). Hơn thế nữa, bảng
điều khiển sẽ giúp giáo viên trợ giúp học sinh ngay lập tức tại bàn của mình khi học
sinh gặp khó khăn trong hoạt động nhờ kỹ thuật “chiếm quyền điều khiển máy tính”
của học sinh. Lúc này, học sinh không thể điều khiển máy tính của mình được nữa,
chỉ nghe (qua headphone) và xem giáo viên hướng dẫn thao tác (trên S). Khi chiếm
quyền điều khiển, giáo viên có thể thực hiện cả việc khởi động lại máy của học
sinh nếu thấy cần thiết (như khi máy học sinh bị lỗi) và cũng có thể gửi S, A, M của
học sinh này đến một nhóm hay tất cả các học sinh. Trong khi đó, giáo viên vẫn có
thể đối thoại với một, một nhóm học sinh khác. Khả năng tương tác mạnh này giữa
giáo viên học sinh đã không thể có được trong khuôn khổ và cách thức tổ chức dạy
học truyền thống.
Khi quan sát, kiểm tra kết quả hoạt động của các học sinh trên S, giáo viên có
thể lựa chọn một học sinh được gọi là “học sinh mẫu”, có kết quả hoạt động tốt,
45
chiếm (hoặc không chiếm) quyền điều khiển máy tính của học sinh này và gửi S, A,
M của học sinh này đến một nhóm hay tất cả các học sinh, trong khi đó giáo viên vẫn
có thể đối thoại với một hay một nhóm học sinh khác. Trong cách thức tổ chức dạy
học truyền thống, xác định được một học sinh mẫu là một việc làm khó, thường các
học sinh khá, giỏi hay được chỉ định. Tuy vậy, trong thực tế thì học sinh mẫu không
nhất thiết là học sinh khá giỏi mà là học sinh thực hiện tốt một nhiệm vụ nào đó, tại
một thời điểm nào đó do giáo viên yêu cầu.
Hệ thống cũng cho phép giáo viên chọn một học sinh làm “ trợ giáo” cho mình,
trao quyền điều khiển máy tính của giáo viên hay máy tính của học sinh mẫu cho học
sinh này và gửi S, A của học sinh mẫu hay S, A, M của giáo viên, M của học sinh trợ
giáo đến một nhóm hay mọi học sinh. Trong khi đó, giáo viên vẫn có thể đối thoại
với một, một nhóm hay tất cả học sinh.
Giáo viên có thể khoá bàn phím, chuột của máy của một, một nhóm hay tất cả
các học sinh hoặc cũng có thể làm đen màn hình của tất cả học sinh khi muốn tập
trung sự chú ý của học sinh vào một vấn đề nào đó hoặc tạm thời dừng hoạt động
của học viên với máy tính. Mỗi một học sinh có một hộp gọi giáo viên để thực hiện
việc “giơ tay điện tử”, nghĩa là để báo hiệu muốn đối thoại với giáo viên qua Micro
và Headphone. Giáo viên có thể tổ chức và cùng tham gia hội thoại với một nhóm
học sinh bất kỳ được chọn. Ngoài ra, hệ thống còn có chức năng “trả lời nhanh” (giơ
tay điện tử nhanh nhất), nghĩa là chỉ có học sinh đầu tiên gọi giáo viên là được đối
thoại với giáo viên mà thôi.
5. Phần kết luận:
Tóm lại, sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ tin học, một mặt đã cho phép
giải quyết hầu hết và cơ bản những nhược điểm của việc sử dụng máy tính trước
đây, mặt khác luôn đặt ra cho người sử dụng những triển vọng và khả năng ứng
dụng mới. Rõ ràng là máy tính không thể và không bao giờ có thể thay thế hết mọi
thiết bị dạy học từ trước đến nay và càng không thể thay thế được vai trò người
thầy giáo trong quá trình dạy học. Song, công nghệ tin học càng phát triển thì những
khả năng khác nhau được tích hợp vào trong máy tính càng nhiều, cũng chính vì vậy
nó có thể hỗ trợ được càng nhiều mặt, nhiều phương diện hơn trong hoạt động dạy
và học của thầy trò. Có thể nói rằng, mọi nhược điểm của việc sử dụng máy tính là
do sự phát triển của công nghệ máy tính chưa đáp ứng đầy đủ và tốt những yêu cầu
đặt ra của quá trình dạy học.
Tuy vậy, cho đến nay những thành tựu trong công nghệ phần cứng và phần
mềm mà đặc biệt là các giải pháp kỹ thuật trong những năm gần đây đã đưa máy
tính, mạng các máy tính lên một tầm ứng dụng mới đầy triển vọng. Sự ra đời của hệ
46
thống mạng giáo dục đa phương tiện HiClass đã chứng tỏ tính ưu việt của máy tính
với tư cách là một phương tiện dạy học hiện đại. Nó đã đáp ứng được những yêu
cầu cơ bản của quá trình dạy học, tạo ra một môi trường dạy học khá lý tưởng với
đặc tính tương tác mạnh, nó là phương tiện phù hợp với việc triển khai lý thuyết về
các phương pháp dạy học hiện đại.
Sự ra đời và phát triển mạnh mẽ của mạng máy tính toàn cầu Internet đã có
những ảnh hưởng sâu sắc đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội loài người, trong
đó có giáo dục. Các khái niệm, các phạm trù, nguyên lý... có thể sẽ nảy sinh hay biến
đổi để mô tả được đầy đủ và chính xác sự phát triển của thế giới. Tính chất toàn
cầu hoá, nền kinh tế tri thức, một xã hội học tập, một nền giáo dục điện tử, một
chính phủ điện tử... là những kết quả trực tiếp của sự phát triển công nghệ tin học.
Để có thể hội nhập trong trào lưu phát triển chung đó, Đảng, Chính phủ và Bộ giáo
dục đã ra nhiều chỉ thị, nghị định về việc triển khai ứng dụng công nghệ thông tin và
viễn thông vào giáo dục. Những chỉ thị và nghị định đó, cùng với các kết quả của
nhiều công trình nghiên cứu khoa học trong và ngoài nước về ứng dụng công nghệ
thông tin và viễn thông vào giáo dục sẽ là những cơ sở pháp lý và thực tiễn cho việc
triển khai trong tương lai.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Bộ GD&ĐT. Ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong giáo dục
phổ thông công nghệ giáo dục. Kỷ yếu hội thảo khoa học công nghệ. Hà nội
(11/2001).
2. Ban chấp hành Trung ương. Chỉ thị về đẩy mạnh ứng dụng và phát triển công
nghệ thông tin phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Số 58
CT/TW, Hà nội, (17/10/2000).
3. Lê Công Triêm, Nguyễn Đức Vũ, Trần Thị Tú Anh. Một số vấn đề hiện nay của
phương pháp dạy học đại học. NXBGD (7/2002).
4. Vương Đức Bình. Suy nghĩ về các nguyên lý của một nền giáo dục điện tử. Kỷ
yếu hội thảo khoa học ứng dụng CNTT và Truyền thông trong giáo dục phổ
thôngCông nghệ giáo dục. Hà nội (12/2001).
5. Ikon techlonoges Corporation. HiClass II Multimedia Educational Network System
En Series Installation and User’s Manual. Printed in Taiwan (August 2001).
6. Vương Đình Thắng. Dạy học một quá trình truyền thông đa phương tiện. Tạp
chí giáo dục 26 (3/2002).
TÓM TẮT
47
Sự phát triển của tin học nói chung, công nghệ máy tính nói riêng có tính bùng nổ.
Cùng với sự phát triển đó phạm vi ứng dụng của máy tính vào dạy học ngày càng được mở
rộng. Đứng trên góc độ của người nghiên cứu giáo dục, bài viết đề cập đến các chức năng,
những đặc điểm ưu việt của thế hệ máy vi tính hiện nay, đặc biệt là hệ thống mạng giáo
dục đa chức năng (Multimedia Educational network system) đã cho phép tạo ra một môi
trường giáo dục có tính tương tác mạnhtiền đề cho sự phát triển một nền giáo dục điện tử
ngày nay.
THE DEVELOPMENT OF INFORMATION TECHNOLOGY
AND ITS ROLE IN THE RENEWAL OF PHYSICS TEACHING METHOD
Le Cong TriemVuong Dinh Thang
College of Pedagogy, Hue University
SUMMARY
The development of informatics in general and information technology in particular
will be premise for important application in many fields. The solutions written in the article
have created an ideal environment of education as well as the trend of applied progression in
future education of communication and information technology.
48