Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Bước đầu đánh giá tái tạo thực quản bằng ống dạ dày trong ung thư họng thanh quản xâm lấn thực quản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (414.08 KB, 5 trang )

Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013

BƯỚC ĐẦU ĐÁNH GIÁ TÁI TẠO THỰC QUẢN BẰNG ỐNG DẠ DÀY 
TRONG UNG THƯ HỌNG THANH QUẢN XÂM LẤN THỰC QUẢN 
Trần Anh Bích*, Trần Minh Trường**, Lâm Việt Trung*** 

TÓM TẮT 
Mục tiêu: Bước đầu đánh giá kết quả tái tạo thực quản bằng ống dạ dày trong ung thư hạ họng thanh‐thực 
quản. 
Đối tượng và phương pháp: Trong 1 năm có 10 trường hợp bị ung thư hạ họng thanh thực quản được 
phẫu thuật tại khoa Tai Mũi Họng bệnh viện Chợ Rẫy  
Kết quả: Tuổi bệnh nhân trung bình 63, bệnh nhân đến khám vì khó nuốt, nuốt đau, khàn tiếng và khó thở. 
Thời gian nằm viện trung bình 11,4, thời gian bệnh nhân ăn qua đường tự nhiên 7,8 ngày. Biến chứng gồm hẹp 
lỗ mở khí quản, rách khí quản, trào ngược, hội chứng dumping, hạ Canxi máu 
Kết luận: Đây là phương pháp hiệu quả và nên được áp dụng trong những trường hợp cắt hạ họng – thực 
quản toàn phần. 
Từ  khóa: ung thư hạ họng thanh‐thực quản, cắt hạ họng‐thanh quản‐thực quản toàn phần có tái tạo, kỹ 
thuật tái tạo bằng ống dạ dày. 

ABSTRACT 
 PHARYNGOLARYNGOESOPHAGECTOMY WITH GASTRIC PULL‐UP RECONSTRUCTION FOR 
INVASIVE HYPOPHARYNX SQUAMOUS CELL CARCINOMA 
Tran Anh Bich, Tran Minh Truong, Lam Viet Trung  
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 2 ‐ 2013: 54 ‐ 58 
Objective:  To  determine  the  results  of  gastric  pull‐up  reconstruction  for  pharyngolaryngoesophagectomy 
for hypopharynx and cervical esophageal carcinoma 
Methods:  Ten  patients  with  carcinoma  of  hypopharynx  and  cervical  esophagus  underwent  total 
laryngopharyngo‐esophagectomy with gastric pull‐up procedure in 1 year at Cho Ray ENT department. 
Results: The mean age was 63. Reasons for consulting a doctor are dysphagia, some pain with swallowing, 


hoarse voice. Mean hospital stay was 11.4, mean of day when patient can return to successful feeding was 7.8. 
Postoperative complications were regurgitation, dumping syndrome, hypocalcemia, stenosis at the anastomosing 
site, tracheal rupture.  
Conclusion: This method is effective and should be regard as a method of choice in reconstructive surgery 
after pharyngo‐laryngo‐esophagectomy. 
Keywords: hypopharynx and cervical esophageal carcinoma, pharyngolaryngoesophagectomy, gastric pull‐
up reconstruction. 
thư  thanh  quản  giai  đoạn  muộn  đã  có  những 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
bước  tiến  đáng  kể.  Khoa  Tai  Mũi  Họng  bệnh 
Cùng  với  sự  phát  triển  của  nền  y  học  thế 
viện Chợ Rẫy là một trong những cơ sở đã thực 
giới, công tác điều trị cho những bệnh nhân ung 
hiện phẫu thuật điều trị ung thư thanh quản từ 
* Khoa TMH, BVChợ Rẫy  ** Bộ môn TMH ‐ ĐHYD TpHCM  *** Khoa Ngoại Tiêu Hóa, BV Chợ Rẫy 
Tác giả liên lạc: BSCKII. Trần Anh Bích 
 ĐT: 0913954972 
Email:  

54

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật – Bệnh Viện Chợ Rẫy ‐ Năm 2013 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 

Nghiên cứu Y học

nhiều  năm.  Trong  đó  có  một  số  các  kỹ  thuật, 
phẫu thuật mới được áp dụng và đạt kết quả tốt 

trong điều trị ung thư thanh quản. Những năm 
gần đây, hiệu quả công tác điều trị không chỉ để 
kéo dài cuộc sống cho người bệnh mà còn phục 
hồi  chức  năng  giúp  người  bệnh  sớm  tái  hòa 
nhập xã hội cũng như nâng cao chất lượng cuộc 
sống  cho  bệnh  nhân  ung  thư  thanh  quản.  Tuy 
nhiên,  với  những  trường  hợp  ung  thư  họng–
thanh quản khi khối u xâm lấn đến miệng thực 
quản thì khả năng phẫu thuật cắt hạ họng thanh 
thực  quản  toàn  phần  và  đóng  họng  trong  một 
thì  vừa  đảm  bảo  kín  đường  tiêu  hóa  vừa  đảm 
bảo lưu thông tốt của đường tiêu hóa là một vấn 
đề rất khó khăn(3,5). 

‐  Chụp  MRI  vùng  cổ  ngực  có  chất  tương 
phản, CT Scan vùng cổ ngực có cản quang, siêu 
âm bụng. 

Việc  phát  triển  kỹ  thuật  cắt  hạ  họng‐thanh 
quản‐thực  quản  toàn  phần  kết  hợp  tái  tạo  thực 
quản  đánh  dấu  một  bước  phát  triển  mới  vượt 
bậc cho tới ngày nay. Để tái tạo sự lưu thông của 
đường  tiêu  hóa  thì  dạ  dày  hoặc  một  đoạn  đại 
tràng được tái tạo và kéo lên thay thế thực quản. 
Với những trường hợp đầu tiên được báo cáo tại 
bệnh  viện  Chợ  Rẫy  từ  năm  2006  cho  đến  nay, 
chúng  tôi  đã  đúc  kết  và  rút  ra  một  số  kinh 
nghiệm  nhằm  đảm  bảo  kết  quả  phẫu  thuật  tốt 
nhất cho người bệnh. 


Nhóm phẫu thuật Ngoại tiêu hóa: Rạch da 
theo đường trắng giữa trên rốn bóc tách lấy bỏ 
toàn  bộ  thực  quản,  tái  tạo  dạ  dày  thành  hình 
ống luồn qua khe hoành qua trung thất sau lên 
vùng cổ. 

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu: 
10  bệnh  nhân  bị  ung  thư  hạ  họng  thanh‐
thực  quản  được  tiến  hành  phẫu  thuật  cắt  hạ 
họng  thanh‐thực  quản  toàn  phần  tái  tạo  thực 
quản bằng ống dạ dày, trong thời gian 1  năm 
từ  2012  –  2013  tại  khoa  Tai  Mũi  Họng  bệnh 
viện Chợ Rẫy. 

Phương pháp nghiên cứu 
Nghiên cứu can thiệp lâm sàng không nhóm 
chứng 

Cách tiến hành 
‐ Nội soi họng thanh khí quản, thực quản xác 
định vị trí, đánh giá mức độ tổn thương và lan 
rộng của khối u, sinh thiết xác định chẩn đoán 

‐ Chụp thực quản dạ dày có uống baryt. 
‐ Các xét nghiệm cận lâm sàng phục vụ cho 
phẫu thuật, đặc biệt chú ý đến ion đồ, đạm máu 
và trọng lượng trước và sau mổ 

Phương pháp phẫu thuật 

‐ Rạch da cổ hình chữ U. 
‐ Nạo vét hạch cổ 2 bên. 
‐ Cắt toàn bộ hạ họng thanh quản thực quản. 
‐ Chuẩn bị miệng nối ở họng. 
‐ Sinh thiết tức thì rìa hố mổ. 

‐ Nối họng với ống dạ dày bằng chỉ PDS 4.0 
‐ Khâu lỗ mở khí quản vĩnh viễn 
‐ Đặt tube Levin và mở hỗng tràng nuôi ăn  
‐ Khâu da cổ, đóng bụng,đặt ống dẫn lưu 

Chăm sóc hậu phẫu 
‐  Trong  2  ngày  đầu  bệnh  nhân  được  nuôi 
dưỡng  bằng  đường  tĩnh  mạch  với  năng  lượng 
khoảng 3000‐3500calo mỗi ngày 
‐ Bệnh nhân được bơm qua ống dạ dày khi 
bệnh nhân có trung tiện. 
‐  Bệnh  nhân  được  rút  ống  dẫn  lưu  ở  cổ  và 
bụng ngày thứ 2. 
‐  Sau  7  ngày  bệnh  nhân  ăn  qua  đường  tự 
nhiên. 
‐ Nội soi họng thực quản và chụp họng thực 
quản có uống barryt kiểm tra 

KẾT QUẢ 
Đặc điểm chung 
Tuổi bệnh nhân: từ 50 – 72 (trung bình 63) 
Giới: Nữ/Nam ¼ 

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật – Bệnh Viện Chợ Rẫy ‐ Năm 2013


55


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013

Nghiên cứu Y học 

BÀN LUẬN 

Biểu hiện lâm sàng của khối u 
Bệnh sử
Khàn tiếng Khó nuốt
Số trường hợp
5
10

Đau
9

Khó thở
4

Vị trí tổn thương và phân giai đoạn bệnh 
Giai đoạn
Xoang lê Thanh
U hạ họng thanh
bệnh/vị trí u
quản quản, thực quản cổ
T4N1M0

4
1
2
T4N2M0
2
1
Số bệnh nhân
6
1
3

(a)

(b) 

Hình 1: (a) U hạ họng xâm lấn thực quản (b) Miệng 
nối họng‐ống dạ dày 

Hậu phẫu 
Thời  gian  nằm  viện  trung  bình  11,4  (10‐20 
ngày). 
Thời gian rút ống nuôi ăn sau mổ trung bình 
7,8 (7‐12 ngày). 

Biến chứng 
Biến chứng
Dò miệng nối họng- dạ dày
Hẹp miệng nối họng-dạ dày
Hẹp lỗ mở khí quản
Rách khí quản

Chảy máu sau mổ
Trào ngược, hội chứng dumping
Hạ Canxi máu

56

Số trường hợp
0
0
1
1
0
2
1

Trước  đây,  xạ  trị  là  phương  pháp  điều  trị 
duy nhất trong những trường hợp ung thư thực 
quản  đoạn  cao.  Thế  nhưng  khi  theo  dõi  bệnh 
nhân trong một thời gian sau đó cho thấy tỷ lệ 
tái phát còn khá cao cũng như  chất lượng cuộc 
sống của bệnh nhân lại thấp. Những bệnh nhân 
này cần có những phương pháp phẫu thuật tốt 
hơn để giảm thiểu những biến chứng của hóa trị 
và xạ trị(2). 
Ung thư hạ họng và thực quản đoạn cổ hiện 
nay  vẫn  gây  nhiều  khó  khăn  trong  việc  kiểm 
soát.  Nhiều  phẫu  thuật  kết  hợp  tái  tạo  khác 
nhau (như  sử  dụng  vạt  da  cơ,  sử  dụng  chuyển 
ống  tiêu  hóa  như  dạ  dày,  hỗng  tràng  hay  ruột 
già)  cho  nhiều  kết  quả  khác  nhau.  Một  phẫu 

thuật  kết  hợp  tái  tạo  cho  kết  quả  tốt  khi  giảm 
thiểu thấp nhất tỷ lệ tái phát,  tử  vong,  giảm  số 
ngày  nằm  viện,  bệnh  nhân  có  thể  ăn  sớm.  Cho 
đến hiện nay vẫn chưa có phương pháp nào đưa 
ra chứng minh cho kết quả tốt hơn đối với phẫu 
thuật  cắt  hạ  họng‐thanh  quản‐thực  quản  toàn 
phần  trong  các  trường  hợp  ung  thư  xâm  lấn 
miệng thực quản. Trong tái tạo, việc sử dụng vạt 
da có 2 bất lợi chính: tái phát bệnh trước khi việc 
tái tạo hoàn thành, tỷ lệ dò và chít hẹp cao. Hơn 
70 năm, phẫu thuật tái tạo thực quản bằng ống 
dạ  dày  đã  được  chứng  minh  với  tỷ  lệ  tái  phát 
thấp, lượng máu cung cấp cho đoạn nối dạ dày 
dồi  dào,  tốc  độ  lành  thương  nhanh,  bệnh  nhân 
có thể ăn sớm(4,2). 
Trong  những  năm  1980  khoa  Phẫu  thuật 
Lồng  ngực  bệnh  viện  Chợ  Rẫy  đã  sử  dụng  dạ 
dày tái tạo thực quản. Hiện nay phẫu thuật này 
cũng  đươc  thực  hiện  thường  xuyên  ở  khoa 
Ngoại tiêu hóa của bệnh viện Chợ Rẫy như một 
phẫu  thuật  thường  qui.  Tuy  nhiên  phẫu  thuật 
này chỉ thực hiện ở những trường hợp ung thư 
thực  quản  đoạn  thấp  (2/3  dưới  thực  quản). 
Trong  nghiên  cứu  này  chúng  tôi  thực  hiện  nối 
cao,  nối  dạ  dày  vào  họng.  Dạ  dày  có  khả  năng 
thay thế thực quản tốt là do có mạch máu nuôi 
dồi dào tỏa rộng cùng hình dạng uốn cong của 
nó  cho  phép  có  thể  nối  tới  những  nơi  xa  như 

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật – Bệnh Viện Chợ Rẫy ‐ Năm 2013 



Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 

Nghiên cứu Y học

họng đáy lưỡi do đó làm giảm tỉ lệ xì dò miệng 
nối sau mổ(4). 

miệng  nối  hay  tử  vong  lúc  mổ  và  trong  thời 
gian hậu phẫu. 

Độ tuổi trung bình, đặc điểm nam chiếm tỷ 
lệ cao trong nghiên cứu của chúng tôi phù hợp 
với nhiều nghiên cứu trên thế giới. Triệu chứng 
chính  của  bệnh  nhân  đa  số  là  khó  nuốt  vì  xâm 
lấn  miệng  thực  quản,  kế  tiếp  là  nuốt  đau.  Vì 
nhiều  trường  hợp  khối  u  ở  xoang  lê  nên  triệu 
chứng  khàn  tiếng  và  khó  thở  không  xuất  hiện 
thường xuyên. 

Một  trường  hợp  hẹp  lỗ  mở  khí  quản.  Bệnh 
nhân này đang trong thời gian xạ trị nên chúng 
tôi chỉ nong và đặt canule tạm thời, sẽ rút canule 
khi  bệnh  nhân  xạ  trị  xong.  Một  bệnh  nhân  bị 
rách  khí  quản  1  đoạn  3cm  gần  carina  trong  lúc 
bóc  tách  thực  quản.  Trường  hợp  này  chúng  tôi 
khâu lại khí quản qua nội soi bằng optic 00 qua 
lỗ  mở  khí  quản,  hậu  phẫu  bệnh  nhân  ổn  định, 
bệnh  nhân  này  có  mở  khí  quản  trước  mổ.  Qua 

10  trường  hợp  trên  chúng  tôi  nhận  thấy  rằng 
những  bệnh  nhân  đã  mở  khí  quản  trước  mổ, 
việc  bóc  tách  thực  quản  ra  khỏi  mô  mềm  xung 
quanh khó khăn do sự viêm dính của mô mềm 
xung quanh vào khí thực quản. Vì vậy bóc tách 
khí  thực  quản  khó  khăn  dễ  rách  khí  quản.  Sau 
mổ bệnh nhân bi hội chứng dumping, hội chứng 
này  thường  gặp  trong  2  trường  hợp  và  triệu 
chứng  giảm  dần  sau  1  tháng.  Bệnh  nhân  được 
chia nhiều bữa ăn nhỏ trong ngày. 1 trường hợp 
hạ  calci  máu  trên  bệnh  nhân  ung  thư  hạ  họng 
thanh  thực  quản  xâm  lấn  tuyến  giáp  2  bên, 
chúng tôi cắt toàn bộ hạ họng thanh thực quản 
và  tuyến  giáp  2  bên.  Sau  mổ  bệnh  nhân  dùng 
calci kéo dài. 

Vị  trí  u  thường  gặp  ở  xoang  lê  chiếm  60%. 
Theo nghiên cứu của Saeed A. u xoang lê chiếm 
40%, với giai đoạn III chiếm đa số 67%(3). Vì đa 
phần u xuất phát từ xoang lê cho thấy phù hợp 
với  triệu  chứng  gây  khó  chịu  cho  bệnh  nhân 
không phải đều có khàn tiếng và khó thở. 
Việc  đánh  giá  bệnh  nhân  trước  mổ  rất 
quan trọng để có kế hoạch nâng cao tổng trạng 
như bồi hoàn nước điện giải, đạm trước và sau 
khi  phẫu  thuật,  mặc  dù  đã  có  những  tiến  bộ 
trong  kỹ  thuật  hồi  sức  cũng  như  sự  đa  dạng 
của những loại dịch truyền nuôi dưỡng đường 
tĩnh  mạch.  Những  bệnh  nhân  bị  ung  thư  hạ 
họng  có  thể  giảm  đến  1/3  trọng  lượng  cơ  thể. 

Chúng tôi chọn những bệnh nhân có thể trạng 
còn  ở  mức  trung  bình,  sụt  giảm  không  quá 
8kg,  những  chỉ  số  xét  nghiệm  về  máu  và 
protein không thay đổi nhiều(4). 

Biến chứng và xử trí 
Có  3  trường  hợp  chúng  tôi  cắt  cao  đến  sát 
amidan và đáy lưỡi, do đó miệng nối họng‐ ống 
dạ  dày  sẽ  căng,  khả  năng  xì  dò  miệng  nối  cao. 
Chúng tôi giải quyết tình trạng này bằng 2 cách: 
‐ Sử dụng vạt cơ niêm mạc đáy lưỡi 
‐ Khâu cằm ngực để tránh bệnh nhân ngửa 
cổ trong thời gian hậu phẫu có thể gây bung chỉ 
miệng  nối,  chúng  tôi  sẽ  cắt  chỉ  sau  khi  bệnh 
nhân ăn qua đường tự nhiên 
Bệnh nhân được khâu miệng nối bằng mũi 
khâu Gambee và dùng chỉ PDS 4.0 cho kết quả 
tốt và đáng tin cậy. Qua 10 trường hợp chúng 
tôi  thực  hiện  chưa  có  trường  hợp  nào  bị  dò 

Đánh  giá  tình  trạng  lưu  thông  thức  ăn  qua 
đoạn  nối  bằng  nội  soi  thực  quản  và  chụp 
Xquang thực quản có uống Baryt, cho thấy tất cả 
các  trường  hợp  thuốc  lưu  thông  tốt,  phù  hợp 
trên  lâm  sàng  bệnh  nhân  có  thể  ăn  được  bằng 
đường  tự  nhiên  và  tăng  cân  tốt  sau  phẫu 
thuật.Qua 10 trường hợp phẫu thuật tái tạo thực 
quản bằng ống dạ dày trong thời gian một năm 
có 1 trường hợp tái phát  
Biến chứng


J Rezaie(2)

Dò miệng nối
Hẹp miệng nối
H/c dumping

4/50
6/50
3/50

Saeed A. Al
(3)
Ghamdi
6/15
2/15
3/15

Chúng tôi
0/10
0/10
2/10

Tiên  lượng  chất  lượng  cuộc  sống:  Với  thời 
gian  nằm  viện  trung  bình  11,4  ngày,  thời  gian 
rút ống nuôi ăn sau mổ trung bình 7,8 ngày, thời 
gian bệnh nhân ăn qua đường tự nhiên 7,8 ngày, 
cho  thấy  kỹ  thuật  cắt  hạ  họng‐thực  quản  toàn 

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật – Bệnh Viện Chợ Rẫy ‐ Năm 2013


57


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013

phần  tái  tạo  bằng  dạ  dày  giúp  bệnh  nhân  rút 
ngắn  số  ngày  điều  trị  cũng  như  có  thể  ăn  qua 
đường  tự  nhiên  sớm.  Đây  là  một  phẫu  thuật 
mang  tính  nâng  đỡ  giúp  bệnh  nhân  giảm  đau 
đớn vì khối u, đồng thời sớm có cuộc sống hòa 
nhập  với  xã  hội,  bệnh  nhân  ăn  qua  đường  tự 
nhiên, có thể giao tiếp với mọi người bằng thanh 
quản điện tử. 

TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.

2.

3.

KẾT LUẬN 
 Ống  dạ  dày  tạo  hình  tỏ  ra  hữu  ích  trong 
việc  phục  hồi  lưu  thông  tiêu  hóa  sau  cắt  bỏ 
ung  thư  hạ  họng  thanh  quản  xâm  lấn  thực 
quản là phương pháp hiệu quả, ít biến chứng, 
cho  kết  quả  khả  quan  về  giải  quyết  bệnh  tích 

cũng  như  phục  hồi  chứng  năng  giúp  cho 
người  bệnh  có  chất  lượng  cuộc  sống  tốt  hơn. 
Nghiên cứu này phản ánh sự kết hợp một cách 
có  hệ  thống  giữa  việc  đánh  giá  trước  phẫu 
thuật,  dinh  dưỡng  đầy  đủ,  tình  trạng  bệnh 
nhân  cho  phép  cũng  như  sự  phối  hợp  giữa 
khoa Tai Mũi Họng và Ngoại Tiêu Hóa. 

4.

5.

Keereweer S, de Wilt JHW, Sewnaik A, Meeuwis CA, Tilanus 
HW,  Kerrebijn  JDF  (2009).  Early  and  long‐term  morbidity 
after  laryngopharyngectomy.  Eur  Arch  Otorhinilaryngol,  267: 
1437‐1444. 
Rezaie  J.,  Peyvandi  H.,  Hallaj‐Mofrad  H.R.,  Khaji  A.and 
Shakiba  B.  (2007).  Gastric  pull‐up  reconstructive  for 
pharyngolaryngo‐esophagectomy  in  head  and  neck  cancer 
and  cervical  esophageal  squamous  cell  carcinoma.  Acta 
Medica Iranica, 45(6): 473‐476 
SaeedA. Al Ghamdi (1998). Pharyngolaryngo‐esophagectomy 
with immediate gastric pull‐up. Ann Saudi Med; 18(2): 132 – 
134 
Trần  Minh  Trường,  Nguyễn  Minh  Hải  (2006).  Nhân  hai  ca 
phẫu thuật nối hạ họng dạ dày. Tạp chí Y học TP.HCM, tập 10 
(1): 92 – 95 
Triboulet  JP,  Mariette  C,  Chevalier  D,  Amrouni  H  (2001). 
Surgical management of carcinoma of the hypopharynx and 
cervical esophagus. Arch Surg. 136: 1164‐1170 


 
Ngày nhận bài báo: 18/04/2013 
Ngày phản biện đánh giá bài báo: 10/05/2013 
Ngày bài báo được đăng: 27/05/2013 
 
 

 

58

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật – Bệnh Viện Chợ Rẫy ‐ Năm 2013 



×