Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Đánh giá hiệu quả của phương pháp chuyển lưu nước tiểu ra da có van bằng ruột thừa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (450.36 KB, 7 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 

Nghiên cứu Y học

Ngày bài báo được đăng : 05/01/2014 

ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CỦA PHƯƠNG PHÁP CHUYỂN LƯU  
NƯỚC TIỂU RA DA CÓ VAN BẰNG RUỘT THỪA 
Đỗ Văn Công*, Nguyễn Văn Ân**, Đào Quang Oánh** 

TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Nhiều bệnh lý trên bàng quang đưa đến chỉ định thực hiện phẫu thuật chuyển lưu nước tiểu 
ra da có kiểm soát. Việc lựa chọn vật liệu tạo van và phương pháp phẫu thuật sao cho vừa đạt kết quả tối ưu về 
chức năng kiểm soát nước tiểu, bền vững, lại có tính thẩm mỹ. Ruột thừa khá phù hợp. Chúng tôi sử dụng ruột 
thừa trong tạo van với một vài cải biên để đạt được những yêu cầu trên. 
Đố  tượng  –  Phương  pháp  nghiên  cứu:  Nghiên cứu lâm sàng, mô tả hàng loạt ca. Tất cả bệnh nhân đã 
được phẫu thuật chuyển lưu nước tiểu ra da có kiểm soát bao gồm cả mở rộng bàng quang và thay thế (túi chứa) 
bằng ruột tại 2 khoa Niệu A và B bệnh viện Bình Dân từ năm 2007‐2013, với thời gian theo dõi tối thiêu 3 tháng 
được đưa vào nghiên cứu. 
Kết quả: Có 25 bệnh nhân gồm 7 trường hợp (TH) bướu bàng quang và 18 TH bàng quang hỗn loạn thần 
kinh (9 TH giảm trương lực và 9 TH tăng trương lực). Tuổi trung bình là 56.2 tuổi (19 – 87). Tỷ lệ nam/nữ = 
1,5. Thời gian theo dõi: 34,6 tháng (3‐72). Bàng quang mới có dung tích trung bình: 472ml (400‐550 ml) và áp 
suất ở dung tích tối đa P (Vmax) ≤ 30 cm nước. Chức năng van ruột thừa với 3 tiêu chuẩn: thời gian giữa 2 lần 
thông, khả năng kiểm soát nước tiểu, mức độ dễ dàng khi thao tác là 80 – 92% tốt. 
Kết luận: Ruột thừa là vật liệu sẵn sàng, hữu dụng để làm van chuyển lưu trong phẫu thuật chuyển lưu ra 
da có kiểm soát với kết quả tốt và bền vững theo thời gian. 
Từ khóa: ruột thừa, van chuyển lưu ra da có kiểm soát 

ABSTRACT  
USING APPENDIX FOR CONTINENT CUTANEOUS URINARY DIVERSION 
Do Van Cong, Nguyen Van An, Đao Quang Oanh  


* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 – 2014: 51 ‐ 57 
Introduction:  Many  bladder  pathologies  lead  to  require  continent  cutaneous  diversions.  How  to  create  a 
valve  with  optimum  results  for  continency,  sustainability  and  aesthetic  appearance,  is  still  a  question.  The 
appendix is quite suitable. We report the use of appendix, appling Mitrofanoff’s principle with some modifications 
to create a continent valve in order to achieve the above requirements. 
Objectives: To assess the effectiveness of using appendix to create continent cutaneous continent valve. 
Patients  –  Methods:  Descriptive,  serial  clinical  cases  study.  All  cases  of  continent  cutaneous  urinary 
diversions, including augmentation and replacement bladders (pouches) realized at Urology Departments A and 
B, Binh Dan Hospital during the years 2007‐2013, with a minimum follow‐up of 3 months, were included in this 
study. 
Results: Totally 25 patients, including 7 bladder tumors and 18 neurogenic bladders (9 hypotonic 
and 9 hypertonic). Mean age = 56.2 years (19‐87). Ratio male/female = 1.5. Follow‐up time: 34.6 months 
(3‐72). New bladder mean capacity = 472ml (400‐550 ml) and Pressure at maximum capacity (PVmax) ≤ 
30  cm  of  water.  Functional  evaluaton  of  the  appendix‐valve  based  on  3  criteria:  time  between  2 
* Bệnh viện Quân Dân Miền Đông  ** Bệnh Viện Bình Dân 
Tác giả liên lạc: BS. Đỗ Văn Công 
ĐT: 0914.177.798  Email:  

Niệu Khoa 

51


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

consecutive catheterizations, degree of continency, and capability of self catheterization, has 80‐92% of 
good results. 
Conclusions:  Appendix is available, useful to create continent cutaneous valve with good and sustainable 

results over time. 
Keywords: appendix, continent cutaneous diversion 

ĐẶT VẤN ĐỀ 
Khi  chức  năng  của  đường  tiết  niệu  dưới  bị 
tổn  thương  trầm  trọng  thì  vấn  đề  chuyển  lưu 
nước tiểu được đặt ra. Chuyển lưu nước tiểu có 
kiểm  soát  đem  lại  chất  lượng  sống  và  bảo  vệ 
đường  tiết  niệu  trên  tốt  hơn  chuyển  lưu  nước 
tiểu  không  kiểm  soát.  Chọn  lựa  phương  thức 
chuyển lưu tùy thuộc vào thể trạng bệnh nhân, 
bệnh  lý  nền  (nguyên  nhân  gây  tổn  thương  cho 
đường  tiết  niệu  dưới)  cùng  tình  trạng  của  niệu 
đạo và cơ thắt vân. Lý tưởng là bàng quang thay 
thế  nối  với  niệu  đạo.  Tuy  nhiên,  trong  nhiều 
trường  hợp,  buộc  phải  chọn  lựa  chuyển  lưu  ra 
da qua một van có kiểm soát. 
Phẫu  thuật  chuyển  lưu  nước  tiểu  có  kiểm 
soát  có  thể  coi  là  bước  tiến  lớn  trong  sự  phát 
triển  của  ngành  niệu  khoa  do  khả  năng  giải 
phóng bệnh nhân khỏi việc mang ống thông liên 
tục dài ngày, giúp bệnh nhân nhanh chóng hòa 
nhập với xã hội. Tuy nhiên việc lựa chọn vật liệu 
tạo van và phương pháp phẫu thuật sao cho vừa 
đạt kết quả tối ưu về chức năng kiểm soát nước 
tiểu, bền vững và có tính thẩm mỹ cần được cân 
nhắc.  Ruột  thừa  là  cơ  quan  thuộc  ống  tiêu  hóa 
của cơ thể nằm ở hố  chậu phải, có  đường  kính 
nhỏ,  dài  khoảng  10cm,  có  hệ  thống  mạch  máu 
riêng nên có thể di chuyển dễ dàng. Do đó ruột 

thừa  khá  phù  hợp  về  mặt  sinh  lý  để  làm  van 
chuyển lưu.  
Van  chuyển  lưu  nước  tiểu  phải  đủ  kín  để 
không  xì  rò  nước  tiểu  trong  thì  chứa  đựng 
nhưng  không  quá  hẹp  để  bệnh  nhân  có  thể  tự 
thông  dễ  dàng.  Ngoài  ra  miệng  van  còn  phải 
đảm bảo tính thẩm mỹ. 
Ruột thừa là vật liệu khá lý tưởng để có thể 
đạt được các yêu cầu trên.  

52

ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Nghiên cứu lâm sàng, mô tả hàng loạt ca. 

Tiêu chuẩn chọn bệnh 
Bệnh  nhân  đã  được  phẫu  thuật  chuyển  lưu 
nước  tiểu  ra  da  có  kiểm  soát  bao  gồm  cả  mở 
rộng  bàng  quang  và  thay  thế  (túi  chứa)  bằng 
ruột tại 2 khoa Niệu A và B bệnh viện Bình Dân 
từ năm 2007‐2013 với các yêu cầu sau: 
‐ Chuyển lưu nước tiểu ra da có kiểm soát sử 
dụng ruột thừa làm van kiểm soát nước tiểu. 
‐ Thời gian theo dõi sau phẫu thuật ít nhất là 
3 tháng. 
‐  Bệnh  nhân  hợp  tác  tốt  trong  quá  trình 
nghiên cứu. 

Tiêu chuẩn loại trừ 
Bệnh  nhân  không  đồng  ý  phương  pháp 

phẫu thuật hoặc không hợp tác trong quá trình 
nghiên cứu. 
Bệnh nhân không có ruột thừa (đã cắt) hoặc 
không sử dụng được để làm van chuyển lưu do 
bất thường về vị trí: dưới gan, sau manh tràng... 
hay không đủ dài: ruột thừa hoặc mạc treo ruột 
thừa quá ngắn. 

Kỹ  thuật  tạo  van  chuyển  lưu  nước  tiểu  ra 
da có kiểm soát bằng ruột thừa 
Tiến  hành  cắt  ruột  thừa  có  bảo  tồn  cuống 
mạch mạc treo ruột thừa (sau khi bàng quang đã 
được  tạo  hình  gần  xong,  còn  một  đường  khâu 
cuối để đóng lại). 
Cắt bỏ phần đầu ruột thừa, bơm rửa sạch và 
đặt  1  ống  thông  10‐12Fr  vào  trong  lòng  ruột 
thừa.  
Ngoại phúc mạc hoá ruột thừa.  
Nối  tận‐bên  đầu  ruột  thừa  vào  thành  bàng 
quang.  Vị  trí  nối  là  ở  phần  ruột,  nơi  sát  gần 
thành bụng. 

Chuyên Đề Ngoại Khoa 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 

Nghiên cứu Y học

Tạo đường hầm chéo qua thành bụng xuyên 

cân cơ thẳng bụng ra da.  

năng tự thông tiểu sạch cách quãng qua van và 
biến chứng của miệng van chuyển lưu nếu có. 

Đưa gốc ruột thừa ra da, khâu cố định ruột 
thừa vào thành bụng. Khâu cố định miệng van 
chuyển lưu trên bề mặt da. 

Trong nghiên cứu này, lấy mốc kết quả thời 
gian theo dõi sau phẫu thuật ít nhất là 3 tháng. 

Theo dõi và đánh giá kết quả điều trị 
Các bệnh nhân khi xuất viện sẽ được hẹn tái 
khám  sau  1  tháng,  3  tháng,  6  tháng,  1  năm  để 
theo  dõi:  khả  năng  kiểm  soát  nước  tiểu,  khả 

Tiêu  chuẩn  đánh  giá:  Áp  dụng  theo  cách 
đánh  giá  của  các  tác  giả  Đào  Quang  Oánh, 
Nguyễn Văn Ân(3,1,10). 

Bảng 1: Tiêu chuẩn đánh giá chức năng van chuyển lưu ruột thừa Kiểm soát được trong thì chứa đựng và Tự 
thông trong thì lấy nước tiểu. 
Chức năng

Tiêu chuẩn
Thời gian giữa 2 lần
thông tiểu liên tiếp

Kiểm soát

Khả năng kiểm soát
Thao tác khi tự
thông

Tốt

Trung bình

Xấu

>3 giờ

2-3 giờ

<2 giờ

Hoàn toàn ban ngày, thỉnh thoảng
không được vào ban đêm
Dễ dàng

KẾT QUẢ 
Số liệu chung  
Trong  thời  gian  từ  tháng  7/2007  đến  tháng 
4/2013 có 25 bệnh nhân bướu bàng quang (7 TH) 
và bàng quang hỗn loạn thần kinh (18 TH) được 
phẫu thuật chuyển lưu nước tiểu ra da có kiểm 
soát sử dụng van ruột thừa. 
Tuổi trung bình là 56.2 tuổi (19 – 87). Nam: 
15 TH (60%), Nữ: 10 TH (40%). Tỷ lệ nam/nữ = 
1,5. 


Chỉ định mổ 
Bảng 3: Chỉ định mổ. 
Chẩn
đoán

Số
Nguy

Tiểu
Thận
Suy
bệnh cơ ung tiểu
không

thận
nhân
thư
mạn kiểm soát nước
Bướu BQ
7
7
BQTK
giảm
9
9
3
9
4
trương lực

BQTK tăng
9
1
5
9
9
trương lực

Thời gian theo dõi sau mổ 
Ngắn nhất: 3 tháng. 

Ban ngày có lúc không
Không kiểm soát được
kiểm soát được, ban
cả ngày lẫn đêm
đêm không được
Khó nhưng vẫn tự thông Cần sự hỗ trợ từ người
được
khác

Dung tích bàng quang mới sau phẫu thuật: 
Dung tích trung bình: 472ml ± 61,3 ml (400‐
550 ml). 
Áp suất ở dung tích tối đa P (Vmax) ≤ 30 cm 
nước. 
Chúng  tôi  thường  yêu  cầu  bệnh  nhân  tự 
đặt  thông  qua  van  lấy  nước  tiểu  4‐6  lần  mỗi 
ngày  và  1‐2  lần  vào  ban  đêm  nhằm  tránh  các 
biến  chứng  khi  nước  tiểu  quá  nhiều  trong  túi 
và  thời  gian  tiếp  xúc  của  nước  tiểu  với  niêm 

mạc ruột quá lâu. 

Tai biến – biến chứng trong và sau phẫu thuật: 
Trong  khi  phẫu  thuật,  không  ghi  nhận  tai 
biến xảy ra.  Có  2  TH  (8%)  nhiễm  trùng  vết  mổ 
trong thời gian hậu phẫu làm thời gian nằm viện 
kéo  dài.  Có  2  TH  (8%)  nhiễm  trùng  đường  tiết 
niệu  trên  sau  rút  thông  bàng  quang  và  thông 
qua  van,  cả  2  đều  cải  thiện  nhanh  với  đặt  lại 
thông, bơm rửa sạch bàng quang với nước muối 
0,9%  pha  Bétadine  và  kháng  sinh.  Đa  số  bệnh 
nhân đáp ứng tốt với điều trị. 
Chức năng van: 

Dài nhất: 72 tháng. 

Thời gian giữa 2 lần thông 

Trung bình: 34,6 ± 23,5 tháng. 

20  TH  (80%)  bàng  quang  mới  có  khả  năng 
chứa đựng > 3giờ, thời gian tự thông giữa 2 lần 

Niệu Khoa 

53


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014


Nghiên cứu Y học 

thông  >  3giờ,  xếp  loại  tốt.  5  TH  (20%)  xếp  loại 
trung  bình.  Không  có  trường  hợp  nào  phỉa 
thông dưới 2 giờ/lần. 
Bảng 5: Phân loại dựa vào thời gian giữa 2 lần 
thông. 
Thời gian giữa 2 lần
thông
>3 giờ
2-3 giờ
< 2 giờ

Số bệnh
nhân
20
5
0

Tỷ lệ Phân loại
80%
Tốt
20% Trung bình
0%
Kém

Khả năng kiểm soát 
21  TH  (82%)  được  xếp  loại  tốt,  trong  đó  12 
TH (48%) kiểm soát được cả ngày lẫn đêm và 9 
TH (36%) thỉnh thoảng nước tiểu són qua van vì 

ngủ  quên.  Có  4  TH  (16%)  thường  són  qua  van 
ban đêm, tất cả đều vì ngủ quên, thời gian giữa 2 
lần  thông  còn  tương  đối  ngắn  (2‐3  giờ)  và  thời 
gian theo dõi sau mổ mới hơn 3 tháng. 
Bảng 6: Phân loại dựa vào khả năng kiểm soát nước 
tiểu. 
Kiểm soát ngày và đêm
Hoàn toàn cả ngày và đêm
Hoàn toàn ban ngày, thỉnh
thoảng không được ban đêm
Kiểm soát được ban ngày,
không kiểm soát được ban đêm
Không kiểm soát được cả ngày
lẫn đêm

Số bệnh
Tỷ lệ Phân loại
nhân
12
48%
Tốt
9
36%
4

16% Trung bình

0

0%


Kém

Thao tác khi đặt thông 
Hấu hết bệnh nhân (92%) đều tự  đặt  thông 
dễ dàng, 1 trường hợp bị chấn thương cột sống 
cổ, liệt cả 4 chi nên cần người khác giúp đỡ. 
Bảng 7: Phân loại dựa vào độ khó khi tự thông. 
Thao tác khi đặt
Cần người trợ
Dễ dàng Khó khăn
thông
giúp
Số trường hợp
Tỷ lệ

24
92%

0
0

1
4%

Lý do chọn ruột thừa làm vật liệu tạo van 
Từ  năm  1980,  khi  Mitrofanoff  công  bố  kỹ 
thuật  tạo  van  kiểm  soát  nước  tiểu  bằng  ruột 
thừa  thì  phương  pháp  này  nhanh  chóng  được 
phổ  biên.  Kỹ  thuật  này  chứng  minh  được  tính 

ưu  việt  so  với  các  loại  van  kiểm  soát  khác  nhờ 
tính  hiệu  quả  và  sự  đơn  giản  trong  kỹ  thuật 
(1,5,7,8,11,13). Hiện nay, ruột thừa vẫn là vật liệu được 
lựa  chọn  đầu  tiên  của  các  bác  sĩ  niệu  khoa  khi 
cần làm van chuyển lưu nước tiểu ra da có kiểm 
soát. Nhiều tác giả, dù trong mổ mở (4,5,7) hay nội 
soi, thậm chí có hỗ trợ của robot(6,12) vẫn cho rằng 
dùng ruột thừa trong tạo van nên được ưu tiên 
chọn lựa. 
Ruột thừa có những đặc điểm sau: 
‐ Ruột thừa sẵn có hình dạng và kích thước 
phù  hợp  để  tạo  van,  (dài  6‐10cm,  lòng  nhỏ, 
vừa  đủ  một  thông  cỡ  10‐12  Fr)  nên  có  thể  sử 
dụng  ngay  mà  không  cần  sửa  chữa  do  đó  sẽ 
rút ngắn thời gian phẫu thuật và giảm các biến 
chứng sau mổ. 
‐  Ruột  thừa  thường  nằm  ở  vị  trí  thích  hợp, 
vùng  hố  chậu  phải,  miệng  van  đưa  ra  da  cũng 
nằm  ở  hố  chậu,  nếu  bệnh  nhân  thuận  tay  phải 
thì rất thích hợp. 
‐  Mạc  treo  ruột  thừa  dễ  phẫu  tích  và  cấp 
máu tốt. 
‐  Không  ảnh  hưởng  tới  sự  vận  chuyển  của 
đường tiêu hoá khi không sử dụng ống tiêu hoá 
để tạo hình bàng quang. 
‐  Ruột  thừa  không  có  chức  năng  thật  sự 
quan trọng, không thể thay thế trong cơ thể nên 
việc  sử  dụng  ruột  thừa  làm  van  cũng  ít  ảnh 
hưởng tới toàn bộ cơ thể. 
Tuy nhiên để có thể sử dụng được ruột thừa, 

vẫn đòi hỏi một số điều kiện như: 

Tính thẩm mỹ của van: 

‐ Phải đủ dài, tối thiểu trên 6 cm. 

Van  nhỏ,  có  thể  che  dấu  dưới  quần  lót 
thông  thường.  Miệng  van  ngay  hố  chậu  phải, 
rất thuận lợi đối với người thuận tay phải. So 
sánh  với  những  van  để  hồi  tràng  còn  nguyên 
ống thì tính thẩm mỹ rõ ràng hơn hẳn. 

‐ Có mạch máu nuôi tốt và mạc treo đủ dài. 

BÀN LUẬN 
54

‐ Không ở vị trí bất thường. 

Cải biên kỹ thuật tao van ruột thừa 
Vẫn theo nguyên lý của Mitrofanoff, đó là sử 
dụng ống có đường kính nhỏ và tạo một lực ép 

Chuyên Đề Ngoại Khoa 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 
từ ngoài lên thành ống để khép ống và kiểm soát 
nước tiểu, chúng tôi có các cải biên sau: 
‐ Không tạo đường hầm dưới niêm mạc khi 

cắm ruột thừa vào BQ mà cắm trực tiếp tận‐bên 
ruột thừa vào bàng quang. 
‐  Tạo  đường  hầm  chéo  xuyên  cân  cơ  thẳng 
bụng là lớp cơ dày nhất của thành bụng trước. Ở 
đây, chúng tôi đã lợi dụng cơ thẳng bụng như 1 
cơ thắt vân (giống như cơ thắt vân niệu đạo) để 
khép  lại  ống  vì  bản  thân  cơ  thẳng  bụng  là  cơ 
vân, có thể vận động chủ động được.  
Việc  tạo  đường  hầm  dưới  niêm  hay  dưới 
thanh mạc trên thành ruột non khá khó. Ngược 
lại việc tạo đường chéo xuyên cân cơ thẳng đơn 
giản dễ thực hiện hơn. 
Một vấn đề nữa, có vai trò quan trọng là tính 
an  toàn  của  van  kiểm  soát.  Có  thật  sự  rất  cần 
thiết  tạo  một  van  chuyển  lưu  thật  kín  và  chịu 
được áp lực cao hay không? 
Vấn đề chính là tạo một bàng quang mới với 
áp lực thấp trong thì chứa đựng(2,7). 
Để  bảo  vệ  đường  tiết  niệu  trên,  tránh  biến 
chứng ngược dòng bàng quang‐niệu quản thì áp 
lực trong lòng bàng quang phải ≤ 30‐40cm nước. 
Nguyên  tắc”mở  ống  ruột”  trong  tạo  hình  cũng 
là nhằm mục đích đáp ứng yêu cầu này, vì vậy, 
cũng còn được gọi là tạo hình bàng quang kiểu 
’’áp  lực  thấp”.  Áp  lực  trong  bàng  quang  mới, 
nếu đạt yêu cầu, thì hầu như luôn < 40 cm nước. 
Để tránh rò rỉ nước tiểu qua van thì van cũng chỉ 
cần kín với áp lực > 40cm nước là đủ. 
Một điều cần chú ý nữa là nếu vì một lý do 
nào  đó  áp  lực  tròng  bàng  quang  mới  >40  cm 

nước thì van chuyển lưu kín vừa đủ sẽ an toàn 
hơn.  Rò  rỉ  nước  tiểu  sẽ  làm  giảm  áp  lực  trong 
bàng  quang  mới,  bớt  áp  lực  trào  ngược  lên 
đường  tiết  niệu  trên,  đồng  thời  báo  động  cho 
bệnh nhân là đã đến lúc tự thông.  
Khi tạo hình bàng quang, cả đối với mở rộng 
lẫn  thay  thế,  thì  cảm  giác  mắc  tiểu  của  bệnh 
nhân  thường  giảm  sút  hoặc  mất.  Ban  ngày, 
người bệnh có thể cảm thấy tức nặng vùng hạ vị, 
hẹn giờ đặt thông tiểu 3‐5giờ/lần nhưng vào ban 

Niệu Khoa 

Nghiên cứu Y học

đêm,  ở  người  bình  thường,  việc  bài  tiết  nước 
tiểu  thường  giảm  do  tác  dụng  của  Hormon 
chống  bài  niệu  ADH  nhưng  ở  người  tạo  hình 
bàng  quang  (đặc  biệt  bàng  quang  thay  thế)  thì 
lượng nước tiểu ban đêm vẫn không ít hơn ban 
ngày trong khi giấc ngủ thường kéo dài khoảng 
6‐7h liên tục. Bàng quang có thể bị căng chướng 
quá  mức  khi  bệnh  nhân  chưa  có  thói  quen  trở 
dậy  đặt  thông.  Điều  đó  có  thể  gây  nguy  hiểm 
khi van kiểm soát quá kín. 
Kỹ thuật tạo van chuyển lưu, tương tự như 
kỹ thuật cắm lại niệu quản vào ruột, nếu cố gắng 
chống ’’trào ngược” có thể tăng tỷ lệ bị hẹp. Khi 
ấy, lợi bất cập hại. 
Quan  điểm  của  chúng  tôi  là  tạo  van  kiểm 

soát  đủ  kín  để  giữ  được  áp  lực  khoảng  40cm 
nước là đủ và an toàn. Việc này: 
‐  Nhằm  đảm  bảo  khả  năng  kiểm  soát  nước 
tiểu trong pha chứa đựng của bàng quang. Theo 
thời  gian,  bàng  quang  mới  sẽ  giảm  các  cơn  co 
thắt, dung tích tăng dần, đồng thời áp lực giảm 
dần.  Điều  này  có  nghĩa  là  khả  năng  kiểm  soát 
của van sẽ tăng dần theo thời gian. 
‐  Nhằm  tránh  được  các  biến  chứng  do  trào 
ngược lên niệu quản, bảo vệ thận. 

Có nên khâu kín cổ bàng quang? 
Trong nghiên cứu này, chúng tôi không chủ 
trương  đóng  kín  cổ  bàng  quang  (ngoại  trừ  các 
TH  cắt  bỏ  BQ  do  ung  thư  hoặc  đã  khâu  cổ  BQ 
trước đó) vì 2 lý do: 
Mục đích chính để khâu bít cổ bàng quang là 
để  tránh  tiểu  không  kiểm  soát  sau  mổ.  Trong 
nghiên  cứu  này,  có  8  bệnh  nhân  bị  tiểu  không 
kiểm  soát  trước  mổ  (3/9  TH  bàng  quang  giảm 
trương  lực  và  5/9  TH  bàng  quang  tăng  trương 
lực). Tất cả đều được phẫu thuật làm rộng bàng 
quang để tăng dung tích và giảm áp lực. Chúng 
tôi cho rằng làm sao cho thể tích chức năng bàng 
quang mới (V≈500ml, Pvesmax ≤ 30‐40 cm nước) 
đủ để chứa nước tiểu trong khoảng 3‐5 giờ là đạt 
yêu  cầu.  Khi  đó,  đường  niệu  đạo  là  van  xả  an 
toàn:  là  lối  thoát  duy  nhất  còn  lại  trong  trường 
hợp  van  gặp  trục  trặc  không  sử  dụng  được, 


55


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

tránh được các biến chứng do tăng áp lực trong 
lòng  bàng  quang  mới,  đồng  thời  cũng  để  báo 
đông cho bệnh nhân đã đến lúc cần thông tiểu.  
Đường  niệu  đạo  đặc  biệt  cần  thiết  sau  khi 
bệnh nhân xuất viện. Lúc ấy, bệnh nhân phải tự 
chăm sóc và đặt thông ở nhà, xa các trung tâm 
niệu khoa. Nếu không đặt được thông qua van 
chuyển  lưu  thì  việc  tháo  lưu  nước  tiểu  qua 
đường  niệu  đạo  là  biện  pháp  hữu  hiệu  cho  tới 
khi quay lại với các chuyên gia để  sửa chữa lại 
van kiểm soát. 

Hiệu quả của van trong nghiên cứu này 
Sau thời gian theo dõi trung bình 34,6 tháng 
± 23 trên 25 trường hợp chuyển lưu nước tiểu ra 
da  có  kiểm  soát  bằng  van  ruột  thừa  chúng  tôi 
thu được kết quả như sau: 
Nếu  dựa  vào  tiêu  chuẩn  thời gian giữa 2 lần 
thông: 20 TH (80%) tốt, 5 TH (20%) trung bình.  
Nếu  dựa  vào  tiêu  chuẩn  khả năng kiểm soát: 
21 TH (82%) tốt, 4 TH (16%) trung bình. 
Nếu dựa vào tiêu chuẩn thao tác khi đặt thông: 
Hầu  hết  bệnh  nhân  (24TH  =  92%)  đều  tự  đặt 

thông dễ dàng, 1 trường hợp bị chấn thương cột 
sống cổ, liệt cả 4 chi nên cần người khác giúp đỡ, 
không phải do van có vấn đề. 
Nhiều tác giả trên thế giới đã sử  dụng ruột 
thừa  làm  van  chuyển  lưu.  Hầu  như  tất  cả  đều 
chỉ dựa vào tiêu chí mức độ dễ dàng thao tác khi 
tự đặt thông để đánh giá. Đây là tiêu chuẩn đơn 
giản,  riêng  biệt,  tự  bản  chất  của  van  ruột  thừa. 
Báo cáo của Woodhouse(13) với thời gian theo dõi 
khá ngắn, chỉ trong 3 tháng, đã cho kết quả tốt là 
91%.  Còn  với  Fishwick(5),  để  chứng  tỏ  van  ruột 
thừa bền vững theo thời gian, với thời gian theo 
dõi  trên  10  năm,  đã  cho  kết  quả  là  100%  tốt. 
Wille(12)  với  phẫu  thuật  nội  soi  có  robot  hỗ  trợ, 
cho kết  quả  tốt  là  97%.  Castellan(1),  với  74  bệnh 
nhân, có 93% tốt và 5 TH (7%) còn lại có vấn đề 
về van, chủ yếu là hẹp. 
Chúng  tôi  dựa  vào  3  tiêu  chí  khác  nhau  để 
đánh  giá  hiệu  quả  của  van.  Nếu  chỉ  dựa  vào 
mức độ dễ dàng thao tác khi tự đặt thông thì kết 
quả tốt là 92%, tương đương với các tác giả khác, 

56

và không khác nhiều với kết quả của một người 
trong  nhóm  nghiên  cứu  này  với  16  TH  đã  báo 
cáo  năm  2008(10).  Nếu  đưa  thêm  2  tiêu  chí  nữa: 
thời gian giữa 2 lần thông và khả năng kiểm soát 
nước  tiểu,  nói  lên  mối  tương  quan  giữa  van 
chuyển  lưu  và  bàng  quang  mới  để  có  cái  nhìn 

toàn thể về chức năng van thì kết quả tốt  cũng 
được ≥ 80%. Kết quả này chắc chắn sẽ cải thiện 
theo thới gian khi bàng quang mới giãn nở dần 
và bệnh nhân tập quen với thao tác tự đặt thông. 
KẾT LUẬN 
Ruột thừa là vật liệu sẵn sàng, hữu dụng để 
làm  van  chuyển  lưu  trong  phẫu  thuật  chuyển 
lưu  ra  da  có  kiểm  soát  với  kết  quả  tốt  và  bền 
vững theo thời gian. 

TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.

2.

3.

4.

5.
6.

7.

8.

9.

10.


11.

Castellan MA, Gosalbez R, Labbie A, Ibrahim E, Disandro M 
(2005),  ”Outcomes  of  continent  catheterizable  stomas  for 
urinary and fecal incontinence: a comparison among different 
tissue options”, BJU Int 95: 1053‐1057. 
Dahl MD, McDougal WS (2012), Use of intestinal segments in 
urinary diversion, Campbell – Walsh Urology, 10th Ed., Elsevier 
– Saunders, Philadelphia – USA, Chapter 85: 2411‐2459. 
Đào Quang Oánh, (2008),”Bàng quang chuyển lưu ra da: kết 
quả trên những trường hợp theo dõi trên 3 năm tại BV Bình 
Dân”, Y Học TP Hồ Chí Minh 12 (1): 251‐256. 
Fichtner  J,  Fisch  M,  Hohenfellner  R  (1996),  ‘‘Appendiceal 
continence  mechanisms  in  continent  urinary  diversion”, 
World J Urol 14: 105‐107. 
Fishwick  JE,  Gouggh  DCS,  OʹFlynn  KJ,  (2000),”The 
Mitrofanoff procedure: does it last?”, BJU Int 85: 496‐497. 
Gundeti  MS,  Acharya  SS,  Zagaja  GP,  Shalhav  AL  (2010), 
‘‘Pediatric  robotic‐assisted  laparoscopic  augmentation 
ileocystoplasty  and  Mitrofanoff  appendicovesicostomy 
(RALIMA):  feasibility  of  and  initial  experience  with  the 
University of Chicago technique”, BJU Int 107: 962‐969. 
McAndrew HF, Malone PSJ (2002),”Continent  catheterizable 
conduits: which stoma, which conduit and which reservoir?”, 
BJU Int 89: 86‐89.  
McKiernan  JM,  DeCastro  GJ,  Benson  MC  (2012),”Continent 
cutaneous  diversion”,Campbell  –  Walsh  Urology,  10th  Ed., 
Elsevier  –  Saunders,  Philadelphia  –  USA,  Chapter  86:  2460‐
2478. 
Nguyễn  Văn  Ân,  Đào  Quang  Oánh,  Vũ  Văn  Ty,  Vũ  Lê 

Chuyên, Nguyễn Tuấn Vinh, Bùi Văn Kiệt, Phan Trường Bảo, 
Dương  Quang  Triết,  (2001),”Phối  hợp  phương  pháp  thông 
tiểu  sạch  cách  quãng  với  phẫu  thuật  tạo  hình  bàng  quang 
bằng ruột”, Y Học TP Hồ Chí Minh 5 (1): 25‐28. 
Nguyễn  Văn  Ân,  Hà  Văn  Bàng,  Lê  Văn  Hiếu  Nhân,  Phạm 
Hữu Đoàn, (2008), ”Áp dụng phương pháp Mitrofanoff (cải 
biên) bằng ruột thừa để chuyển lưu nước tiểu có kiềm chế tại 
BV Bình Dân”, Y Học TP HCM 12 (1): 1‐6. 
Sahadevan  K,  Pickard  RS,  Neal  DE,  Hasan  TS,  (2007),  ”Is 
continent  diversion  using  the  Mitrofanoff  principle  a  viable 

Chuyên Đề Ngoại Khoa 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 

12.

13.

long‐term option for adults requiring bladder replacement?” 
BJU Int 102: 236‐240. 
Wille  MA,  Jayram  G,  Gundeti  MS,  (2011),  ”Feasibility  and 
early  outcomes  of  roboticassisted  laparoscopic  Mitrofanoff 
appendicovesicostomy  in  patients  with  prune  belly 
syndrome”, BJU Int 109: 125‐129. 
Woodhouse  CRJ,  McNeil  AE  (1994),  ”The  Mitrofanoff 
principle: expanding upon a versatile technique”, BJU 74: 447‐
 


Niệu Khoa 

Nghiên cứu Y học

453. 

Ngày nhận bài báo: 15/11/2013 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 21/11/2013 
Ngày bài báo được đăng : 05/01/2014 

57



×