Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Đánh giá đề kháng kháng sinh của helicobacter pylori trên bệnh nhân viêm loét dạ dày - tá tràng đã điều trị tiệt trừ thất bại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (322.94 KB, 7 trang )

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015

ĐÁNH GIÁ ĐỀ KHÁNG KHÁNG SINH CỦA HELICOBACTER PYLORI
TRÊN BỆNH NHÂN VIÊM LOÉT DẠ DÀY – TÁ TRÀNG
ĐÃ ĐIỀU TRỊ TIỆT TRỪ THẤT BẠI
Đinh Cao Minh*, Bùi Hữu Hoàng**

TÓMTẮT
Đặt vấn đề: Đề kháng kháng sinh (KS) là nguyên nhân chính dẫn đến thất bại trong điều trị tiệt trừ
Helicobacter pylori (H. pylori) hiện nay.
Mục tiêu: Đánh giá đề kháng KS của Helicobacter pylori ở bệnh nhân (BN) viêm loét dạ dày - tá tràng
(VLDDTT) đã điều trị tiệt trừ thất bại.
Đối tượng và phương pháp: 102 BN đến khám và được nội soi tiêu hóa trên tại bệnh viện Đại học Y Dược
TP.HCM từ tháng 11-2012 đến 05-2013. Kháng sinh đồ được thực hiện theo phương pháp pha loãng KS trong
thạch.
Kết quả: Tỷ lệ đề kháng chung của từng loại KS lần lượt là: amoxicillin 13,7%, metronidazole 44,1%,
tetracycline 23,5%, clarithromycin 56,9%, và levofloxacin 25,5%. Tỷ lệ đề kháng KS trong nhóm BN đã thất bại
với 1 phác đồ điều trị: amoxicillin 13,6%, metronidazole 36,3%, tetracycline 19,7%, clarithromycin 44%, và
levofloxacin 25,7%. Tỷ lệ đề kháng KS trong nhóm BN đã thất bại với 2 phác đồ điều trị: amoxicillin 16,7%,
metronidazole 60%, tetracycline 30%, clarithromycin 66,7%, và levofloxacin 23,5%. Tỷ lệ đề kháng KS trong
nhóm BN đã thất bại từ 3 phác đồ trở lên: amoxicillin không đề kháng, kháng cao nhất là clarithromycin 83,3%.
Tỷ lệ đề kháng clarithromycin và metronidazole tăng theo số đợt điều trị. Đa số kháng 2 loại KS 32,3%, kháng 5
loại là 1%. Đặc biệt, có đến 26,4% BN không bị đề kháng với các KS hiện dùng nhưng vẫn bị thất bại điều trị, có
lẽ có liên quan đến nhiều yếu tố: sự tuân thủ, ức chế toan chưa tốt, sử dụng KS chưa đúng cách…
Kết luận: Tỷ lệ đề kháng KS cao nhất là clarithromycin, ít nhất là amoxicillin. Có tình trạng đa kháng, nhiều
nhất là 2 KS, và 26,4% trường hợp không bị đề kháng KS.
Từ khóa: Helicobacter pylori, đề kháng kháng sinh, điều trị tiệt trừ thất bại.

ABSTRACT


EVALUATE ANTIBIOTIC RESISTANCE OF HELICOBACTER PYLORI CULTURED FROM GASTRODUODENAL ULCER PATIENTS FAILED WITH ERADICATION.
Đinh Cao Minh, Bui Huu Hoang* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 19 - Supplement of No 1 - 2015: 90 - 96
Background: Nowadays, antibiotic resistance is the major cause in failure of Helicobacter pylori (H. pylori)
eradication.
Aim: Determine antibiotic resistance of H. pylori isolated from peptic ulcer patients who failed with H. pylori
eradication treatment.
Patients and method: From November 2012 to May 2013, 102 patients enrolled and underwent upper
gastrointestinal endoscopy. Antibiotic susceptibility testing was carried out by using agar dilution method.
Results: The total resistance rates were 13.7% for amoxicillin, 44.1% for metronidazole, 23.5% for
tetracycline, 56.9% for clarithromycin, and 25.5% for levofloxacin. The resistance rates in the patients who failed
with 1st line treatment regimen were 13.6% for amoxicillin, 36.3% for metronidazole, 19.7% for tetracycline, 44%
* Bệnh viện đa khoa Đồng Nai,
Tác giả liên lạc: BS Đinh Cao Minh

90

** Bộ môn Nội, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh
ĐT: 0913727377
Email:

Chuyên Đề Nội Khoa


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015

Nghiên cứu Y học

for clarithromycin, and 25.7% for levofloxacin. The resistance rates in the patients who failed with 2 treatment
regimens were 16.7% for amoxicillin, 60% for metronidazole, 30% for tetracycline, 66.7% for clarithromycin, and
23.5% for levofloxacin. In the patients who failed with more than three treatment regimens, there was no

amoxicillin resistance case observed and the resistance rate to clarithromycin was highest, at 83.3%. The
resistance rates to clarithromycin and metronidazole increased in correlation with the number of treatment
regimens. Most cases (32.3%) were resistant to two antibiotics. 1% patients were resistant to 5 antibiotics. 26.4%
patients were susceptible to all available antibiotics but still failed in treatment. This may be caused by many
factors such as patient compliance, inadequate acid control, incorrect antibiotic usage…
Conclusion: The resistance rate to clarithromycin was the highest, whilst the resistance rate to amoxicillin
was the lowest. Multiple resistance was observed with more than two antibiotics. 26.4% cases who failed with
treatment were susceptible to all available antibiotics.
Key words: Helicobacter pylori, antibiotic resistance, eradication treatment failure .

ĐẶT VẤNĐỀ

ĐỐI TƯỢNG-PHƯƠNGPHÁPNGHIÊNCỨU

Nhiễm H. pylori là một trong những nhiễm
khuẩn mạn tính thường gặp nhất ở người với
khoảng 50% dân số trên thế giới đã bị nhiễm H.
pylori là nguyên nhân thường gây viêm teo dạ
dày mạn, loét dạ dày, u MALT và ung thư dạ
dày(14). Các báo cáo trong và ngoài nước cho thấy
tình hình kháng thuốc ngày càng gia tăng làm
cho hiệu quả của phác đồ điều trị chuẩn ngày
càng giảm dần dưới 80%(1,3,15). Chính vì vậy, việc
điều trị tiệt trừ H. pylori hiện nay đang trở thành
một thách thức lớn. Đề kháng KS là nguyên
nhân chính dẫn đến thất bại điều trị(8). Mặc dù đã
có một vài nghiên cứu trong nước về sự đề
kháng KS của H. pylori liên quan đến đề kháng
nguyên phát(7) hay đề kháng thứ phát(12) nhưng
các nghiên cứu này vẫn chưa phản ánh đầy đủ

tình hình đề kháng KS hiện nay. Chính vì vậy,
chúng tôi tiến hành nghiên cứu đánh giá tình
hình nhạy cảm của H. pylori đối với một số KS
hiện hành ở những BN đã thất bại điều trị tiệt
trừ để có thêm những cơ sở cần thiết cho việc
chọn lựa các phác đồ điều trị thích hợp hơn.

Đối tượng nghiên cứu

Mục tiêu nghiên cứu

Thiết kế nghiên cứu

Xác định tỷ lệ đề kháng đối với một số KS
hiện đang được sử dụng như amoxicillin,
metronidazole, tetracycline, clarithromycin,
levofloxacin ở những BN đã thất bại điều trị tiệt
trừ H. pylori.

Cắt ngang mô tả, lấy mẫu theo phương pháp
thuận tiện:

Chuyên Đề Nội Khoa

Dân số nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành trên các BN bị
VLDDTT đến khám và nội soi tại Bệnh viện Đại
học Y Dược TP.HCM, đã thất bại điều trị tiệt trừ
H. pylori ít nhất một lần trong thời gian từ tháng
11-2011 đến tháng 05-2012.

Tiêu chuẩn chọn bệnh
Trên 16 tuổi
Đã được chẩn đoán VLDDTT qua nội soi, và
được điều trị tiệt trừ H. pylori ít nhất một lần với
bất kỳ phác đồ nào, hiện tại vẫn còn dương tính
với test urease nhanh.
BN đồng ý tham gia nghiên cứu

Tiêu chuẩn loại trừ
Trước khi nội soi lần này BN đã dùng kháng
sinh, bismuth ít nhất trong 4 tuần, sử dụng PPI ít
nhất trong 2 tuần
BN bị xuất huyết tiêu hóa do loét dạ dày tá tràng

Cỡ mẫu tính theo công thức: với N=96

n

Z21 / 2  p 1  p 
d2

91


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015

Nghiên cứu Y học
Phương pháp xử lý dữ liệu

Các dữ liệu sau khi thu thập được nhập và

xử lý bằng phần mềm phân tích thống kê
Epidata 3.02 và Stata 12.0.

KẾT QUẢ
Trong thời gian từ tháng 11-2011 đến tháng
05-2012, chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu tại
khoa nội soi Bệnh viện Đại học Y Dược TP. HCM
và chọn được 102 BN thỏa các tiêu chí chọn bệnh
và loại trừ, có kết quả cấy Helicobacter pylori (+).

Đặc điểm tuổi, giới của dân số nghiên cứu
Tuổi
Bảng 1: Đặc điểm về tuổi của đối tượng nghiên cứu
(n=102)
Tuổi
Tuổi

Trung
bình
42,1

Độ lệch
chuẩn
10,2

Giá trị
Giá trị
nhỏ nhất lớn nhất
17
67


Nhận xét: Tuổi trung bình của những người
tham gia nghiên cứu là 42,1 ± 10,2; trong đó nhỏ
nhất là 17 tuổi và lớn nhất là 67 tuổi. Có khoảng
57% đối tượng tham gia nghiên cứu có độ tuổi từ
40 trở lên.

Giới tính
Bảng 2: Đặc điểm về giới tính của đối tượng nghiên
cứu (n=102)
Giới tính
n
%

Nam
33
32,4

Nữ
69
67,6

Tổng
102
100

Nhận xét: Đối tượng tham gia nghiên cứu
chủ yếu là nữ, chiếm tỷ lệ 67,6%.

Tỷ lệ đề kháng chung và tỷ lệ đề kháng

từng loại kháng sinh xét trên nhóm thất bại
với 1 đợt điều trị, 2 đợt điều trị và ≥ 3 đợt
điều trị
Bảng 3: Tỷ lệ đề kháng chung và tỷ lệ đề kháng từng
loại kháng sinh xét trên nhóm thất bại với 1 đợt điều
trị
Kháng sinh

Kháng sinh đồ
Đề kháng sau thất bại
Đề kháng chung
1 đợt điều trị
Kháng Nhạy Tổng Kháng Nhạy Tổng

Amoxicillin N

92

14

88

102

9

57

66


Kháng sinh

Kháng sinh đồ
Đề kháng sau thất bại
Đề kháng chung
1 đợt điều trị
Kháng Nhạy Tổng Kháng Nhạy Tổng

%
Clarithrom N
ycin
%
Metronida N
zole
%
Tetracyclli N
n
%
Levofloxac N
in
%

13,7
58
56,9
45
44,1
24
23,5
26

25,5

86,3
48
43,1
57
55,9
78
76,5
76
74,5

100
102
100
102
100
102
100
102
100

13,6
29
44
24
36,4
13
19,7
17

25,7

86,4
37
56
42
63,6
53
80,3
49
74,3

100
66
100
66
100
66
100
66
100

Bảng 4: Tỷ lệ đề kháng sau thất bại 2 đợt điều trị và ≥
3 đợt điều trị.
Kháng sinh

Amoxicillin n
%
Clarithrom n
ycin

%
Metronidaz n
ole
%
Tetracyclli n
n
%
Levofloxaci n
n
%

Kháng sinh đồ
Đề kháng sau thất Đề kháng sau thất
bại 2 đợt điều trị
bại ≥3 đợt điều trị
Kháng Nhạy Tổng Kháng Nhạy Tổng
5
25
30
0
6
6
16,7 83,3 100
0
100
100
20
10
30
5

1
6
66,7 33,3 100 83,6 16,4 100
18
12
30
3
3
6
60
40
100
50
50
100
9
21
30
2
4
6
30
70
100 33,3 66,7 100
7
23
30
2
4
6

23,3 76,7 100 33,3 66,7 100

Nhậnxét:Tỷ lệ kháng clarithromycin chiếm
cao nhất (44-83,3%), kế đến là kháng
metronidazole (chiếm 36,4-50%) và amoxicillin
có tỷ lệ đề kháng thấp nhất (13,6-16,7%).

Tỷ lệ đề kháng từng loại kháng sinh xét trên
nhóm thất bại với 1 phác đồ PPI-A-C và thất
bại với 2 phác đồ là PPI-A-C + PPI-A-L
Bảng 5: Tỷ lệ đề kháng từng loại kháng sinh xét trên
nhóm thất bại với 1 phác đồ PPI-A-C và thất bại với 2
phác đồ là PPI-A-C + PPI-A-L.
Kháng sinh

n
%
Clarithrom n
ycin
%
Levofloxaci n
n
%
Amoxicillin

Kháng sinh đồ
Đề kháng sau thất Đề kháng sau thất
bại phác đồ PPI-A-C bại phác đồ PPI-A-L
Kháng Nhạy Tổng Kháng Nhạy Tổng
13

83
96
3
14
17
13,5 86,5 100 17,7 82,3 100
51
45
96
13
4
17
53,1 46,9 100 76,5 23,5 100
22
74
96
6
11
17
22,9 77,1 100 35,3 64,7 100

Chuyên Đề Nội Khoa


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015
Nhận xét: Tỷ lệ đề kháng cao nhất là
clarithromycin (53,1-76,5%), thấp nhất là
amoxicillin (13,5-17,7%). Xét trong 17 trường hợp
đề kháng 2 phác đồ PPI-A-C và PPI-A-L. Không
tìm thấy trường hợp nào kháng cả 3 loại kháng

sinh, 1 trường hợp không đề kháng với cả 3 loại
kháng sinh, 8 trường hợp kháng clarithromycin
và không kháng với 2 kháng sinh còn lại

Đặc điểm của nhóm không đề kháng với
bất kỳ loại kháng sinh nào
Trong 34 trường hợp không đề kháng với bất
kỳ kháng sinh nào, 27 trường hợp thất bại trong
lần đầu tiên với phác đồ PPI-A-C; 6 trường hợp
thất bại sau 2 đợt điều trị thì phác đồ PPI-B-T-M
phổ biến nhất và chỉ có 1 trường hợp điều trị ≥ 3
đợt, trong đó sử dụng cả phác đồ PPI-A-L.

Đánh giá số lượng kháng sinh bị đề kháng
Bảng 6: Số loại kháng sinh bị đề kháng(n=102)
Kháng
n
%

Không
1 loại 2 loại 3 loại 4 loại 5 loại Tổng
kháng
27
18
33
15
8
1
102
26,47 17,65 32,35 14,71 7,84 0,98 100


Nhận xét: Kết quả kháng nhiều nhất là 2 loại
KS: có 33 BN, chiếm 32,35%; 1 BN kháng 5 loại
KS. Đặc biệt có 27 BN không bị đề kháng với bất
kỳ KS nào, chiếm 26,47%.

BÀNLUẬN
Đặc điểm tuổi và giới của dân số nghiên cứu
Theo Lê Đình Minh Nhân, tuổi trung bình là
44,6. Tỷ lệ nam/nữ: 132/125(7). Còn theo Nguyễn
Thúy Vinh, tỷ lệ nam/nữ: 3/1. Tuổi tập trung ở
khoảng 36-59(12). So sánh với kết quả của chúng
tôi thì có sự khác biệt, có lẽ là do đối tượng
chúng tôi là những BN đã điều trị thất bại nên
không đại diện cho dân số chung.

Tỷ lệ đề kháng chung cho từng loại KS và
xét trên nhóm thất bại với 1 đợt điều trị, 2
đợt điều trị và 3 đợt điều trị
Đề kháng thứ phát đối với clarithromycin
Năm 2006 - 2008, một nghiên cứu tại miền
Nam Ba Lan đã cho thấy đề kháng
clarithromycin nguyên phát là 21% và thứ phát

Chuyên Đề Nội Khoa

Nghiên cứu Y học

là 80%(6). Tại Pháp, một nghiên cứu ở trẻ em năm
2002, tỷ lệ đề kháng clarithromycin trước điều trị

là 34,7% và sau điều trị là 52,1%(5). Tại Nhật Bản,
tỷ lệ đề kháng sau 1 đợt điều trị là 88%(13). Còn ở
Đài Loan, năm 2009 đã báo cáo tỷ lệ kháng thứ
phát sau điều trị là 78,7% so với tỷ lệ 10,6%
kháng nguyên phát(2). Ở Việt Nam năm 2003,
Nguyễn Thúy Vinh đã ghi nhận tỷ lệ kháng
clarithromycin trước điều trị là 21,6%, và sau
điều trị là 78,9%(12), theo Nguyễn Thị Út (2010), tỷ
lệ nhạy với clarithromycin là 18,4%(11). Còn kết
quả đề kháng của chúng tôi nếu tính chung là
57%, sau khi thất bại 1 lần, 2 lần… thì tỷ lệ đề
kháng tăng theo số lần thất bại, lần lượt là
66,7% và 83,3%. Nếu đã thất bại với phác đồ có
chứa clarithromycin thì tỷ lệ đề kháng thứ phát
là rất cao.

Đề kháng thứ phát đối với amoxicillin
Trên thế giới, đề kháng thứ phát với
amoxicillin tại Pháp (2002) đã ghi nhận không có
kháng thứ phát sau điều trị ở trẻ em(5); tại Đài
Loan (2009) không thấy có đề kháng trước và sau
điều trị(2). Riêng tại Nhật Bản, đề kháng đối với
amoxicillin tăng dần theo số đợt điều trị có sử
dụng amoxicillin, sau từ 2 đến 3 lần điều trị thất
bại, tỷ lệ đề kháng tăng từ 49,5-72,7%(13). Tại Việt
Nam, theo Nguyễn Thúy Vinh (2003), đề kháng
thứ phát sau điều trị phác đồ có chứa amoxicillin
là 36,8%(12). Trong khi khảo sát tại Bệnh viện Nhi
Trung ương (2010) của Nguyễn Thị Út, đề kháng
với amoxicillin sau điều trị là 74%(11). Tuy nhiên,

đây là kết quả khảo sát trên đối tượng trẻ em nên
kết quả có thể khác so với người lớn. Trong kết
quả nghiên cứu của chúng tôi, dù thất bại 1,2, hay
3 lần, kể cả thất bại với 2 lần phác đồ điều trị có
chứa amoxicillin, tỷ lệ đề kháng với amoxicillin
cũng chỉ từ 13,7-17,7% mà thôi. Kết quả này có vẽ
ít khác biệt so với các nghiên cứu từ Pháp(5), Đài
Loan nhưng rất khác so với kết quả từ Nhật
Bản(13). Như vậy, đề kháng với amoxicillin là thấp.
Đề kháng thứ phát đối với levofloxacin
Vấn đề kháng thứ phát sau điều trị trong các
nghiên cứu trên thế giới đều cho thấy tỷ lệ đề

93


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015

kháng tăng hơn so với trước điều trị. Tùy tình
hình sử dụng KS của người bệnh, tỷ lệ đề kháng
có khác nhau, chẳng hạn như theo
Wueppenhorst ở Đức, nếu sau thất bại với phác
đồ điều trị có chứa levofloxacin, tỷ lệ đề kháng là
26,7%. Nếu các đối tượng tham gia nghiên cứu
trong tiền căn đã từng sử dụng các thuốc nhóm
Quinolone, tỷ lệ đề kháng sau điều trị thất bại là
44,5%(16). Tại Việt Nam, chưa có nghiên cứu nào
về đề kháng với levofloxacin. Kết quả đề kháng

của chúng tôi đối với levofloxacin là 25,7%, gần
giống các báo cáo trên thế giới; tỷ lệ này tăng lên
35,3% trong trường hợp thất bại với phác đồ có
chứa levofloxacin, cũng giống trường hợp đề
kháng tại Đức. Chính vì sự đề kháng với
levofloxacin ngày càng gia tăng cho nên việc chỉ
định sử dụng các phác đồ này phải hết sức thận
trọng. Cho đến nay, phác đồ bộ ba có chứa
levofloxacin chỉ được sử dụng ở hàng thứ hai
sau thất bại với phác đồ đầu tay, hoặc được sử
dụng như liệu pháp cứu vãn mà thôi.

Đề kháng thứ phát đối với tetracycline
Trên thế giới, tỷ lệ kháng tetracycline là thấp,
nhất là ở các nước phát triển. Tại Châu Âu, theo
Megraud (2008-2009), tỷ lệ này là 0,6 %, kết quả
tương tự như tại Châu Mỹ(4). Tại Châu Á, tỷ lệ
kháng chung là 2,4%(4); ở Đài Loan là 0-0,5%; ở
Hàn Quốc là 8,8%; cao nhất là tại Iran: 37,1%.
Tình hình kháng tetracycline tại các nước rất ít là
do tetracycline và bismuth không được lưu hành
ở nhiều quốc gia, trong khi đó, ở một số quốc gia
Châu Á và Châu Phi, bismuth được phép sử
dụng. Tại Việt Nam, kết quả của Phan Quốc
Hoàn (1998) và của Lê Đình Minh Nhân (2002),
tỷ lệ đề kháng là 10%(7). Năm 2010, báo cáo của
Nguyễn Đức Toàn và Nguyễn Thị Nguyệt cho
thấy tỷ lệ này tăng lên 20%(9,10). Kết quả đề kháng
của chúng tôi là 23,5%, gần giống với kết quả của
2 tác giả trên, cũng giống trong trường hợp đề

kháng với metronidazole. Số lượng phác đồ điều
trị có tetracycline rất ít, có lẽ là do thói quen
dùng thuốc ở các tuyến tỉnh không theo khuyến
cáo mà sử dụng theo thói quen và sự thuận tiện.

94

Đề kháng thứ phát đối với metronidazole
Kết quả của chúng tôi gần giống kết quả ở
phần lớn các nước như Bỉ,Tây Ban Nha, Chi Lê,
Alaska, Hàn Quốc, thấp hơn kết quả tại Iran là
65,5%(13), và cao hơn so với các báo cáo ở Đài
Loan(2). Tại Việt Nam, báo cáo từ Miền Bắc năm
2010 của Nguyễn Thị Nguyệt là 95,5%(10), và theo
Nguyễn Đức Toàn là 94,2%(9); tỷ lệ này cao hơn
nhiều so với kết quả ở Miền Nam của Lê Đình
Minh Nhân (2002) là 50,8%(7) và của chúng tôi là
44,1%. Mặc dù tỷ lệ đề kháng của chúng tôi là
thứ phát nhưng trong lô nghiên cứu, đối tượng
sử dụng phác đồ có chứa metronidazole trước
đó rất ít nên có thể xem là đề kháng nguyên
phát. Tình hình kháng metronidazole phổ biến
hơn ở các nước đang phát triển, nhất là khu vực
Châu Á. Tại Việt Nam, người ta nhận thấy tỷ lệ
kháng với metronidazole ở Miền Bắc cao hơn so
với ở Miền Nam và theo thời gian, tỷ lệ này
không tăng hơn, có thể là do tại Miền Nam ít sử
dụng phác đồ điều trị có chứa metronidazole so
với các thuốc khác.
Tỷ lệ đề kháng kháng sinh xét trên nhóm BN

đã điều trị thất bại lần 1 bằng phác đồ PPIAC, và lần 2 bằng phác đồ PAL
Trong kết quả nghiên cứu của chúng tôi có
17 trường hợp thất bại lần đầu với phác đồ PPIAC, và tiếp tục thất bại lần 2 với phác đồ PPI-AL,
chúng tôi phân tích kết quả đề kháng của 3
kháng sinh là amoxicillin, clarithromycin, và
levofloxacin thì nhận thấy: tỷ lệ kháng với
amoxicillin là 17,7%, với clarithromycin là 76,5%,
với levofloxacin là 35,5%. Trong khi tại Nhật, tỷ
lệ đề kháng với amoxicillin sau 2 lần thất bại là
49,5%, với clarithromycin là 88,8%(13). Kết quả
của chúng tôi có 1 trường hợp không đề kháng
với cả 3 kháng sinh, 8 trường hợp chỉ kháng với
clarithromycin nhưng 2 KS còn lại không bị đề
kháng, nhưng kết quả 8 trường hợp này vẫn thất
bại điều trị với phác đồ có 2 KS không bị đề
kháng là PPI-A-L. Điều này đã đặt ra nhiều vấn
đề cần phải xem xét lại, cả 2 loại KS không bị đề
kháng nhưng khi điều trị trên BN thì không hiệu
quả. Như vậy, phải chăng có sự khác biệt về đề

Chuyên Đề Nội Khoa


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015
kháng KS trên in-vivo và in-vitro, chất lượng của
KS, hiệu quả của thuốc ức chế bơm proton đã sử
dụng cho BN, vấn đề tuân thủ của BN tại các cơ
sở điều trị ở Việt Nam.

Số lượng kháng sinh bị đề kháng

Nhóm đề kháng từ 1 loại đến 5 loại kháng
sinh
Trong nghiên cứu của chúng tôi có kết
quả kháng 1 loại KS là 18%, còn lại 56% là đa
kháng. Trong đó,đề kháng với 2 KS là nhiều
nhất, chiếm 32%; kháng với 3 KS là 15%; kháng
với 4 KS là 8%; đồng thời có 1% trường hợp bị đề
kháng với cả 5 loại KS. Kết quả này cũng giống
như kết quả của Nguyễn Đức Toàn(14): đa kháng
chiếm 56,4%. Tuy nhiên, trong nghiên cứu này,
đề kháng với 1 loại KS là nhiều nhất, có lẽ là do
nghiên cứu trên sự đề kháng nguyên phát.
Nguyễn Thị Út(11) cũng cho thấy tình hình kháng
2 loại KS là nhiều nhất; đề kháng với 3 loại, và có
cả đề kháng với 4 loại KS ở trẻ em. Trong khi ở
các nước như Ý, Hồng Kông, tình hình đa kháng
thuốc trung bình khoảng 10%; ở Bulgaria là 4,9%
và Thụy Điển là 0,6%(4). Điều này cho thấy rằng
tình hình đa kháng thuốc ngày càng phổ biến.
Đây thật sự là một vấn đề rất đáng lo ngại.
Nhóm BN không đề kháng với loại kháng
sinh nào
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ
không đề kháng với bất kỳ KS chiếm tỷ lệ khá
cao là 27%, so với nghiên cứu từ Iran chỉ có 3%.
Nguyễn Đức Toàn tại Việt Nam báo cáo tỷ lệ này
là 5,8%(9). Kết quả của chúng tôi cao hơn rất
nhiều so với các nghiên cứu khác. Kết quả các
phác đồ sử dụng trong nhóm này, đa phần là
phác đồ PPI-AC, có 6 trường hợp Bn được điều

trị với 2 phác đồ và 1 trường hợp điều trị ≥3 phác
đồ nhưng vẫn thất bại mặc dù kết quả không đề
kháng với bất kỳ loại KS nào. Có lẽ cũng cần
phải xem lại nhiều vấn đề khác trong điều trị
như việc hướng dẫn BN để đảm bảo tuân thủ
tốt, chọn lựa thuốc chất lượng và đảm bảo hiệu
quả tiệt trừ cao... Điều này cho thấy hiệu quả
thành công hay thất bại của một phác đồ điều trị

Chuyên Đề Nội Khoa

Nghiên cứu Y học

tùy thuộc vào nhiều yếu tố kết hợp, đề kháng KS
được xem là nguyên nhân quan trọng nhất
nhưng chưa phải là tất cả.

KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu ở những BN viêm loét dạ
dày tá tràng, bị thất bại với ít nhất một phác đồ
tiệt trừ H.pylori, tỷ lệ đề kháng KS cao nhất là
kháng với clarithromycin (44-83,3%); thấp nhất
lả kháng với amoxicillin (13,5-17,7%). Tỷ lệ đề
kháng với clarithromycin, metronidazole,
levofloxacin tăng theo số đợt điều trị thất bại. Có
tình trạng đa kháng thuốc, nhiều nhất là 2 loại
KS, có đề kháng với cả 5 loại KS. Cần chú ý có
hiện tượng không đề kháng với KS nào nhưng
vẫn thất bại điều trị.


TÀI LIỆU THAMKHẢO
1.

2.

3.

4.

5.

6.

7.

8.
9.

Bùi Hữu Hoàng (2011), ‘Hiệu quả của phác đồ nối tiếp trong tiệt
trừ Helicobacter pylori ở bệnh nhân viêm loét dạ dày - tá tràng”. Y
Học TP Hồ Chí Minh 2011;15 (phụ bản số 1, chuyên đề hội nghị khoa
học ĐHYD), tr. 303 - 307.
Chang WL, Sheu BS, Cheng HC, Yang YJ, Yang HB, Wu JJ
(2009), “Resistance to metronidazole, clarithromycin and
levofloxacin of Helicobacter pylori before and after
clarithromycin - based therapy in Taiwan”,J Gastroenterol
Hepatol. 24(7), pp. 1230 - 1235.
Đào Hữu Ngôi (2009), “ Phác đồ Omeprazole +Amoxicillin +
Levofloxacin so với phác đồ Omeprazole +Amoxicillin +
Clarithomycin trong điều trị tiệt trừ Helicobacter pylori ở bệnh

nhân viêm loét dạ dày tá tràng, Luận văn Thạc Sĩ Y học. Đại học Y
Dược TP. HCM, tr. 48 - 50.
De Francesco V, Giorgio F, et al (2010), “ WorldwideH.
pyloriAntibiotic Resistance: a Systematic Review”, Gastrointestin
Liver Dis, Vol.19 No 4, pp. 409 – 414.
Kalach N, Benhamou PH, Bergeret M, Gottrand F, Husson MO,
Barbier C, Dupont C, Raymond J (2002), “Acquisition of
secondary resistance after failure of a first treatment of
Helicobacter pylori infection in children”,ArchPediatr. 9(2), pp.
130 - 135.
Karczewska E, Wojtas - Bonior I, Sito E, Zwolińska - Wcisło M,
Budak A (2011), “ Primary and secondary clarithromycin,
metronidazole, amoxicillin and levofloxacin resistance to
Helicobacter pylori in southern Poland”, Harmacol Rep. 63(3), pp.
799 - 807.
Lê Đình Minh Nhân (2002), “ Góp phần nghiên cứu tình hình
kháng thuốc của Helicobacter pylori trong bệnh viêm loét dạ dày
tá tràng”, Đại học Y Dược, Luận văn Thạc sĩ y học.
Megraud F. (2004), “ H. pylori antibiotic resistance: prevalence,
importance, and advances in testing”, Gut 53, pp. 1374 - 1384.
Nguyễn Đức Toàn, Nguyễn Văn Thịnh, Nguyễn Thị Nguyệt,
Nguyễn Thị Hồng Hạnh và Cs (2012), “ Tình hình kháng kháng
sinh của Helicobacter pylori ở bệnh nhân viêm dạ dày và loét tá
tràng”, Tạp chí Khoa học Tiêu hóa Việt Nam năm 2012 – tập VII – số
27, tr. 1783 - 1788.

95


Nghiên cứu Y học


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015

10. Nguyễn Thị Nguyệt, Nguyễn Thị Hồng Hạnh, Trần Văn Hợp
(2010), “ Khảo sát thính kháng thuốc các chủng Helicobacter
pylori phân lập từ các bệnh nhân viêm dạ dày mạn tính, loét dạ
dày và ung thư dạ dày”, Tạp chí Y học Thực hành, số 4 năm 2010,
tr. 20 - 22.
11. Nguyễn Thị Út, Lê Thanh hải, Nguyễn Gia Khánh, Hoàng Thị
Thu Hà (2010), “ Đánh giá tính nhạy cảm kháng sinh ở bệnh nhi
nhiễm Helicobacter pylori sau điều trị thất bại”, Tạp chí Y học
Thực hành, số 5 năm 2010, tr. 69 - 72.
12. Nguyễn Thúy Vinh (2003), “ Nghiên cứu hiệu quả điều trị của
ba phác đồ OAM, OAC, OMC trong loét dạ dày tá tràng
Helicobacter pylori dương tính và ảnh hưởng của kháng thuốc
tới các phác đồ trên”,Luận văn Tiến Sĩ Y học. Học viện Quân y Hà
Nội, tr. 35 - 40.
13. Nishizawa T, Suzuki H, Juntaro Matsuzaki H, Hirata K, Ikeda F,
Takahashi M, and Hibi T (2011), “ Enhancement of Amoxicillin
Resistance after Unsuccessful Helicobacter pylori Eradication”,
Antimicrob Agents Chemother. 55(6), pp. 3012 – 3014.

96

14. Sebastian S &Michetti P. (2002), “ Helicobacter pylori Infection”,
N Engl J Med (15), pp. 1175 - 1186.
15. Trần Thiện Trung, Phạm Văn Tân, Quách Trọng Đức, Lý kim
Hương (2009), “ Hiệu quả của phác đồ EAL và EBMT trong tiệt
trừ Helicobacter pylori sau điều trị thất bại lần đầu tiên”, Y Học
TP. HCM số 13 phụ trang số 1- 2009, tr. 5 – 10.

16. Wueppenhorst N, Stueger HP, Kist M, Glocker E (2009), “
Identification and molecular characterization of triple- and
quadruple-resistant Helicobacter pylori clinical isolates in
Germany”, J Antimicrob Chemother, 63(4), pp. 648 – 653.

Ngày nhận bài báo:

27/10/2014

Ngày phản biện nhận xét bài báo:

30/10/2014

Ngày bài báo được đăng:

10/01/2015

Chuyên Đề Nội Khoa



×