Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Nhân một trường hợp ung thư ống niệu rốn ở giai đoạn trễ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (473.73 KB, 6 trang )

ên cải tiến hệ thống phân loại của Henly với 4
giai đoạn được xác định:
Giai đoạn I, khối bướu chỉ giới hạn ở ống
niệu rốn và /hoặc bàng quang.
Giai đoạn II, các khối bướu vượt ra ngoài lớp
cơ của ống niệu rốn và / hoặc bàng quang.
Giai đoạn III, khối bướu xâm nhập vào các
hạch bạch huyết gần.
Giai đoạn IV, khối bướu xâm nhập hạch
bạch huyết xa hoặc di căn xa.
Tiên lượng của bệnh lý ung thư ống niệu rốn
thì thường rất xấu(17). Nghiên cứu của Mayo
clinic cho thấy 59% bệnh nhân đã có di căn khi
phát hiện bệnh(2). Và 92% bệnh nhân này sẽ tử
vong trong khoảng thời gian 1 năm(2). Khác với
ung thư tế bào chuyển tiếp của bàng quang, cho
đến nay các tác giả nhận thấy hóa trị toàn thân
và xạ trị hầu như không có ý nghĩa đáng kể
trong điều trị phối hợp của bệnh lý này(4). Cũng
có một vài báo cáo về hóa trị toàn thân cho ung
thư ống niệu rốn(5,6,7,8,16). Báo cáo với nhiều ca lâm

Chuyên Đề Thận – Niệu


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015
sàng nhất và theo dõi lâu nhất của Mayo clinic
trên 29 bệnh nhân có di căn với các phát đồ
cisplatin (50% bệnh nhân), doxorubicin (36%
bệnh nhân), cyclophosphamide (21% bệnh
nhân), 5-fluorouacil (21% bệnh nhân), and


paclitaxel (14% bệnh nhân) cho thấy không có sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê về khoảng thời
gian sống còn của nhóm nhận hóa trị và nhóm
không hóa trị(2).
Năm 2002 Arlene O. và cộng sự(16) đã nhấn
mạnh trong nghiên cứu của mình về sự giống
nhau giữa ung thư ống niệu rốn và ung thư
đại tràng thể hiện trên kháng nguyên phôi
(carcinoembryonic antigene) và CA 19-9 cũng
thường tăng trong ung thư ống niệu rốn.
Những chất chỉ điểm sinh học này có thể giúp
theo dõi tình trạng đáp ứng điều trị, tiến triển
và tái phát bệnh.

KẾT LUẬN
Ung thư ống niệu rốn là một bệnh lý hiếm
gặp với tiên lượng rất xấu. Phẫu thuật vẫn là
phương pháp điều trị chính và bao gồm việc cắt
bỏ bướu ung thư ống niệu rốn và cắt bỏ toàn
phần hoặc bán phần bàng quang với cân cơ phúc
mạc thành một khối. Phải đảm bảo biên phẫu
thuật sạch tế bào bướu vì có ý nghĩa tiên lượng
thời gian sống còn cho bệnh nhân. Hóa trị và xạ
trị không cho thấy hiệu quả điều trị rõ ràng. Vì
vậy, đây là một bệnh hiếm gặp nhưng rất nguy
hiểm nếu không được chẩn đoán và điều trị
đúng mức. Nhất là với ung thư ống niệu rốn xảy
ra trên bệnh nhân có tồn tại ống niệu rốn trong
thời gian dài. Các bệnh nhân khi có các bất
thường của ống niệu rốn nên được chỉ định điều

trị phẫu thuật từ lúc phát hiện nhằm loại bỏ
nguy cơ phát triễn thành tổn thương ác tính về
sau. Ngoài ra, một khối bướu vùng chóp bàng
quang thì nên nghĩ đến ung thư ống niệu rốn,
đặc biệt là khi kết quả giải phẫu bệnh là ung thư
tế bào tuyến (adenocarcinoma).

Nghiên cứu Y học

2.

3.

4.
5.
6.

7.

8.

9.
10.

11.

12.
13.

14.


15.

16.

17.

clinicopathologic features and long-term outcomes of an
aggressive malignancy. Cancer.. Vol107 :712-20.
Ashley R.A, Brant A. Inman, Thomas J. Sebo, Bradley C.
Leibovich, M, Michael L. Blute, Eugene D. Kwon, Horst
Zincke: Urachal Carcinoma (2006). Clinicopathologic Features
and Long-Term Outcomes of an Aggressive Malignancy.
American Cancer Society.
Frimberger DC, Bradley P. Kropp (2012). Bladder Anomalies
in Children. Campbell-Walsh Urology, Tenth Edition, 3379 –
3388.
Henly D.R., Farrow G.M. and Zincke H. (1993). Urachal
cancer: role of conservative surgery. Urology, 42: 635.
Johnson, D. E., Hodge, G. B., Abdul-Karim, F. W. and Ayala,
A. G. (1985). Urachal carcinoma. Urology, 26: 218.
Kakizoe T., Matsumoto K., Andoh M., Nishio, Y. and Kishi, K.
(1983). Adenocarcinoma of urachus. Report of 7 cases and
review of literature. Urology, 21: 360.
Kawakami S., Kageyama, Y., Yonese, J., Fukui, I., Kitahara, S.,
Arai, G. et al (2001). Successful treatment of metastatic
adenocarcinoma of the urachus: report of 2 cases with more
than 10-year survival. Urology, 58: 462.
Logothetis C.J., Samuels, M. L. and Ogden, S. (1985).
Chemotherapy for adenocarcinomas of bladder and urachal

origin: 5-fluorouracil, doxorubicin, and mitomycin-C.
Urology, 26: 252.
Lane, V. (1976). Prognosis in carcinoma of the urachus. Eur
Urol, 2: 282.
Nguyễn Đạo Thuấn, Vũ Văn Ty, Lê Anh Tuấn (2007). Ung
thư ống niệu rốn: một số kinh nghiệm về chẩn đoán và điều
trị. Hội nghị niệu – thận học TP. Hồ Chí Minh; tr.135-139.
Milhoua PM, Knoll, Clifford B (2006). Bleustein, And Reza
Ghavamian: A Laparoscopic partial cystectomy for treatment
of adenocarcinoma of the urachus. Urology 67: 423.e15–
423.e17.
Sheldon C.A., Clayman R.V., Gonzalez R., Williams R.D. and
Fraley E.E. (1984). Malignant urachal lesions. J Urol, 131: 1.
Pinthus J.H., Riad Haddad, Trachtenberg J., Eric Holowaty,
Jeff Bowler, Andrew M. Herzenberg, Michael Jewett and Neil
E. Fleshner (2006). Population Based Survival Data on Urachal
Tumors . The Journal Of Urology, Vol. 175, 2042-2047.
Siefker-Radtke, A. O., Gee, J., Shen, Y., Wen, S., Daliani, D.,
Millikan, R. E. et al (2003). Multimodality management of
urachal carcinoma: the M. D. Anderson Cancer Center
experience J Urol, 169: 1295.
Santucci R. A., True, L. D. and Lange, P. H. (1997). Is partial
cystectomy the treatment of choice for mucinous
adenocarcinoma of the urachus? Urology, 49: 536.
Siefker-Radtke A.O., Jason Gee, Yu Shen, Sijin Wen, Danai
Daliani, Randall E. Millikan‡ And Louis L. Pisters (2003).
Multimodality Management Of Urachal Carcinoma: The M.
D. Anderson Cancer Center Experience. The Journal Of
Urology, Vol. 169, 1295–1298.
Wadhwa P., Surendra B. Kolla, and Ashok K. Hemal (2006).

Laparoscopic en bloc partial cystectomy with bilateral pelvic
lymphadenectomy for urachal adenocarcinoma. Urology 67:
837–843.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Ashley RA1, Inman BA, Sebo TJ, Leibovich BC, Blute ML,
Kwon ED, Zincke H (2006). Urachal carcinoma:

Chuyên Đề Thận – Niệu

Ngày nhận bài báo:

10/05/2015

Ngày phản biện nhận xét bài báo: 01/06/2015

45


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015

Nghiên cứu Y học
Ngày bài báo được đăng:

46

05/08/2015


Chuyên Đề Thận – Niệu



×