Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Đặc điểm lâm sàng, hình ảnh nội soi và mô bệnh học của thực quản barrett

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (327.5 KB, 7 trang )

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012

ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, HÌNH ẢNH NỘI SOI VÀ MÔ BỆNH HỌC
CỦA THỰC QUẢN BARRETT
Lê Đình Quang*, Trần Kiều Miên*, Nguyễn Thuý Oanh**

TÓM TẮT
Mở đầu: Thực quản Barrett là tổn thương tiền ung thư. Theo y văn ghi nhận tần suất thực quản Barrett ở
các quốc gia phương Tây cao hơn ở các quốc gia Châu Á. Trong thập niên gần đây, người ta quan sát thấy sự
thay đổi đáng kể trong tần suất bệnh thực quản Barrett và ung thư biểu mô tuyến thực quản. Riêng tại Việt
Nam, thực quản Barrett vẫn chưa được sự quan tâm đúng mức và hầu hết được chẩn đoán dựa trên hình ảnh
nội soi nghi ngờ. Với xu thế hội nhập thế giới về nhiều mặt như kinh tế, văn hoá, xã hội và sự thay đổi lối sống sẽ
làm gia tăng tần suất mắc bệnh trào ngược dạ dày thực quản và chắc hẳn có tác động mạnh đến tần suất thực
quản Barrett trong dân chúng.
Mục tiêu: Khảo sát đặc điểm lâm sàng, nội soi và mô bệnh học của thực quản Barrett.
Phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 83 bệnh nhân có tổn thương nghi ngờ thực quản Barrett
qua nội soi. Xác định CSR bằng phương pháp nhuộm Alcian blue pH 2,5.
Kết quả: 54,2% trường hợp chuyển sản biểu mô trụ (trong đó 19,3% CSR, 6% chuyển sản loại tế bào đáy
vị, 28,9% chuyển sản loại tế bào tâm vị). Về lâm sàng: tuổi trung bình 47,5 ± 14,18; nam ưu thế hơn nữ (2,21/1);
bệnh nhân có triệu chứng trào ngược điển hình không cao (31,2% nóng rát sau xương ức, 12,5% cảm giác chua
trong miệng, 12,5% ợ trớ). Về nội soi: Dạng dải chiếm ưu thế (87,5%); Đoạn ngắn chiếm 81,2%; không có thoát
vị hoành; 43,75% viêm thực quản và 50% nhiễm Hp. Về mô bệnh học: tỉ lệ nghịch sản nhẹ chiếm 12,5% và chỉ
ghi nhận nghịch sản ở nhóm thực quản Barrett đoạn ngắn. Nhóm bệnh nhân thực quản Barrett CSR (+) có thói
quen uống rượu và triệu chứng đau sau xương ức nhiều hơn nhóm bệnh nhân thực quản Barrett CSR (-) (với p
lần lượt là 0,015 và 0,047). Không thấy có sự khác biệt về tỉ lệ nghịch sản giữa nhóm thực quản Barrett CSR (+)
và nhóm thực quản Barrett CSR (-).
Kết luận: Thực quản Barrett được chẩn đoán ở độ tuổi trẻ hơn, ưu thế ở nam giới, có triệu chứng điển hình
của trào ngược dạ dày thực quản thấp. Đa phần thực quản Barrett là đoạn ngắn và dạng dải. Tỉ lệ nghịch sản
không khác biệt giữa thực quản Barrett CSR (+) và thực quản Barrett CSR (-).


Từ khoá: thực quản Barrett, CSR, nghịch sản, BTNDDTQ

ABSTRACT
BARRETT’S ESOPHAGUS: CLINICAL, ENDOSCOPIC AND HISTOLOGICAL CHARACTERISTICS
Le Dinh Quang, Tran Kieu Mien, Nguyen Thuy Oanh
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 1 - 2012: 30 - 36
Background: Barrett’s esophagus (BE) is premalignant lesion. According to literature, the prevalence of BE
is higher in Western than Asia countries. There has been a crucial change of incidence of BE and esophageal
adenocarcinoma in recent decade. In Vietnam, BE has not been concerned properly yet and diagnosis of BE is also
based on suspected endoscopy. Nowadays, with the trend in the world in many aspects such as economic,
cultural, social and “westernization” in lifestyle might increase incidence of GERD and have certainly strong

 Bộ môn Nội, Đại học Y Dược TP. HCM,  khoa Nội soi BV Đại học Y Dược TPHCM
Tác giả liên lạc: BS.CKI Lê Đình Quang_ ĐT: 0985938040_Email:

30

Chuyên Đề Nội Khoa I


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012

Nghiên cứu Y học

impact on incidence of BE.
Aim: To describe clinical, endoscopic and histological characteristics of BE.
Method: cross-sectional study of 83 patients with endoscopically suspected esophageal metaplasia. Intestinal
metaplasia (IM) is proven by Alcian blue pH 2.5 solution.
Results: There are 54.2% of patients with columnar epithelium metaplasia including 19.3% IM, 6%
gastric-type metaplasia and 28.9% cardia-type metaplasia. Clinical features: the average age was 47.5 ± 14.18

years old; the male : female ratio was 2.21 : 1; the percent of patiens with typical symptoms for GERD was low
(31.2% heartburn, 12.5% acid reguritation, 12.5 % reguritation). Endoscopic features: the tongue-type BE was
predominant (87.5%); short segment BE was 81.2%; there was no hernie; endoscopic esophagitis was 43.75%
and 50% of patients was infected by Hp. Histological features: patients with low
grade dysplaisa was 12.5% and dysplasia only occurred in patients with short segment BE. Patients BE with
IM (+) had more alcohol drinking and post-sternal pain than patients BE without IM (p = 0.015 and 0.047,
respectively); there was no statistical difference of dysplasia between patients BE with IM and patients BE without
IM.
Conclusions: In Vietnam, the average age of BE is younger; male is predominant; patients with typical
symptoms of GERD are less; most patients had short segment BE and tongue-type BE; there was no statistically
significant difference of dysplasia between patients BE with IM and patients BE without IM.
Key words: Barrett’s esophagus (BE), intestinal metaplasia (IM), dysplasia, GERD.
Trung Quốc trên 4120 trường hợp cho thấy tỉ lệ
ĐẶT VẤN ĐỀ
phát hiện thực quản Barrett qua nội soi ở những
Năm 1950, Norman Barrett lần đầu tiên mô
bệnh nhân có triệu chứng đường tiêu hóa trên
tả tổn thương chuyển sản ruột tại đoạn dưới
khác nhau là 2,44%. Theo dõi 492 bệnh nhân
thực quản và gọi là thực quản Barrett. Đến nay,
trong 2 năm, tỉ lệ mắc ung thư biểu mô tuyến
cơ chế hình thành tổn thương trong thực quản
thực quản là 0,61% bệnh nhân-năm(16).
Barrett và khả năng tân sản ác tính của bệnh vẫn
Riêng tại Việt Nam, thực quản Barrett vẫn
là vấn đề đang được nghiên cứu(4). Theo y văn
chưa được sự quan tâm đúng mức và hầu hết
ghi nhận tần suất thực quản Barrett ở các quốc
được chẩn đoán dựa trên hình ảnh nội soi nghi
gia phương Tây cao hơn ở các quốc gia Châu

ngờ. Với xu thế hội nhập thế giới về nhiều mặt
Á(5,13). Tuy nhiên trong thập niên gần đây, người
như kinh tế, văn hoá, xã hội và sự thay đổi lối
ta quan sát thấy sự thay đổi đáng kể trong tần
sống sẽ làm gia tăng tần suất mắc bệnh trào
suất bệnh thực quản Barrett và ung thư biểu mô
ngược dạ dày thực quản và chắc hẳn có tác
tuyến thực quản.
động mạnh đến tần suất thực quản Barrett trong
Tầm quan trọng của thực quản Barrett là
dân chúng. Do vậy, chúng tôi thực hiện đề tài
nguy cơ tiến triển đến ung thư biểu mô tuyến
“Đặc điểm lâm sàng, hình ảnh nội soi và mô
thực quản. Nguy cơ ung thư tăng 10 – 30 lần so
bệnh học của thực quản Barrett” với mong
với dân số chung(11). Tại các quốc gia trên thế
muốn bước đầu tìm hiểu về đặc điểm thực quản
giới như Hoa Kỳ và các nước phương Tây cũng
Barrett tại Việt Nam, từ đó góp một phần cho
ghi nhận thấy sự gia tăng đáng kể tỉ lệ thực
những nghiên cứu sâu hơn trong việc chẩn
quản Barrett cũng như sự gia tăng báo động tỉ lệ
đoán, phân tầng nguy cơ và xử trí thực quản
ung thư biểu mô tuyến thực quản(6). Tại các quốc
Barrett.
gia Châu Á, vài nghiên cứu cho thấy sự gia tăng
tỉ lệ thực quản Barrett trong dân số. Nghiên cứu
tại Iran ghi nhận tỉ lệ thực quản Barrett chiếm
5% trong dân số(14). Một nghiên cứu khác tại


Chuyên Đề Nội Khoa I

31


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012

Nghiên cứu Y học

ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu cắt ngang, mô tả

Đối tượng nghiên cứu
Tiêu chuẩn chọn lựa
Bệnh nhân được nội soi đường tiêu hóa trên
có hình ảnh nghi ngờ thực quản Barrett trong
thời gian từ 01/03/2010 đến 30/07/2010 tại Khoa
nội soi Bệnh viện Đại Học Y Dược Thành phố
Hồ Chí Minh.
Tiêu chuẩn loại trừ
Bệnh nhân có 1 trong các yếu tố sau: Bệnh
ung thư thực quản đã được chẩn đoán, tiền sử
phẫu thuật thực quản, rối loạn đông cầm máu,
dãn tĩnh mạch thực quản hoặc xơ gan.

KẾT QUẢ
Trong thời gian từ 01/03/2010 đến
30/07/2010, chúng tôi thu thập được 109 trường
hợp có tổn thương nghi ngờ thực quản Barrett

qua nội soi. Trong số đó có 26 mẫu sinh thiết từ
đoạn dưới thực quản cho kết quả mô bệnh học
là biểu mô dạ dày, nên chúng tôi chỉ đưa 83
trường hợp còn lại vào nghiên cứu.
Mô bệnh học của tổn thương thực quản
Barrett nghi ngờ qua nội soi cho kết quả chuyển
sản biểu mô trụ chiếm 54,2%, trong đó CSR
chiếm 19,3%, chuyển sản loại tế bào đáy vị
chiếm 6% và chuyển sản loại tế bào tâm vị
chiếm 28,9%. Trong khi mô bệnh học không cho
kết quả chuyển sản biểu mô trụ chiếm 45,8% bao
gồm 33,7% trường hợp viêm thực quản mạn
tính, 1,2% trường hợp loét thực quản, 2,4%
trường hợp nhú gai thực quản và 8,5% trường
hợp biểu mô gai lành tính.
Bảng 1. Đặc điểm lâm sàng

Tuổi
Giới (n,%)
Nam
Nữ

32

Barrett
Barrett CSR (-) Không chuyển
CSR (+) n =
n = 29
sản n = 38
16

47,5 ± 14,18 46,17 ± 9,87
44,18 ± 9,83
11 (68,8)
5 (31,2)

12 (41,4)
17 (58,6)

24 (63,2)
14 (36,8)

Barrett
Barrett CSR (-) Không chuyển
CSR (+) n =
n = 29
sản n = 38
16
BMI (n,%)
< 18,5
1 (6,2)
18,5 – 25
14 (87,5)
25 – 30
1 (6,2)
> 30
0 (0)
9,5 (0 Hút thuốc
17,75)*
lá (góinăm)
Uống rượu (n,%)

Không
5 (31,2)
Thỉnh
10 (62,5)
thoảng
Thường
1 (6,2)
xuyên
TCCN (n,%)
Vướng
1 (6,2)
nghẹn ở cổ
Cảm giác
chua trong
2 (12,5)
miệng
Ợ trớ
2 (12,5)
Buồn nôn,
4 (25)
nôn
Đau sau
4 (25)
xương ức
Nóng rát
sau xương
5 (31,2)
ức
Đầy bụng,
9 (56,2)

khó tiêu
Nóng rát
10 (62,5)
thượng vị
Đau thượng
12 (75)
vị
Không
0 (0)
TCCN

2 (6,9)
23 (79,3)
4 (13,8)
0 (0)
0 (0 - 16)*

4 (10,5)
29 (76,3)
5 (13,2)
0 (0)
0 (0 – 13,25)*

20 (69)

19 (50)

5 (17,2)

13 (34,2)


4 (13,8)

6 (15,8)

2 (6,9)

3 (7,9)

10 (34,5)

9 (23,7)

1 (3,4)

5 (13,2)

6 (20,7)

9 (23,7)

1 (3,4)

3 (7,9)

4 (13,8)

12 (31,6)

15 (51,7)


23 (60,5)

11 (37,9)

15 (39,5)

22 (75,9)

28 (73,7)

2 (6,9)

2 (5,3)

Bảng 2. Đặc điểm nội soi
Barrett Barrett CSR (-)
Không chuyển
CSR (+) n =
sản n = 38
n = 29
16
Dạng tổn thương thực quản (n,%)
Dạng đảo
8 (50)
9 (31)
17 (44,7)
Dạng dải
14 (87,5)
28 (96,6)

32 (84,2)
Chu vi
3 (18,8)
2 (6,9)
2 (5,3)
Chiều dài tổn thương (n,%)
< 3 cm
13 (81,2)
20 (69)
31 (81,6)
> 3 cm
2 (12,5)
8 (27,6)
3 (7,9)
Dạng đảo
1 (6,2)
1 (3,4)
4 (10,5)
(đơn độc)
Thoát vị
0 (0)
1 (3,4)
0 (0)
hoành (n,%)
Phân loại LA (n,%)

Chuyên Đề Nội Khoa I


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012

Barrett
Barrett CSR (-) Không chuyển
CSR (+) n =
sản n = 38
n = 29
16
A
2 (12,5)
3 (10,3)
9 (23,7)
B
5 (31,2)
2 (6,9)
6 (15,8)
C
0 (0)
1 (3,4)
0 (0)
D
0 (0)
0 (0)
0 (0)
Xét nghiệm Urease nhanh (n,%)
Âm tính
8 (50)
20 (69)
27 (71,1)
Dương tính
8 (50)
9 (31)

11 (28,9)

Bảng 3. Đặc điểm mô bệnh học

Nhẹ
Nặng
Không xác
định
Viêm mạn
tính

Barrett
Barrett CSR
CSR (+)
(-)
n = 16
n = 29
Nghịch sản (n,%)
2 (12,5)
3 (10,3)
0 (0)
0 (0)
0 (0)

Không
chuyển sản
n = 38

0 (0)


0 (0)
0 (0)
0 (0)

16 (100)

Bảng 4. So sánh nhóm thực quản Barrett CSR (+) và
nhóm thực quản Barrett CSR (-)

Tuổi

Barrett CSR
(+) (n = 16)
47,5 ± 14,18

Barrett CSR
(-) (n = 29)
46,17 ± 9,87

Giới (n,%)
Nam
Nữ

11 (68,8)
5 (31,2)

12 (41,4)
17 (58,6)

Hút thuốc lá

(gói-năm)

9,5 (0 17,75)*

0 (0 - 16)*

P
0,714
0,079

Uống rượu
(n,%)

0,098
0,015

Không

5 (31,2)

20 (69)

Thỉnh thoảng
Thường
xuyên

10 (62,5)

5 (17,2)


1 (6,2)

4 (13,8)

Đau sau
xương ức

4 (25)

1 (3,4)

0,047

NS nhẹ

2 (12,5)

3 (10,3)

1

Bảng 5. So sánh nhóm thực quản Barrett CSR (+) và
nhóm không có chuyển sản biểu mô trụ

Tuổi

Barrett CSR (+) Không chuyển
p
(n = 16)
sản n = 38

47,5 ± 14,18
44,18 ± 9,83 0,32

Giới (n,%)
Nam
Nữ

11 (68,8)
24 (63,2)
5 (31,2)
14 (36,8)
Hút thuốc lá (gói- 9,5 (0 - 17,75)* 0 (0 – 13,25)*

Chuyên Đề Nội Khoa I

0,69

0,18

Nghiên cứu Y học
Barrett CSR (+) Không chuyển
(n = 16)
sản n = 38

p

năm)
0,21

Uống rượu (n,%)

Không

5 (31,2)

19 (50)

Thỉnh thoảng
Thường xuyên

10 (62,5)
1 (6,2)

13 (34,2)
6 (15,8)

NS nhẹ

2 (12,5)

0 (0)

0,084

BÀN LUẬN
Trong nghiên cứu chúng tôi thu thập được
83 trường hợp có tổn thương nghi ngờ thực
quản Barrett qua nội soi. Kết quả mô bệnh học
ghi nhận chuyển sản biểu mô trụ chiếm 54,2%
(CSR chiếm 19,3%) và không có hiện tượng
chuyển sản biểu mô trụ ở đoạn dưới thực quản

chiếm 45,8%. Theo GOSPE ghi nhận tỉ lệ phát
hiện chuyển sản biểu mô trụ trên mô bệnh học
trong nhóm tổn thương nghi ngờ thực quản
Barrett trên nội soi là 44,2%(7). Nghiên cứu của
Kim và cộng sự ghi nhận CSR trong nhóm tổn
thương biểu mô trụ nghi ngờ qua nội soi là 22%,
thấp hơn so với các nghiên cứu của phương
Tây. Sự khác biệt có thể phần nào hiểu được do
tần suất bệnh ở Châu Á thấp hơn, cũng như sự
khó khăn trong xác định chỗ nối thực quản – dạ
dày, sinh thiết đúng vị trí và mức độ chính xác
của bác sĩ giải phẫu bệnh(5). Như vậy chỉ với
phương pháp nội soi, chúng ta sẽ chẩn đoán
quá mức thực quản Barrett CSR (+).
Thêm nữa nghiên cứu của chúng tôi cho
thấy CSR được khẳng định trong nhóm tổn
thương thực quản đoạn ngắn (20,3%) nhiều hơn
trong nhóm đoạn dài (15,4%). Nghiên cứu của
Hirota và cộng sự ghi nhận kết quả tương tự, tỉ
lệ CSR trong nhóm tổn thương đoạn ngắn (6%)
nhiều hơn trong nhóm tổn thương đoạn dài
(1,6%)(3). Trong nghiên cứu của Padda và cộng
sự cho kết quả ngược lại, tỉ lệ CSR trong nhóm
tổn thương thực quản đoạn ngắn (38,4%) thấp
hơn trong nhóm tổn thương thực quản đoạn dài
(75%)(8).
Nghiên cứu của chúng tôi phát hiện 1/83
trường hợp CSR với nhuộm HE, trong khi với
nhộm Alcian blue pH 2,5 chúng tôi phát hiện


33


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012

được 16/52 trường hợp CSR. Nandurker và cộng
sự ghi nhận 46/158 trường hợp CSR với kết hợp
nhuộm HE và Alcian blue, trong khi chỉ ghi
nhận 25/158 trường hợp CSR chỉ với nhuộm
HE(3). Như vậy để gia tăng khả năng chẩn đoán
CSR chúng ta cần sử dụng phương pháp nhuộm
Alcian blue pH 2,5. Với phương pháp nhuộm
này, chúng tôi phát hiện được 19,3% trường hợp
CSR, tỉ lệ này cao hơn nghiên cứu của Toruner(8)
29/395 trường hợp (7,4%) và NasseriMoghaddam (14) 13/269 trường hợp (5%),
nhưng thấp hơn nghiên cứu của Chen (11)
261/782 trường hợp (33,38%). Sự khác biệt có thể
do đối tượng nghiên cứu khác nhau.
Theo những ghi nhận của y văn, thực quản
Barrett thường được phát hiện ở độ tuổi trung
niên, trung bình khoảng 55 tuổi(13). Trong nghiên
cứu chúng tôi độ tuổi trung bình phát hiện thực
quản Barrett qua nội soi là 47,5 tuổi hơi thấp
hơn so với nghiên cứu của, Carton (3), Kim(5),
Toruner(8) và Massimo Conio(9). Tại Châu Âu,
tuổi trung bình khoảng 60 tuổi(16). Như vậy so về
độ tuổi chẩn đoán thực quản Barrett CSR (+) dân
số chúng tôi trẻ hơn dân số của các nước

phương Tây và trong khu vực.
Xét về giới tính, thực quản Barrett CSR (+)
thường gặp ở nam nhiều hơn nữ(13). Trong
nghiên cứu chúng tôi cũng cho thấy thực quản
Barrett CSR (+) ưu thế ở nam, và điều này cũng
thấy trong những nghiên cứu của các tác giả
khác(3,5,9,10,16). Uống rượu bia và hút thuốc lá được
ghi nhận là yếu tố nguy cơ cho sự phát triển
thực quản Barrett CSR (+). Hirota và cộng sự ghi
nhận tỉ lệ hút thuốc lá ở nhóm thực quản Barrett
cao hơn nhóm không CSR. Tiền sử uống rượu
cũng ghi nhận tỉ lệ cao trong nhóm CSR. Trong
nghiên cứu Massimo Conio cho thấy uống rượu
và hút thuốc lá ở nhóm thực quản Barrett và
nhóm viêm thực quản cao hơn nhóm người
khỏe mạnh(9). Nghiên cứu của chúng tôi cho
thấy số bệnh nhân hút thuốc lá và uống rượu
chiếm hơn phân nửa dân số. Và có sự khác biệt
có ý nghĩa thống kê giữa 2 nhóm nam và nữ.
Nghiên cứu của Kim cho thấy sự khác biệt ý
nghĩa về tình trạng hút thuốc lá giữa nhóm

34

Barrett CSR (+) và nhóm chuyển sản biểu mô trụ
trên nội soi với CSR (-)(5).
Bằng chứng cho thấy BMI cũng được xem
như là một yếu tố nguy cơ phát triển thực quản
Barrett. Hơn 10 nghiên cứu bệnh chứng đánh
giá sự kết hợp giữa BMI và thực quản Barrett.

Tuy nhiên kết quả này không hằng định, một số
nghiên cứu cho thấy với BMI = 30 và >= 35 có sự
gia tăng nguy cơ phát triển thực quản Barrett,
trong khi một số khác thì không thấy sự kết hợp
giữa BMI và nguy cơ phát triển thực quản
Barrett(2). Bằng chứng khác cho thấy thực quản
Barrett có liên quan với tình trạng béo phì vùng
bụng và không có liên hệ với BMI(13). Trong
nghiên cứu của chúng tôi, bệnh nhân có BMI <=
25 thấp hơn nghiên cứu của Kim(5) (6,2% so với
23,8%), và không có bệnh nhân nào đạt mức
BMI >= 30 và không ghi nhận sự khác biệt BMI
giữa nhóm Barrett CSR (+) và nhóm không
chuyển sản biểu mô trụ. Như vậy có thể nói
hiện tại BMI chưa thấy có sự ảnh hưởng trên
thực quản Barrett tại Việt Nam và một yếu tố
cần đánh giá thêm đó là chỉ số béo phì vùng
bụng.
Các triệu chứng được xem là điển hình của
BTNDDTQ bao gồm cảm giác nóng rát sau
xương ức, cảm giác chua trong miệng, và ợ trớ.
Massimo Conio cho thấy sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê giữa nhóm bệnh nhân thực quản
Barrett CSR (+) và nhóm chứng về triệu chứng
BTNDDTQ (cảm giác nóng rát sau xương ức với
p < 0,0001, ợ trớ với p < 0,0001 và khó nuốt với p
< 0,0001)(9). Martínez de Haro cũng ghi nhận cảm
giác nóng rát sau xương ức 91,1%, nuốt nghẹn
51,4%(10). Nghiên cứu chúng tôi ghi nhận triệu
chứng ợ nóng chiếm 1/3 trường hợp và chưa

thấy có sự khác biệt với nhóm không chuyển
sản biểu mô trụ. So với nghiên cứu Kim thì triệu
chứng ợ nóng chỉ 8,9% thấp hơn so với nghiên
cứu chúng tôi. Sự khác biệt này có thể liên quan
đến việc dịch thuật ngữ “heartburn” sang tiếng
Hàn(5). Tuy nhiên không phải tất cả bệnh nhân
BTNDDTQ đều phát triển thực quản Barrett mà
còn do ảnh hưởng của các yếu tố môi trường(9).
Nghiên cứu của Toruner cho thấy chỉ 10,3% có

Chuyên Đề Nội Khoa I


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
triệu chứng ợ nóng, trong khi đau thượng vị
65% và buồn nôn, nôn 31,2%(8). Khoảng phân
nửa bệnh nhân có triệu chứng không điển hình
của BTNDDTQ như khó chịu hoặc đau ở vùng
thượng vị, sau xương ức và khó nuốt, giống với
nghiên cứu của Avidan khi so sánh hiện diện
triệu chứng trào ngược giữa 306 bệnh nhân viêm
thực quản, 235 bệnh nhân thực quản Barrett và
nhóm chứng 198 bệnh nhân không có
BTNDDTQ cho thấy không có sự khác biệt(3).
Trong nghiên cứu chúng tôi cũng cho thấy tỉ lệ
cao những triệu chứng không phải điển hình
của BTNDDTQ (đau thượng vị 75%, nóng rát
thượng vị 62,5%, đầy bụng khó tiêu 56,2% và rát
sau xương ức 25%). 71,3% bệnh nhân thực quản
Barrett CSR (+) không có triệu chứng trào ngược

do vậy việc tầm soát thực quản Barrett dựa vào
triệu chứng là không thích hợp(5). Như vậy ngay
cả bệnh nhân không có triệu chứng BTNDDTQ
điển hình cũng không nên bỏ qua trong việc
tầm soát thực quản Barrett. Trong nghiên cứu
chúng tôi ghi nhận, nhóm bệnh nhân thực quản
Barrett CSR (+) có triệu chứng đau sau xương ức
nhiều hơn nhóm bệnh nhân thực quản Barrett
CSR (-) (25% so với 3,4% với p = 0,047). Nghiên
cứu của Kim cho thấy sự khác biệt ý nghĩa về
triệu chứng cảm giác nóng rát sau xương ức
giữa nhóm Barrett CSR (+) và nhóm chuyển sản
biểu mô trụ trên nội soi với CSR (-)(5).
Trong nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận
tổn thương thực quản Barrett dạng dải là
thường gặp nhất 87,5%, cũng giống như nghiên
cứu tại Trung Quốc của Chen(16). Mặc dù có
những báo cáo cho thấy thực quản Barrett CSR
(+) đoạn dài là một yếu tố nguy cơ quan trọng
cho phát triển ung thư biểu mô tuyến thực quản,
thì gần đây nhiều báo cáo cũng ghi nhận thực
quản Barrett CSR (+) đoạn ngắn cũng có thể
phát triển đến ung thư biểu mô tuyến thực
quản. Theo nghiên cứu của Chen cho thấy thực
quản Barrett CSR (+) đoạn dài chiếm ưu thế(16),
trong khi nghiên cứu của chúng tôi thì ngược lại
thực quản Barrett CSR (+) đoạn ngắn ưu thế.
Điều này giống với nghiên cứu tại Hàn Quốc
của Kim(5). Sự khác biệt này chúng tôi chưa giải


Chuyên Đề Nội Khoa I

Nghiên cứu Y học

thích được mặc dù các dân số nghiên cứu đều là
gốc Châu Á.
Thoát vị hoành được biết thường hiện diện ở
bệnh nhân thực quản Barrett CSR (+) hơn nhóm
chứng. Nghiên cứu gần đây của Cameron cho
thấy 96% bệnh nhân thực quản Barrett có hiện
diện thoát vị hoành(8). Biểu mô trụ đặc biệt được
tìm thấy trong 44,7% bệnh nhân có thoát vị
hoành và 22,3% bệnh nhân không có thoát vị
hoành. Tỉ lệ thoát vị hoành cân bằng giữa nhóm
thực quản Barrett và nhóm viêm thực quản và
cao hơn gấp đôi nhóm chứng. Thoát vị hoành
tìm thấy trong 50,4% bệnh nhân thực quản
Barrett đoạn ngắn(9). Các nghiên cứu của
Carton(3), Kim(5), Toruner (8) có hiện diện thoát vị
hoành với tỉ lệ lần lượt 25,7%, 17%, và 65,5%,
trong khi nghiên cứu chúng tôi không thấy sự
hiện diện của thoát vị hoành. Có thể thoát vị
hoành không phải là yếu tố góp phần cho sự
phát triển thực quản Barrett tại Việt Nam.
Tổn thương viêm thực quản trên nội soi của
nghiên cứu chúng tôi là 43,7% và chỉ có 2 mức
độ LA – A và LA – B. Kết quả này giống với
nghiên cứu của Kim ghi nhận tỉ lệ viêm thực
quản chiếm 41,1% (phần lớn cũng là LA – A và
LA – B) (5), và thấp hơn trong nghiên cứu của

Nasseri-Moghaddam với tỉ lệ viêm thực quản
trên nội soi là 92,3%(14).
Một số nghiên cứu cho thấy sự nhiễm Hp có
khả năng bảo vệ chống lại sự phát triển và tiến
trình tân sản của thực quản Barrett(15). Cơ chế
bảo vệ chưa rõ, tuy nhiên cũng có giả thuyết cho
rằng nhiễm Hp gây tình trạng viêm toàn bộ dạ
dày và hậu quả là giảm tiết axít nên có khả năng
bảo vệ chống lại sự phát triển của BTNDDTQ(13).
Tuy nhiên vai trò thực sự của Hp trong sự phát
triển thực quản Barrett vẫn còn nhiều bàn luận.
Một số báo cáo gần đây thì cho thấy không có
sự liên hệ giữa nhiễm Hp và phát triển thực
quản Barrett. Toruner cho thấy tỉ lệ nhiễm Hp là
63% và tình trạng nhiễm Hp trong nhóm viêm
thực quản thấp hơn nhóm không viêm, nhưng
sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê(8).
Trong nghiên cứu của Carton tỉ lệ nhiễm Hp là

35


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012

33%(3). Trong nghiên cứu của chúng tôi là 50%.
Như vậy có thể có những yếu tố khác hơn tình
trạng nhiễm Hp như tình trạng viêm dạ dày mạn
tính kéo dài (tự miễn, viêm teo dạ dày mạn tính

típ A) hoặc yếu tố môi trường ảnh hưởng đến sự
phát triển của CSR(8).
Theo y văn ghi nhận tỉ lệ hóa ác của nhóm
thực quản Barrett đoạn ngắn thấp hơn so với
nhóm thực quản Barrett đoạn dài(1). Trong
nghiên cứu chúng tôi ghi nhận tỉ lệ nghịch sản
mức độ thấp trong nhóm tổn thương thực quản
Barrett đoạn ngắn chiếm 15,4%, và không ghi
nhận nghịch sản trong nhóm tổn thương thực
quản Barrett đoạn dài. Nghiên cứu của NasseriMoghaddam cho thấy tất cả trường hợp nghịch
sản và CSR (12/13 trường hợp) được tìm thấy ở
nhóm bệnh nhân viêm thực quản và tổn thương
đoạn ngắn, tuy nhiên không thấy sự khác biệt có
ý nghĩa thống kê giữa mô học và nội soi. Khác
với Hirota và cộng sự ghi nhận nghịch sản hoặc
ung thư thực quản chiếm 31% trong nhóm tổn
thương đoạn dài, 10% trong nhóm tổn thương
đoạn ngắn và 6,4% trong nhóm CSR tại chỗ
nối(14). Như vậy thực quản Barrett CSR (+) đoạn
ngắn vẫn có khả năng hóa ác. Cũng như nghiên
cứu của Sharma cho thấy nhóm thực quản
Barrett đoạn ngắn có tỉ lệ hiện mắc của nghịch
sản là 8,5% với tỉ lệ mới mắc của nghịch sản là
5,7% mỗi năm. Vì vậy nên nội soi sinh thiết để
phát hiện nghịch sản ở nhóm bệnh nhân thực
quản Barrett đoạn ngắn cũng như đoạn dài(12).

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.


2.

3.

4.

5.

6.

7.

8.

9.

10.

11.

12.

13.

LỜI CẢM ƠN
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ
của các đơn vị sau:

14.


- Khoa Nội soi Bệnh viện Đại học Y Dược
TPHCM

15.

- Bộ môn Giải Phẫu Bệnh Đại học Y Dược
TPHCM

16.

36

Weston AP, Krmpotich PT, Cherian R, Dixon A, Topalosvki M
(1997). Prospective long-term endoscopic and histological
follow-up of short segment Barrett's esophagus: Comparison
with traditional long segment Barrett's esophagus. Am J
Gastroenterol; 92: 407-413.
Seidel D, Muangpaisan W, Hiro H, Mathew A, Lyratzopoulos G
(2009). The association between body mass index and Barrett's
esophagus: A systematic review. Disease of Esophagus; 22: 564570.
Carton E, Caldwell MTP, McDonald G, Rama D, Tanner WA,
Reynolds JV (2000). Specialized intestinal metaplasia in patients
with gastroosophageal reflux disease. Br J Surg; 87: 116-121.
Mueller J, Werner M, Stolte ZM (2004). Barrett's esophagus:
Histopathologic definitions and diagnostic criteria. World J Surg;
28: 148-154.
Kim JH, Rhee PL, Lee JH, Lee H, Choi YS, Son HJ, et al (2007).
Prevalence and risk factors of Barrett's esophagus in Korea. J
Gastroenterol Hepatol; 22: 908-912.
Wang KK, Sampliner RE (2008). Updated guidelines 2008 for

the diagnosis, surveillance and therapy of Barrett’s esophagus.
Am J Gastroenterol; 103: 788-797.
Conio M, Filiberti R, Blanchi S, Ferraris R, Marchi S, Ravelli P, et
al (1991). Barrett's esophagus: Epidemiological and clinical
results of a multicentric survey. Int J Cancer; 48: 364-368.
Toruner M, Soykan I, Ensari A, Kuzu I, Yurdaydin C, Ozden A
(2004). Barrett's esophagus: Prevalence and its relationship with
dyspeptic symptoms. J Gastroenterol Hepatol; 19: 535-540.
Conio M, Filiberti R, Blanchi S, Ferraris R, Marchi S, Ravelli P, et
al (2002). Risk factors for Barrett’s esophagus: A case-control
study. Int J Cancer; 97: 225-229.
Martinez de Haro L, Ortiz A, Parrilla P, Aguilar J, Bermejo J,
Molina J (1998). Clinical features and investigation in patients
with columnarlined oesophagus. Br J Surg; 85: 1150-1152.
Malfertheiner P, Peitz U (2005). The interplay between
Helicobacter pylori, gastrooesophageal reflux disease, and
intestinal metaplasia. Gut; 54(Suppl I): i13-i20.
Sharma P, Morales TG, Bhattacharyya A, Garewal HS,
Sampliner RE (1997). Dysplasia in short-segment Barrett's
esophagus: A prospective 3-year follow-up. Am J Gastroenterol;
92: 2012-2016.
Spechler SJ, Souza RF (2009). Barrett esophagus and esophageal
adenocarcinoma. In: Yamada T. Texbook of gastroenterology.
Volume 1, 5th ed; 5: 826-848. Wiley Blackwell, USA.
Nasseri-Moghaddam S, Malekzadeh R, Sotoudeh M, Tavangar
M, Azimi K, Sohrabpour AA, et al (2003). Lower esophagus in
dyspeptic Iranian patients: A prospective study. J Gastroenterol
Hepatol; 18: 315-321.
Geoffrey WBC (2003). Effect of Helicobacter pylori infection in
Barrett’s esophagus and the genesis of esophageal

adenocarcinoma. World J Surg; 27: 994-998.
Chen X, Zhu LR, Hou KH (2009). The characteristics of Barrett's
esophagus: An analysis of 4120 cases in China. Diseases of the
Esophagus; 22: 348-353.

Chuyên Đề Nội Khoa I



×