Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Thực trạng và giải pháp nâng cao nhận thức về sức khỏe sinh sản của sinh viên trường Cao đẳng Asean, tỉnh Hưng Yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (584.44 KB, 8 trang )

JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE
Natural Sci. 2017, Vol. 62, No. 3, pp. 127-134
This paper is available online at

DOI: 10.18173/2354-1059.2017-0016

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO NHẬN THỨC
VỀ SỨC KHỎE SINH SẢN CỦA SINH VIÊN
TRƯỜNG CAO ĐẲNG ASEAN, TỈNH HƯNG YÊN

Dương Thị Anh Đào 1 và Nguyễn Thị Quyên2
1

Khoa Sinh học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, 2 Trường Cao đẳng Asean

Tóm tắt. Nghiên cứu được thực hiện trên 550 sinh viên từ 18 - 20 tuổi tại Trường Cao đẳng
Asean, tỉnh Hưng Yên nhằm tìm hiểu thực trạng kiến thức, thái độ của sinh viên về sức khỏe
sinh sản và đánh giá giải pháp nâng cao nhận thức về sức khỏe sinh sản cho sinh viên.
Kết quả cho thấy nhận thức của sinh viên về sức khỏe sinh sản tương đối cao. Đa số sinh viên
ủng hộ quan điểm truyền thống cho rằng chỉ nên quan hệ tình dục sau khi kết hôn (73,3%), có
92,0% sinh viên cho rằng nên sử dụng biện pháp tránh thai khi quan hệ tình dục, 96,8% sinh
viên cho rằng nên giáo dục sức khỏe sinh sản ở trường đại học, và đa số các em mong muốn
được học tất cả các nội dung liên quan đến sức khỏe sinh sản. Biện pháp can thiệp nhằm nâng
cao nhận thức cho sinh viên đã cho kết quả tốt, điểm trung bình nhận thức về sức khỏe sinh
sản của nhóm thực nghiệm (24,92 điểm) cao hơn nhóm đối chứng (14,00 điểm) (P < 0,001).
Do vậy, cần tăng cường giáo dục về sức khỏe sinh sản, thực hiện tình dục an toàn để sinh viên
nâng cao hiểu biết cũng như chủ động bảo vệ sức khỏe cho bản thân và cộng đồng.
Từ khóa: Sinh viên, giáo dục sức khỏe sinh sản, quan hệ tình dục.

1.


Mở đầu

Ở Việt Nam, trung bình mỗi năm có khoảng 300.000 ca nạo phá thai ở độ tuổi từ 15 - 19,
trong đó 60% - 70% là học sinh, sinh viên. Mỗi năm, có khoảng 800.000 - 1.000.000 người điều
trị các bệnh lây truyền qua đường tình dục (BLTQĐTD), 40% trong đó là thanh thiếu niên [1].
Độ tuổi quan hệ tình dục lần đầu ở vị thành niên Việt Nam ngày càng sớm nhưng kiến thức của vị
thành niên về phòng tránh thai, HIV và các BLTQĐTD khác vẫn còn rất hạn chế, chỉ có khoảng
20,7 % sử dụng biện pháp tránh thai trong lần quan hệ tình dục đầu tiên [2].
Mặc dù giáo dục sức khỏe sinh sản đã được đưa vào chương trình tích hợp ở phổ thông và
một số môn học như Sinh học ở các trường chuyên nghiệp nhưng kiến thức về sức khỏe sinh sản
và các BLTQĐTD của vị thành niên, thanh niên vẫn hạn chế. Vì thế, việc chăm sóc sức khỏe sinh
sản cho thanh thiếu niên nhất là ở lứa tuổi sinh viên là rất quan trọng. Bởi vì, sinh viên là nguồn
lao động trí óc chính của một quốc gia trong tương lai, Nghiên cứu này được tiến hành nhằm đánh
giá thực trạng kiến thức, thái độ về sức khỏe sinh sản và đưa ra giải pháp nâng cao sức khỏe sinh
sản cho sinh viên ở sinh viên Trường Cao đẳng ASEAN, tỉnh Hưng Yên. Kết quả của nghiên cứu
là cơ sở để đề ra các giải pháp phù hợp cho công tác chăm sóc sức khỏe sinh sản thanh thiếu niên,
góp phần đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao phục vụ cho sự phát triển của đất nước.

Ngày nhận bài: 28/2/2017. Ngày nhận đăng: 27/3/2017.
Tác giả liên hệ: Dương Thị Anh Đào, e-mail:

127


Dương Thị Anh Đào và Nguyễn Thị Quyên

2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là khoảng 550 sinh viên đang học tập tại Trường Cao đẳng ASEAN,

tỉnh Hưng yên. Tất cả các đối tượng có sức khỏe bình thường, không có dị tật bẩm sinh hoặc bệnh
truyền nhiễm, có trạng thái tâm sinh lí bình thường. Nghiên cứu được tiến hành từ tháng 08 năm
2015 đến tháng 06 năm 2016.
* Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu được chia thành 2 giai đoạn:
- Giai nghiên cứu cắt ngang: Tiến hành trên 450 sinh viên Khoa Điều dưỡng và khoa Dược.
Các đối tượng được chọn ngẫu nhiên và chia thành ba nhóm gồm sinh viên năm thứ nhất (khối I khoa Điều dưỡng), sinh viên năm thứ 2 (khối II - khoa Dược ) và sinh viên năm thứ 3 (khối III Hệ liên thông ngành Dược).
- Giai đoạn nghiên cứu can thiệp: Chọn ra 100 sinh viên năm thứ nhất, khoa Dược để tiến
hành nghiên cứu can thiệp. Chia thành 2 nhóm: đối chứng (ĐC) - nhóm không được can thiệp và
thực nghiệm (TN) - nhóm được can thiệp. Biện pháp can thiệp là giảng dạy các nội dung về SKSS
trong thời gian 4 tiết.
* Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phỏng vấn bằng phiếu: Sử dụng bộ câu hỏi thiết kế sẵn, đã được phê duyệt bởi
Trung tâm SKSS và Kế hoạch hóa gia đình, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội để thu thập số liệu
về đặc điểm của đối tượng nghiên cứu, các thông tin về mức độ nhận thức, thái độ về sức khỏe
sinh sản (đặc điểm tuổi dậy thì, phòng tránh mang thai ngoài ý muốn, các bệnh lây truyền qua
đường tình dục...) và quan điểm về giáo dục SKSS.
- Phương pháp thiết kế bài giảng, hoạt động: Các hoạt động và bài giảng được thiết kế theo
hướng tiết học riêng: dạy kiến thức về SKSS như tuổi dậy thì, sức khỏe tình dục, tình dục an toàn,
các bệnh LTQĐTD, các BPTT trong 4 tiết học; cósử dụng các phương pháp dạy học tích cực như
phương pháp thảo luận nhóm, phương pháp đóng vai; phương pháp trò chơi.
- Phương pháp kiểm tra đánh giá: Sau thời gian can thiệp tiến hành kiểm tra đánh giá bằng bộ
câu hỏi trắc nghiệm được thiết kế sẵn, gồm 30 câu, mỗi câu trả lời đúng được tính 1 điểm.
- Phương pháp xử lí số liệu: Số liệu thu thập được sẽ được nhập và quản lí bằng phần mềm
Epidata 3.1. Các phân tích thống kê được thực hiện trên phần mềm SPSS 16.0. Ý nghĩa thống kê
được xác định với giá trị P < 0,05 theo 2 phía. So sánh tỉ lệ phần trăm bằng 2– test.

2.2. Kết quả nghiên cứu và thảo luận
2.2.1. Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu
Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu được trình bày ở Bảng 1.

Đối tượng nghiên cứu được chia làm 3 khối, mỗi khối có 150 sinh viên. Trong đó 80,4% là
nữ giới; dân tộc Kinh là chủ yếu (95,1%), 4,9% còn lại là các dân tộc khác (gồm các dân tộc Dao,
Ê Đê, Hơ Mông, Mường, Nùng, Sán Chỉ, Sán Dìu, Tày, Thái). Về tình trạng hôn nhân có sự khác
biệt giữa 3 khối (P < 0,001), sinh viên chưa kết hôn chiếm 74,4%, sinh viên đang có gia đình
chiếm 23,8%, đặc biệt có 1,3% sinh viên góa vợ (chồng) và 0,5% sinh viên sống chung và không
kết hôn. Về khu vực sống nông thôn chiếm 87,3 %, thành thị chiếm 12,7%.

128


Thực trạng và giải pháp nâng cao nhận thức về sức khỏe sinh sản của sinh viên Trường Cao đẳng Asean…

Bảng 1. Đặc điểm đối tượng nghiên cứu
Đặc điểm

Khối I
(%)

Khối II
(%)

Khối III
(%)

Tổng
(%)

P

Giới tính

Nam

18,0

23,3

17,3

19,6

Nữ

82,0

76,7

82,7

80,4

0,357

Dân tộc
Kinh

92,0

96,7

96,7


95,1

Khác

8,0

3,3

3,3

4,9

0,096

Tình trạng hôn nhân
Chưa kết hôn

95,3

90,0

38,0

74,4

Đang có gia đình

2,0


7,3

62,0

23,8

Góa vợ/chồng

2,0

2,0

0,0

1,3

Sống chung, không kết
hôn

0,7

0,7

0,0

0,5

< 0,001

Khu vực sống

Nông thôn

87,3

85,3

89,3

87,3

Thành thị

12,7

14,7

10,7

12,7

0,581

2.2.2. Thực trạng nhận thức về sức khỏe sinh sản của sinh viên
* Hiểu biết về tuổi dậy thì
Nghiên cứu nhận thức của sinh viên về các dấu hiệu của tuổi dậy thì (sự thay đổi thể chất,
sinh lí và tâm lí) cho thấy hầu hết các em có hiểu biết tốt về vấn đề này.
Với các dấu hiệu thay đổi về thể chất và sinh lí thì dấu hiệu “Tăng lên về chiều cao và cân
nặng” có tỉ lệ hiểu biết cao nhất chiếm 94,9% (khối I, II, III lần lượt là 96,7%; 99,3% và 88,7%).
Kết quả này cao hơn so với nghiên cứu của tác giả Tôn Thất Chiểu chỉ có 54,4 % [3]. Dấu hiệu
“Xuất tinh lần đầu (với nam)” có tỉ lệ hiểu biết thấp nhất, chỉ chiếm 41,4%. Kết quả này cao hơn

so với nghiên cứu của tác giả Tôn Thất Chiểu (22,4 %) [3] và nghiên cứu của Nguyễn Thị Nga
cùng cộng sự thực hiện tại Na Rì, Bắc Kạn (22,8 %) [4].
Dấu hiệu thay đổi về tâm lí mà sinh viên nhận thấy rõ nhất khi bắt đầu tuổi dậy thì là
“Tính tình thay đổi” chiếm 73,3% và có sự sai khác giữa các khối (P = 0,01), tiếp đến là
“Quan tâm nhiều đến hình thức” chiếm 72,2%; “Muốn người khác chú ý đến mình” chiếm 54,7%;
“Tò mò” chiếm 51,1%; “Thích giao tiếp với bạn khác giới” chiếm 48,4% và “Hiếu thắng” là
26,0%; các lí do khác như “Thích nhìn cơ thể bạn khác giới”, “Thích chơi với bạn khác giới”
chiếm 2,1%. Kết quả này cao hơn so với nghiên cứu của tác giả Tôn Thất Chiểu tiến hành ở Thừa
Thiên Huế với “Tính tình thay đổi” là 30,1 % và “Thích giao tiếp với bạn khác giới” là 27,1 % [3].
Tỉ lệ sinh viên nhận biết được trên 5 dấu hiệu thay đổi về thể chất và sinh lí chiếm 45,3%, về
tâm lí chỉ có 11,1%. Điều này cho thấy mặc dù các em đã cảm nhận được và chú ý đến những
thay đổi của mình trong giai đoạn này, nhưng những dấu hiệu về tâm lí là những dấu hiệu không
rõ ràng nên các em vẫn khó nhận biết.
* Hiểu biết về quan hệ tình dục
Hiểu biết về quan hệ tình dục (QHTD) của sinh viên được thể hiện như trong Bảng 2.
129


Dương Thị Anh Đào và Nguyễn Thị Quyên

Bảng 2. Hiểu biết về quan hệ tình dục của sinh viên
Đặc điểm

Ý
kiến về
QHTD
trong và
ngoài
hôn
nhân


Hậu quả
của việc
QHTD
trước và
ngoài
hôn
nhân

Khối I
(n = 150)

Khối II
(n = 150)

Khối III
(n = 150)

Tổng
(n = 450)

P

%

%

%

%


Chỉ nên có QHTD
trong hôn nhân

72,0

64,0

84,0

73,3

< 0,001

Có thể QHTD khi
yêu nhưng chắc chắn
sẽ kết hôn

42,7

36,7

28,0

35,8

0,029

Có thể QHTD khi
yêu nhau


31,3

22,7

18,0

24,0

0,023

Có thể QHTD khi có
ham muốn

5,3

16,0

16,0

12,4

0,005

Không biết

3,3

3,3


7,0

2,4

0,225

Có thể có thai ngoài
ý muốn

96,7

86,7

97,3

93,6

< 0,001

Có thể phải nghỉ học
và kết hôn sớm

84,0

80,7

86,7

83,8


0,369

Có thể mắc các bệnh
LTQĐTD

98,0

84,0

92,0

91,3

< 0,001

Ý kiến của sinh viên về QHTD trong và ngoài hôn nhân có sự khác biệt đáng kể giữa 3 khối
(P < 0,05). Đa số các em cho rằng “Chỉ nên có QHTD trong hôn nhân” (73,3%), 35,8% sinh viên
cho rằng “Có thể QHTD khi yêu nhưng chắc chắn là sẽ kết hôn”; 24,0% chọn “Có thể QHTD khi
yêu”, đặc biệt có 12,4% sinh viên cho rằng “Có thể QHTD khi có ham muốn”. Kết quả này thấp
hơn với nghiên cứu của Nguyễn Thị Nga và cộng sự (80,6 % vị thành niên trả lời “Không thể
chấp nhận việc QHTD trước hôn nhân”) [5]. Điều này cho thấy các em có suy nghĩ hiện đại hơn
về tình dục trong và ngoài hôn nhân và đây là một xu hướng đang dần được giới trẻ chấp nhận.
Do đó, việc giáo dục theo quan niệm truyền thống chỉ nên QHTD sau hôn nhân hoặc theo hướng
“ngăn cấm” là không còn phù hợp. Điều cần thiết bây giờ là trang bị kiến thức, kĩ năng và cung
cấp phương tiện để vị thành niên, thanh niên có được một đời sống tình dục an toàn và lành mạnh.
Hậu quả có thể xảy ra khi có QHTD trước hôn nhân mà sinh viên lựa chọn nhiều nhất là “Có
thể có thai ngoài ý muốn” chiếm 93,6%; “Có thể phải nghỉ học và kết hôn sớm” chiếm 83,8 %
“Có thể mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục” chiếm 76,2 %. Tuy nhiên, còn 2,4% sinh
viên trả lời “Không biết”. Mặc dù kết quả này thấp hơn nghiên cứu của chúng tôi ở sinh viên
trường Cao đẳng Sư phạm Thái Bình (tỉ lệ sinh viên trả lời “Không biết” là 9,1%) [2] nhưng cho

thấy vẫn còn một tỉ lệ nhỏ sinh viên chưa nhận thức được hậu quả của việc QHTD trước hôn nhân.
* Hiểu biết về các biện pháp tránh thai và hậu quả của nạo phá thai
Kết quả nghiên cứu hiểu biết của sinh viên về các biện pháp tránh thai (BPTT) được thể hiện
trong Hình 1.
Có 92,0% sinh viên cho rằng nên sử dụng BPTT khi QHTD, 6,2% các em không đưa ra được
quan điểm nên lựa chọn “Không biết” và 1,8% cho rằng không nên sử dụng BPTT khi QHTD.
Biện pháp tránh thai sinh viên biết đến và nghĩ nên sử dụng nhiều nhất là bao cao su (93,6%).
Kết quả này cao hơn với nghiên cứu của Phạm Thị Hương Trà Linh trên đối tượng sinh viên
Trường Cao đẳng Y tế Phú Thọ là 80% [5] và sinh viên Trường Cao đẳng Sư phạm Thái Bình
130


Thực trạng và giải pháp nâng cao nhận thức về sức khỏe sinh sản của sinh viên Trường Cao đẳng Asean…

(80,2%) [6]. Điều này có lẽ do bao cao su là BPTT được tuyên truyền, quảng cáo nhiều, dễ sử
dụng và có hiệu quả tránh thai cũng như phòng bệnh lây truyền qua đường tình dục cao.
Về nạo, phá thai, có 88,2 % sinh viên hiểu đúng về nạo, phá thai không phải là BPTT. Còn
khi được hỏi về “Hậu quả của nạo phá thai”, hầu hết các em đều nhận thức rõ được các tác hại của
nạo, phá thai. Hậu quả mà các em biết đến nhiều nhất là vô sinh (96,9%).
Tuy nhiên, vẫn còn 8% sinh viên không biết hoặc cho rằng không nên sử dụng BPTT khi
QHTD; 7,3% không biết bất kì một BPTT nào; và 11,8% sinh viên không biết hoặc hiểu không
đúng về nạo, phá thai.

Hình 1. Tỉ lệ hiểu biết của sinh viên về các BPTT
* Hiểu biết về bệnh lây truyền qua đường tình dục
Điều tra hiểu biết của sinh viên về bệnh lây truyền qua đường tình dục (BLTQĐTD) cho thấy
bệnh mà sinh viên biết nhiều nhất là bệnh giang mai (91,3%), tiếp đến là bệnh lậu (90,9%), bệnh
nấm cơ quan sinh sinh dục (84,2%). Tỉ lệ này cao hơn so với nghiên cứu của Nguyễn Thị Hồng
Hạnh và cộng sự (bệnh giang mai 89,9%; bệnh lậu 88,3%) [7] và nghiên cứu ở sinh viên Cao đẳng
Sư phạm Thái Bình (bệnh giang mai 75,3%, bệnh lậu 71,3%) [6]. Tuy nhiên, còn một tỉ lệ lớn

sinh viên (chiếm 87,1%) cho rằng “Bệnh viêm nhiễm cơ quan sinh dục” là BLTQĐTD và 5,1%
sinh viên không biết về các BLTQĐTD.
Về các con đường lây truyền BLTQĐTD, có 97,1% sinh viên cho rằng “Qua QHTD”. Nhưng
vẫn còn nhiều sinh viên cho rằng việc muỗi đốt (14,4%), việc sử dụng bể bơi, nhà vệ sinh công
cộng (17,8%), việc tiếp xúc, ôm hôn, bắt tay với người mắc bệnh (9,6%) là con đường lây truyền
các BLTQĐTD. Đây là những hiểu biết sai lệch, làm ảnh hưởng đến tâm lí sợ bệnh quá mức và có
thái độ xa lánh người bệnh.
Hầu hết các em đều hiểu biết khá cao về cách phòng tránh cơ bản các BLTQĐTD như “Sử
dụng bao cao su khi QHTD” (92,0%); “Không QHTD với gái mại dâm” (90,0%); “Không QHTD
với nhiều người” (89,6%); “Không dùng chung bơm kim tiêm” (76,9%). Kết quả này tương
đương với nghiên cứu SAVY 2 (hầu hết VTN, TN đều biết BCS có thể giúp phòng tránh các bệnh
LTQĐTD và HIV (93,7%) [1].
2.2.3. Quan điểm của sinh viên về giáo dục sức khỏe sinh sản
* Ý kiến của sinh viên về giáo dục tình dục cho vị thành niên, thanh niên
Hầu hết tất cả sinh viên cho rằng cần thiết phải giáo dục tình dục cho vị thành niên, thanh
niên (98,9%). Các lí do nên giáo dục tình dục chủ yếu mà các em đưa ra là “Để nâng cao kiến
thức về SKSS và tình dục” (96,0%); tiếp đến là “Để tránh những hiểu biết sai lầm trong QHTD”
chiếm 90,9%, “Để tránh mang thai ngoài ý muốn” chiếm 82,2%.
131


Dương Thị Anh Đào và Nguyễn Thị Quyên

Và nguồn cung cấp nội dung giáo dục sức khỏe sinh sản mà sinh viên cho là phù hợp nhất là
nhà trường (88,9%), sau đó là gia đình (68,7%). Kết quả này tương đương với nghiên cứu của
chúng tôi ở sinh viên trường Cao đẳng Sư phạm Thái Bình [8]. Có lẽ do giáo dục sức khỏe sinh
sản chính thống trong nhà trường sẽ giúp các em chủ động hơn, nghiêm túc hơn trong việc tiếp
nhận. Đồng thời, nhà trường là nơi đào tạo nghề nghiệp tương lai của các em; gia đình là nơi gần
gũi, nên các em có sự tự tin để chia sẻ, trao đổi những kiến thức về tình dục vốn là những vấn đề
mang tính tế nhị.

* Ý kiến về tích hợp kiến thức sức khỏe sinh sản trong chương trình giáo dục đại học
Hầu hết sinh viên (96,8%) đều cho rằng nên đưa kiến thức SKSS vào chương trình giáo dục
cao đẳng, đại học. Kết quả điều tra về vấn đề tích hợp kiến thức SKSS trong chương trình giáo
dục đại học (GDĐH) được thể hiện trong Hình 2.

Hình 2. Tỉ lệ lựa chọn phương pháp thu nhận kiến thức về sức khỏe sinh sản
Phương pháp thu nhận kiến thức về sức khỏe sinh sản mà sinh viên mong muốn nhất là qua
“Người dạy thuyết trình” (82,7%), và phương pháp mà sinh viên ít mong muốn nhất là
“Người học tự tìm hiểu và trình bày”(46,7%).
Đa số các em đều mong muốn được học về tất cả các kiến thức liên quan đến SKSS. Trong
đó, nội dung SKSS mà sinh viên mong muốn được học nhiều nhất là “Chăm sóc sức khỏe bà mẹ
và trẻ em” (91,6%). Kết quả này khác so với nghiên cứu của chúng tôi trên đối tượng sinh viên
Cao đẳng Sư phạm Thái Bình (nội dung mà các em mong muốn được học nhiều nhất là SKSS vị
thành niên (86,0%) [8]. Sự khác biệt này có lẽ do trong nghiên cứu này có nhiều sinh viên đã có
gia đình vì vậy nhu cầu học các kiến thức về chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em sẽ thiết thực hơn
với các em. Ngoài ra, có 76,9 % mong muốn được học về “Giới, đồng giới, bình đẳng giới và bạo
lực giới”; 74,7% cho rằng nên học về “Vô sinh”. Điều này cho thấy bình đẳng giới và vô sinh
cũng là những vấn đề đang được xã hội hiện nay quan tâm. Nội dung về SKSS mong muốn được
học, giữa các khối có sự sai khác ý nghĩa (P < 0,05), sinh viên khối I có nhu cầu học tất cả các nội
dung về SKSS cao hơn khối II và III.
2.2.4. Kết quả can thiệp nhằm nâng cao nhận thức về sức khỏe sinh sản cho sinh viên
Kết quả đánh giá bài kiểm tra kiến thức SKSS của nhóm đối chứng (ĐC) và thực nghiệm
(TN) được thể hiện trong Bảng 3.
Bảng 3 cho thấy nhận thức về SKSS của sinh viên ở nhóm ĐC rất hạn chế, tỉ lệ sinh viên
nhận thức về SKSS ở mức trung bình và yếu lớn (94,0%), tỉ lệ khá (6,0%) và không có sinh viên
nào đạt giỏi. Đối với nhóm TN, sau khi được học 4 tiết về các nội dung liên quan đến SKSS, nhận
thức của các em đã được nâng lên một cách rõ rệt, 100% sinh viên đạt loại khá, giỏi (giỏi 42,0%,
khá 58,0%). Đồng thời, điểm trung bình nhận thức của nhóm TN (24,92 điểm) cao hơn hẳn so với
nhóm ĐC (14,00 điểm) và sự sai khác này có ý nghĩa thống kê (P < 0,001). So sánh với kết quả
132



Thực trạng và giải pháp nâng cao nhận thức về sức khỏe sinh sản của sinh viên Trường Cao đẳng Asean…

trong nghiên cứu của Nguyễn Thị Hồng Hạnh và cộng sự trên đối tượng giáo viên ở Hà Nội,
Điện Biên (điểm trung bình của nhóm ĐC là 26, loại giỏi chiếm 64,8%) [7] thì kết quả của nghiên
cứu này thấp hơn. Nhưng lại cao hơn nghiên cứu của chúng tôi ở sinh viên Trường Cao đẳng Sư
phạm Thái Bình (điểm trung bình của nhóm ĐC là 23,32, loại giỏi chiếm 16%) [8].
Bảng 3. Mức độ nhận thức về sức khỏe sinh sản của sinh viên
Đối chứng
(n = 50)
Xếp hạng

Thực nghiệm
(n = 50 )
P

n

%

n

%

Giỏi (26-30 điểm)

0

0,0


21

42,0

< 0,001b

Khá (20-25 điểm)

3

6,0

29

58,0

< 0,001b

TB (16-19 điểm)

17

34,0

0

0,0

< 0,001b


Yếu (0-15 điểm)

30

60,0

0

0,0

< 0,001b

Điểm trung bình

14,0 ± 4,06

24,92 ± 2,19

< 0,001a

a: Số liệu biểu diễn dưới dạng trung bình cộng độ lệch chuẩn (Mean ± SD), P lấy từ kiểm định T-test.
b: Số liệu biểu diễn dưới dạng phần trăm, P lấy từ kiểm định 2-test.

Kết quả trên chứng tỏ biện pháp can thiệp sử dụng đã đạt hiệu quả cao. Do đó, cần tăng
cường biện pháp giáo dục này trong trường cao đẳng Asean nói riêng và các trường cao đẳng, đại
học nói chung để nâng cao nhận thức của sinh viên về SKSS.

3. Kết luận
Sinh viên Trường Cao đẳng Asean, tỉnh Hưng Yên có nhận thức tương đối cao về những thay

đổi về thể chất, sinh lí và tâm lí khi bước vào tuổi dậy thì, về các biện pháp tránh thai và các
BLTQĐTD. Đa số sinh viên (73,3%) ủng hộ quan điểm truyền thống cho rằng chỉ nên QHTD sau
khi kết hôn, 92,0% sinh viên cho rằng nên sử dụng BPTT khi QHTD, có 98,9% sinh viên cho rằng
giáo dục SKSS cho vị thành niên, thanh niên hợp lí nhất là nhà trường (88,9%).
Việc giảng dạy lí thuyết những kiến thức liên quan đến SKSS cho sinh viên đã mang lại hiệu
quả cao. Điểm trung bình trung nhận thức của nhóm TN (24,92 điểm) cao hơn so với nhóm ĐC
(14,00 điểm) (P < 0,001).
Tuy nhiên vẫn còn một số sinh viên cho rằng không nên sử dụng BPTT khi QHTD (8%),
7,3% không biết bất kì một BPTT nào và 11,8% sinh viên không biết hoặc hiểu không đúng về
nạo, phá thai. Do vậy cần tăng cường các biện pháp giáo dục về sức khỏe sinh sản để sinh viên
nâng cao hiểu biết cũng như chủ động bảo vệ sức khỏe cho bản thân và cộng đồng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]
[2]
[3]

Bộ Y tế và Tổng cục Dân số, 2010. Điều tra quốc gia về vị thành niên và thanh niên Việt
Nam lần thứ 2 (SAVY 2).
Mai Xuân Phương, 2014. Thực trạng chung về mang thai tuổi vị thành niên và các chương
trình/chính sách chăm sóc sức khỏe sinh sản vị thành niên. Tạp chí Dân số và Phát triển, (12).
Tôn Thất Chiểu, 2012. Khảo sát đánh giá nhận thức, thái độ, hành vi về SKSS của vị thành
niên - thanh niên 15 - 24 tuổi vùng ven biển, đầm phá, vạn đò tỉnh Thừa Thiên Huế năm
2010. Tạp chí Y học Thực hành, Số 805.
133


Dương Thị Anh Đào và Nguyễn Thị Quyên

[4]


[5]

[6]

[7]

[8]

Nguyễn Thị Nga, Hứa Thanh Thủy, Nguyễn Thái Quỳnh Chi, Đinh Thu Hà, Nguyễn Thu
Hà, Nguyễn Thanh Hương, 2012. Kiến thức, thái độ và thực hành về SKSS và sức khỏe tình
dục của vị thành niên và phụ nữ 15-49 tại huyện Na Rì, Bắc Kạn. Tạp chí Y tế Công cộng,
26, tr. 4-9.
Phạm Thị Hương Trà Linh, Lã Ngọc Quang, 2015.Thực trạng và một số yếu tố liên quan
đến hành vi quan hệ tình dục của sinh viên trường Cao đẳng Y tế Phú Thọ, năm 2014. Tạp
chí Y tế Công cộng, 34, tr. 49-56.
Dương Thị Anh Đào, Đỗ Thị Như Trang, Nguyễn Thị Hồng Hạnh, Hoàng Thị Loan Thanh,
2016. Thực trạng kiến thức, thái độ, hành vi về sức khoẻ sinh sản của sinh viên trường Cao
đẳng Sư phạm Thái Bình. Hội nghị khoa học Quốc gia lần thứ 2 về nghiên cứu và giảng dạy
Sinh học ở Việt Nam. Nhà Xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.137-143.
Nguyen Thi Hong Hanh, Duong Thi Anh Dao, Le Thi Tuyet, Nguyen Thi Trung Thu,
Nguyen Phuc Hung, 2014. Knowledge and personal opinions of secondary school biology
teachers in Ha Noi and Dien Bien about reproductive health. Journal of Science of HNUE,
Vol. 59, No. 9, pp. 161-168.
Đỗ Thị Như Trang, Dương Thị Anh Đào, Nguyễn Thị Hồng Hạnh, Hoàng Thanh Loan,
2016. Quan điểm cá nhân về giáo dục sức khoẻ sinh sản và giải pháp nâng cao nhận thức
về sức khoẻ sinh sản cho sinh viên Trường Cao đẳng Sư phạm Thái Bình. Tạp chí Khoa học,
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Vol. 61, No. 4: tr. 137-142.
ABSTRACT
Reality and solution to raise awareness about reproductive health of students
at Asean College, Hung Yen province


Duong Thi Anh Dao 1 and Nguyen Thi Quyen2
1

Faculty of Biology, Hanoi National University of Education
2
Medical and Pharmaceutical College ASEAN

This study was conducted on 550 students at the age of 18 - 20 at Asean College, Hung Yen
province, Vietnam with an aim to find actual status of knowledge, attitude on reproductive health
of students and evaluating solutions to raise awareness of reproductive health. Results showed that
students' knowledge about reproductive health was relatively high. Most students supported the
traditional view that sex should be happened only after marriage (73.3%); 92.0% of students
thought they needed to use contraceptives during sex, 96.8% of students thought that reproductive
health education should be taught at college, and most of them wish to learn about reproductive
health. Interventions to raising awareness of students had good results, average points of
awareness of reproductive health in the experimental group (24.92 points) higher than that of the
control group (14.00 points) (P < 0.001). The necessary solutions should be done, such as
strengthening of education about reproductive health and safety sexual knowledge, to enhance
student’s knowledge and protect them and community from sexually transmitted diseases.
Keywords: Students, reproductive health, sexual activity.

134



×