Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Cắt tuyến tiền liệt qua niệu đạo bằng bipolar, kinh nghiệm bước đầu tại Bệnh viện 103

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (352.14 KB, 4 trang )

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

CẮT TUYẾN TIỀN LIỆT QUA NIỆU ĐẠO BẰNG BIPOLAR,
KINH NGHIỆM BƯỚC ĐẦU TẠI BỆNH VIỆN 103
Trần Văn Hinh*, Trương Thanh Tùng*

TÓM TẮT
Đặt vấn đề và mục tiêu: Cắt tuyến tiền liệt qua niệu đạo bằng bipolar là phương pháp mới được áp dụng
trong thời gian gần đây ở nước ta. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm đánh giá kết quả và đưa ra một số
nhận xét bước đầu về cắt tuyến tiền liệt qua niệu đạo bằng bipolar.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Bao gồm 31 bệnh nhân được cắt tuyến tiền liệt qua niệu đạo bằng
bipolar điều trị u phì đại lành tính tuyến tiền liệt tại Bệnh viện 103 từ tháng 02 năm 2011 đến tháng 04 năm
2011. Nghiên cứu theo phương pháp mô tả cắt ngang có so sánh phân tích. Sử dụng hệ thống cắt bipolar TURis
của hãng Olympus. Xử lý số liệu theo phương pháp thống kê y học.
Kết quả nghiên cứu: Tuổi trung bình: 75,61 ± 7,14 năm, trong đó lứa tuổi > 70 chiếm chủ yếu. Thời gian
mổ trung bình: 76,52 ± 25,48 phút. Khối lượng tuyến trung bình trên siêu âm qua đường bụng: 61,42 ± 16,05g.
Thời gian lưu catheter niệu đạo: 4,52 ± 2,10 ngày. Thời gian nằm viện trung bình: 6,48 ± 2,61 ngày. Các chỉ số
IPSS, QoL, Q-mean, và PVR khi xuất viện đều được cải thiện hơn so với trước mổ. Tỷ lệ tai biến - biến chứng
chung là 6,45%. Kết quả sau mổ tốt 70,97%; trung bình 25,81%; và xấu là 3,22%.
Kết luận: Cắt tuyến tiền liệt qua niệu đạo bằng bipolar là một phương pháp an toàn, hiệu quả, ít tai biến biến chứng và cho tỷ lệ thành công cao.
Từ khóa: Cắt tuyến tiền liệt qua niệu đạo; u phì đại lành tính tuyến tiền liệt.

ABSTRACT
BIPOLAR TRANSURETHRAL RESECTION OF THE PROSTATE, EARLY CLINICAL EXPERIENCE IN
103 HOSPITAL
Tran Van Hinh, Truong Thanh Tung
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 3 - 2012: 484 - 487
Introduction and purpose: Bipolar transurethral resection of the prostate is the new method was applied in
recent times in our country. We conducted this study to evaluate the results and give some initial remarks about


bipolar transurethral resection of the prostate.
Objects and methods: This includes 31 patients undergone bipolar transurethral resection of the prostate to
treat BPH in 103 hospital from February 2011 to April 2011. Research according to cross sectional study
combinate with compare analysis. Use the system of bipolar TURis. Processing of data by statistical methods in
medicine.
Results: The average age: 75.61 ± 7.14 years, the ages more than 70 is major. Operating time average: 76.52
± 25.48 min. The average volume of tumour by abdominal ultrasound: 61.42 ± 16, 05g. Duration of
catheterization: 4.52 ± 2.10 days. Duration of hospitalization: 6.48 ± 2.61 days. The IPSS, QoL, Q-mean, and
PVR discharge improved than before surgery. The rate of general disasters - complications: 6.45%. Results after
surgery well 70.97%; average 25.81%; and the bad is 3.22%.
Conclusion: Bipolar transurethral resection of the prostate is a method of safe, effective, less disasters complications and high success rate.

* Học viện Quân Y
Tác giả liên lạc: PGS.TS Trần Văn Hinh

484

ĐT: 0912015200

Email:

Chuyên Đề Thận Niệu


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

Key words: Transurethral resection of the prostate; BPH.
duy trì 75 - 270W. Trong quá trình cắt sử dụng

ĐẶT VẤN ĐỀ
dịch rửa là nước muối sinh lý 90/00. Các bệnh
Cho đến nay, cắt tuyến tiền liệt qua niệu đạo
nhân đều được vô cảm bằng gây tê tủy sống.
bằng monopolar vẫn được coi là chuẩn vàng
trong điều trị bệnh lý u phì đại lành tính tuyến
tiền liệt có chỉ định can thiệp. Song vẫn còn tồn
tại những tai biến - biến chứng tiềm tàng có thể
xảy ra: chảy máu trong và sau mổ; hội chứng nội
soi xuất hiện do hấp thụ dịch rửa; đái không tự
chủ; xơ hẹp cổ bàng quang...(5,9).
Để khắc phục những hạn chế đó, gần đây
các hãng sản xuất khác nhau đã giới thiệu thiết
bị mới có khả năng cắt tuyến tiền liệt qua niệu
đạo bằng bipolar như: hệ thống Plasmakinetic
của Gyrus; Vista của ACMI; TURis của
Olympus. Qua những nghiên cứu ban đầu cho
thấy sử dụng bipolar sẽ cầm máu được tốt hơn
và cũng ít gây ảnh hưởng đến tổ chức xung
quanh hơn so với monopolar, đặc biệt có thể
giảm đáng kể khả năng xảy ra hội chứng nội soi
do chỉ sử dụng nước muối sinh lý làm dich rửa
(4,5).
Bệnh viện 103 đã áp dụng kỹ thuật cắt tuyến
tiền liệt qua niệu đạo bằng bipolar từ tháng 02
năm 2011. Qua những trường hợp đã được thực
hiện, chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm
đánh giá kết quả và đưa ra một số nhận xét bước
đầu về cắt tuyến tiền liệt qua niệu đạo bằng
bipolar.


ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU
Bao gồm 31 bệnh nhân được cắt tuyến tiền
liệt qua niệu đạo bằng bipolar điều trị u phì đại
lành tính tuyến tiền liệt tại Bệnh viện 103 từ
tháng 02 năm 2011 đến tháng 04 năm 2011. Chẩn
đoán xác định u phì đại lành tính tuyến tiền liệt
dựa vào kết quả giải phẫu bệnh.
Nghiên cứu theo phương pháp mô tả cắt
ngang có so sánh phân tích. Thu thập số liệu
theo mẫu bệnh án nghiên cứu chung. Lựa chọn
và chuẩn bị bệnh nhân theo một quy trình thống
nhất. Sử dụng hệ thống máy cắt bipolar TURis
24ch của hãng Olympus với mức năng lượng

Chuyên Đề Thận Niệu

Theo dõi các chỉ số: IPSS; điểm QoL; Qmean; nước tiểu tồn dư (PVR); huyết sắc tố; điện
giải; khối lượng tuyến; thời gian mổ; thời gian
lưu catheter niệu đạo; thời gian nằm viện; các tai
biến - biến chứng trong và sau phẫu thuật. Đánh
giá kết quả điều trị theo các tiêu chuẩn: tốt (đái
đêm 1 - 2 lần, đái dễ dàng, tự chủ, Q-mean > 15 20 ml/s); trung bình (đái đêm 2 - 3 lần, đái không
khó, tự chủ, Q-mean 10 - 15 ml/s); xấu (đái đêm 3
- 4 lần, đái khó, đái rỉ, Q-mean < 10 ml/s).
Xử lý số liệu theo phương pháp thống kê y
học. So sánh các tỷ lệ bằng test Chi bình phương,
khi số liệu bé sử dụng test chính xác của Fisher.
So sánh các chỉ số trung bình bằng test t-student.

Giá trị thống kê có ý nghĩa khi p < 0,05.

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN
Một số chỉ số lâm sàng
Tuổi trung bình: 75,61 ± 7,14 năm, trong đó
lứa tuổi > 70 chiếm chủ yếu. Kết quả này phù với
nghiên cứu về u phì đại lành tính tuyến tiền liệt
của Trần Đức Hòe: tuổi trung bình 72 ± 8,27 năm
và lứa tuổi > 70 chiếm 60%(10).
Vào viện với biểu hiện chủ yếu là hội chứng
tắc nghẽn (61,29%), tỷ lệ các trường hợp bí đái
gặp tương đối cao (35,48%), có những bệnh nhân
đã có bí đái nhiều lần xen lẫn những đợt nhiễm
trùng niệu (22,58%). Kết quả này khác biệt
không có ý nghĩa thống kê so với nghiên cứu của
Nguyễn Phú Việt về u phì đại lành tính tuyến
tiền liệt: đái khó 36,83%; bí đái 61,88% (6).
Các bệnh lý kết hợp chủ yếu là bệnh lý tim
mạch (29,03%) do đối tượng nghiên cứu đều là
những bệnh nhân cao tuổi. Các yếu tố như: tăng
huyết áp; đột quỵ não cũ; hay đái đường thường
ảnh hưởng làm tăng đáng kể tỷ lệ biến chứng
sau mổ. Theo Nguyễn Công Bình thì tỷ lệ các
bệnh lý tim mạch kết hợp trong những trường
hợp u phì đại lành tính tuyến tiền liệt vào
khoảng 21%(5). Sỏi bàng quang kết hợp có 2

485



Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

trường hợp (6,45%), khác biệt không đáng kể so
với Nguyễn Phú Việt, tỷ lệ sỏi bàng quang kết
hợp trong u phì đại lành tính tuyến tiền liệt là
7,28%(6).

Một số chỉ số cận lâm sàng
Bảng 1: Thay đổi huyết sắc tố, Na+ trước và sau mổ
(X ± SD).
+

Huyết sắc tố (g/l)
Na (mmol/l)
Trước mổ 135,32 ± 13,42 (n = 31) 137,48 ± 4,29 (n =
31)
Sau mổ < 1 127,45 ± 12,48 (n = 29) 136,52 ± 4,48 (n =
ngày
29)
P
< 0,05
> 0,05

So sánh chỉ số huyết sắc tố và Na+ trước và
sau mổ (trong vòng 1 ngày đầu) nhận thấy:
huyết sắc tố giảm đi có ý nghĩa thống kê so với
trước mổ, trong khi Na+ lại giảm không đáng kể
so với trước mổ. Trong một nghiên cứu trước

đây về cắt tuyến tiền liệt qua niệu đạo bằng
monopolar, Trương Thanh Tùng cho thấy tất cả
các chỉ số: hồng cầu; huyết sắc tố; và Na+ đều
giảm trong 3 ngày đầu sau mổ so với trước mổ
một cách có ý nghĩa thống kê(11). Các kết quả trên
phù hợp với nghiên cứu của Engeler D.S., ông so
sánh cắt tuyến tiền liệt qua niệu đạo bằng
bipolar với monopolar nhận thấy, mặc dù chỉ số
huyết sắc tố ở nhóm cắt bằng bipolar sau mổ
giảm so với trước mổ nhiều hơn so với nhóm cắt
bằng monopolar (giảm 12,3g so với giảm 10,3g),
nhưng chỉ số Na+ ở nhóm cắt bằng bipolar sau
mổ lại tăng hơn so với trước mổ (tăng 1,2
mmol/l) trong khi ở nhóm cắt bằng monopolar
lại giảm (giảm 0,1 mmol/l), ông cho rằng do ở
nhóm cắt bằng bipolar có sử dụng nước muối
sinh lý làm dịch rửa nên đã làm tăng đáng kể
lượng Na+ ở nhóm này(1).
Bảng 2: Khối lượng tuyến xác định bằng siêu âm.
n
%
X ± SD

< 50g
9
29,03

50g - 60g
12
38,71

61,42 ± 16,05

> 60g
10
32,26

Các bệnh nhân được xác định khối lượng
tuyến một cách tương đối bằng siêu âm qua
đường bụng, phương pháp này chỉ thực sự
chính xác khi dung tích nước tiểu trong bàng

486

quang từ 100ml đến 200ml. Khối lượng tuyến
trong bình của các bệnh nhân trong nghiên cứu
61,42g, lớn nhất 120g và nhỏ nhất 40g. Kết quả
này khác biệt so với một số nghiên cứu trong
nước về cắt tuyến tiền liệt qua niệu đạo bằng
monopolar gần đây: Nguyễn Công Bình, Khối
lượng tuyến từ 40g trở xuống chiếm 82,5%;
Nguyễn Phú Việt, khối lượng tuyến trung bình
41,56g; Trương Thanh Tùng 42,45g(5,6,11). Qua kết
quả nghiên cứu của một số tác giả nước ngoài
như: Moore D.K.; Engeler D.S.; Gupta N.P.(1,2,4)
cho thấy cắt tuyến tiền liệt qua niệu đạo bằng
bipolar có thể chỉ định cho các khối u lành tính
tuyến tiền liệt với bất kể kích thước nào, dựa
trên cơ sở đó chúng tôi đã chỉ định cho nhiều
trường hợp khối u có kích thước > 60g (32,26%)
mà vẫn không gặp phải những tai biến - biến

chứng nặng nề như hội chứng nội soi hay chảy
máu lớn trong và sau mổ.

Kết quả điều trị
Thời gian mổ trung bình 76,52 ± 25,48 phút,
nhanh nhất 42 phút, chậm nhất 110 phút. Thời
gian mổ trong nghiên cứu này khác biệt không
có ý nghĩa thống kê: Engeler D.S. là 50,3 ± 20,8
phút với khối lượng tuyến trung bình là 50,4 ±
26,3g; Singhania P. là 55.1 ± 13.3 phút với khối
lượng tuyến trung bình là 60 ± 20g(1,8). Khi so
sánh thời gian mổ giữa hai nhóm cắt tuyến tiền
liệt qua niệu đạo bằng bipolar với bằng
monopolar, Engeler D.S. thấy ở nhóm cắt bằng
bipolar có thời gian mổ lâu hơn so với nhóm cắt
bằng monopolar, ông lý giải hiện tượng này là
do vòng đầu que cắt bipolar nhỏ hơn so với que
cắt monopolar(1).
Khối lượng tuyến trung bình (xác định qua
cân mảnh cắt) 30,19 ± 9,03g. So với khối lượng
tuyến xác định trên siêu âm từ trước mổ thì khối
lượng tuyến cắt ra chỉ được < 50%, đấy là hậu quả
của hiện tượng bốc hơi tuyến trong quá trình cắt
bằng bipolar. Trong khi đối với cắt tuyến tiền liệt
bằng monopolar thì khối lượng tuyến được cắt ra
sẽ nhiều hơn, theo Nguyễn Phú Việt thì khối
lượng này vào khoảng 63,3% khối lượng tuyến
xác định trên siêu âm trước mổ(6).

Chuyên Đề Thận Niệu



Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012
Thời gian lưu catheter niệu đạo và thời gian
nằm viện trung bình lần lượt là 4,52 ± 2,10 ngày
và 6,48 ± 2,61 ngày. Kết quả nghiên cứu này khác
biệt không có ý nghĩa thống kê so với nghiên
cứu của: Engeler D.S. là 2,9 ± 0,7 ngày và 8,1 ± 3,6
ngày; Michielsen D.P.J. là 4,0 ngày và 4,9 ngày

. Sự khác biệt trên phụ thuộc vào quan điểm

(1,3)

điều trị hậu phẫu ở từng cơ sở phẫu thuật.
Bảng 3: Thay đổi các chỉ số chủ quan và khách quan
(X ± SD).
Trước mổ
Xuất viện
p
IPSS 24,52 ± 7,48 (n = 31) 7,61 ± 2,57 (n = 28) < 0,001
QoL 4,52 ± 1,90 (n = 31) 2,18 ± 1,21 (n = 28) < 0,001
Q-mean 3,48 ± 2,48 (n = 31) 11,18 ± 2,89 (n = 28) < 0,001
PVR
95,48 ± 35,94 (n = 31,52 ± 18,48 (n = < 0,001
31)
25)

Các chỉ số chủ quan (IPSS, QoL) và khách
quan (Q-mean, PVR) trong nghiên cứu này đều

được cải thiện rõ rệt (có ý nghĩa thống kê) khi
xuất viện so với trước mổ. Điều này cũng không
có sự khác biệt so với kết quả nghiên cứu cắt
tuyến tiền liệt qua niệu đạo bằng monopolar của
một số tác giả trong nước trước đây: Trần Đức
Hòe; Trần Văn Hinh; Nguyễn Phú Việt(6,9,10).
Trong một nghiên cứu về so sánh cắt tuyến tiền
liệt qua niệu đạo bằng bipolar với bằng
monopolar, Singhania P. thấy không có sự khác
nhau giữa hai phương pháp về những cải thiện các
triệu chứng chủ quan và khách quan sau phẫu
thuật(8).
Kết quả sau mổ được đánh giá dựa trên các
tiêu chí đã nêu ở phần đối tượng và phương pháp
nghiên cứu, có: kết quả tốt 70,97%; trung bình
25,81%; và xấu là 3,22%.

Tai biến - biến chứng
Tỷ lệ tai biến - biến chứng chung là 6,45%,
trong đó bao gồm: 1 trường hợp chảy máu xoang
tĩnh mạch trong mổ; 1 trường hợp nhiễm khuẩn
niệu sau mổ. Các trường hợp trên đều được xử trí
và điều trị ổn định. Không gặp trường hợp nào có
biểu hiện của hội chứng nội soi, chảy máu lớn
trong và sau mổ, hay biến chứng đi tiểu không tự
chủ. Có 1 trường hợp sau mổ cho kết quả xấu là

Chuyên Đề Thận Niệu

Nghiên cứu Y học


do biểu hiện đi tiểu sau khi rút catheter niệu đạo,
đây cũng là trường hợp có nhiễm khuẩn niệu sau
mổ, chúng tôi đã phải tiến hành cấy khuẩn và
điều trị theo kháng sinh đồ. So với tỷ lệ tai biến biến chứng chung trong cắt tuyến tiền liệt qua
niệu đạo bằng monopolar (Trần Văn Hinh
27,06%; Nguyễn Phú Việt 13,47%(6,9) thì tỷ lệ này
trong cắt bằng bipolar giảm đáng kể, đây có thể là
một ưu điểm của cắt tuyến tiền liệt qua niệu đạo
bằng bipolar so với cắt bằng monopolar.

KẾT LUẬN
Cắt tuyến tiền liệt qua niệu đạo bằng bipolar
là một phương pháp an toàn, hiệu quả, ít tai biến biến chứng và cho tỷ lệ thành công cao. Tuy
nhiên để có những kết luận chính xác cần phải có
những nghiên cứu với số lượng lớn hơn.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

2.

3.

4.

5.

6.


7.

8.

9.

10.

11.

Engeler D.S. et al (2010), Bipolar versus monopolar TURP: A
prospective controlled study at two urology centers, Prostate
Cancer Prostatic Dis., 13(3), pp.285-291.
Gupta N.P., Singh A., Kumar R. (2007), Transurethral vapor
resection of prostate is a good alternative for prostates > 70 g,
J.Endourol., 21(12), pp.1543-1546.
Michielsen D.P.J. et al (2007), Bipolar Transurethral Resection in
Saline - An Alternative Surgical Treatment for Bladder Outlet
Obstruction?, The journal of urology, 178, pp.2035-2039.
Moore D.K., Moore R.G. (2005), Bipolar transurethral resection An improved system for treatment og BPH?, BB: US kid.and
urol.dis., pp.37-42.
Nguyễn Công Bình và cộng sự (2005), Nhận xét bước đầu về
tình hình điều trị u phì đại lành tính tuyến tiền liệt bằng
phương pháp cắt đốt nội soi tại Bệnh viện Việt Tiệp - Hải
Phòng, Y học Việt Nam, số tháng 8, tr.296-303.
Nguyễn Phú Việt và cộng sự (2005), Kết quả cắt nội soi u phì
đại lành tính tuyến tiền liệt tại Bệnh viện 103 từ năm 1999 đến
năm 2002, Y học Việt Nam, số tháng 8, tr.236-243.
Rassweiler J., De La Rosette J. (2012), Bipolar transurethral
resection

of
the
prostate:
a
valid
innovation,
neurogenic-luts/view/article/.
Singhania P. et al (2010), Transurethral Resection of Prostate: A
Comparison of Standard Monopolar versus Bipolar Saline
Resection, Inter. Braz.J.Urol., 36(2), pp.183-189.
Trần Văn Hinh, Trần Văn Hiến (2006), Tai biến và biến chứng
sớm của cắt đốt nội soi u phì đại lành tính tuyến tiền liệt trên
máy Karl-Storz, Y Dược học Quân sự, 31(4), tr.102-107.
Trần Đức Hòe và cộng sự (2005), Một số nhận xét về kết quả
ban đầu cắt nội soi u phì đại lành tính tuyến tiền liệt, Y học Việt
Nam, số tháng 8, tr.259-264.
Trương Thanh Tùng, Nguyễn Đăng Quang, Nguyễn Phú Việt
(2007), Kết quả điều trị cắt đốt nội soi qua niệu đạo u phì đại
lành tính tuyến tiền liệt tại Bệnh viện 354, Y Dược học Quân sự,
32(5), tr.94-99.

487



×