Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Kết quả nghiên cứu gen caga và các gen vaca của helicobacter pylori trên bệnh nhân viêm dạ dày bằng phương pháp multiplex PCR

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (417.25 KB, 7 trang )

Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU GEN CAGA VÀ CÁC GEN VACA  
CỦA HELICOBACTER PYLORI TRÊN BỆNH NHÂN VIÊM DẠ DÀY  
BẰNG PHƯƠNG PHÁP MULTIPLEX PCR 
Trần Thiện Trung*, Nguyễn Tuấn Anh*, Quách Hữu Lộc*, Trần Thiện Khiêm*,  
Trần Ái Anh*, Nguyễn Thị Minh Tâm*,Hồ Huỳnh Thùy Dương*, Trần Anh Minh** 

TÓM TẮT 
Mục  tiêu: Đánh giá tỷ lệ các gen của vi khuẩn Helicobacter pylori (H. pylori) phát hiện được trên bệnh 
nhân viêm dạ dày đến khám và điều trị tại Cơ sở 2‐ Bệnh viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh. 
Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang trên 172 bệnh nhân viêm dạ dày. Chẩn đoán các gen H. pylori bằng 
phương pháp multiplex PCR. Quản lý số liệu và phân tích kết quả bằng phần mềm SPSS (phiên bản 10.0, SPSS 
Inc, Chicago, Ill).  
Kết  quả:  Trên  66,7%  (172/258)  trường  hợp  viêm  dạ  dày  có  H.  pylori‐dương  tính.  Bằng  phương  pháp 
multiplex PCR, kết quả gen cagA‐dương tính chiếm 91,3% (157/172) trường hợp và gen vacA‐dương tính là 
98,3% (169/172). Trong số này các gen vacA s1/s2 của H. pylori được xác định lần lượt là 93,6% (161/172) và 
1,2% (2/172); các gen vacA m1/m2 lần lượt là 37,2% (64/172) và 48,3 (83/172) trường hợp. Một trường hợp 
(0,6%) có cả hai gen s1 và s2, và 17 trường hợp (9,9%) có cả hai gen m1 và m2. Qua nghiên cứu không thấy có 
liên  quan  giữa  gen  cagA‐dương  tính  với  các  gen  vacA  s1/s2  (p  =  0,636),  và  với  tổ  hợp  các  gen  vacA  s1/s2, 
m1/m2 (p = 0,120), nhưng gen cagA‐dương tính có mối liên quan với các gen vacA m1/m2 (p=0,018).  
Kết  luận: Trên bệnh nhân viêm dạ dày có H. pylori‐dương tính, có mối liên quan giữa gen cagA‐dương 
tính với vacA m1. Tổ hợp các gen của vi khuẩn H. pylori chủ yếu là cagA‐dương tính, vacA s1m1; và cagA‐
dương tính, vacA s1m2. Một số tổ hợp các gen mới được phát hiện trong nghiên cứu của chúng tôi như cagA‐
dương tính vacA s2m1; cagA‐dương tính vacA s2m2; và cagA‐âm tính vacA s1m1. 
Từ khóa: H. pylori, multiplex PCR, cagA, vacA. 

ABSTRACT 
CagA STATUS AND vacA GENOTYPES OF HELICOBACTER PYLORI IN PATIENTS WITH 


GASTRITIS BY MULTIPLEX PCR 
Tran Thien Trung, Nguyen Tuan Anh, Quach Huu Loc, Tran Thien Khiem, Tran Ai Anh,  
Nguyen Thi Minh Tam, Ho Huynh Thuy Duong, Tran Anh Minh  
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 4 ‐ 2013: 11 ‐ 17 
Purpose: To evaluate cagA status and vacA genotypes of Helicobacter pylori (H. pylori) in patients with 
gastritis at University Medical Center, Ho Chi Minh city‐ Campus 2. 
Methods:  A  cross‐sectional  study  was  conducted  in  172  patients  with  gastritis  before  eradication.  CagA 
status and vacA genotypes of H. pylori were determined by multiplex PCR. Data were stored and analyzed by 
SPSS software (version 10.0, SPSS Inc, Chicago, Ill). 
Results:  Over  66.7%  (172/258)  cases  with  gastritis  were  H.  pylori  positive.  By  multiplex  PCR,  91.3% 
* Bệnh viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh 
** Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch, TP. Hồ Chí Minh 
Tác giả liên lạc: PGS.TS.BS Trần Thiện Trung‐ ĐT: 0903645659‐ Email: drtranthientrung@ yahoo.com. 

12

Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 

Nghiên cứu Y học

(157/172) cases were cagA‐positive and 98.3% (169/172) cases were vacA‐positive. Among these cases, the vacA 
s1/s2 was detected in 93.6% (161/172) and 1.2% (2/172) respectively, and the vacA m1/m2 was 37.2% (64/172) 
and 48.3% (83/172) correspondingly. One case (0.6%) was positive with both vacA s1 and vacA s2. Seventeen 
cases (9.9%) were positive with both vacA m1 and vacA m2. The study did not recognize the association between 
cagA‐positive and vacA s1/s2 (p = 0.636), as well as the combination of vacA s1/s2 and vacA m1/m2 (p = 0.120). 
However, cagA‐positive was associated with vacA m1/m2 (p = 0.018). 
Conclusions: Of patients with gastritis, there was an association between cagA‐positive and vacA m1. The 

main genotype combinations of H. pylori were cagA‐positive, vacA s1m1 and cagA‐positive, vacA s1m2. There 
were  some  new  genotype  combinations  discovered  in  this  study,  such  as  cagA‐positive,  vacA  s2m1;  cagA‐
positive, vacA s2m2 and cagA‐negative vacA s1m1.  
Keywords: H. pylori, multiplex PCR, cagA, vacA 

ĐẶT VẤN ĐỀ 

sinh  bệnh  là  do  độc  tính  khác  nhau  của  các 

Ung thư dạ dày là nguyên nhân gây tử vong 
đứng hàng thứ hai trên thế giới. Các trường hợp 
ung  thư  dạ  dày  mới  xuất  hiện  chủ  yếu  ở  các 
nước đang phát triển(17,22). Tỷ lệ ung thư dạ dày 
mới mắc vẫn cao ở các nước Đông Á như Nhật 
Bản,  Hàn  Quốc,  Trung  Quốc,  và  Việt  Nam. 
Trong  đó,  Việt  Nam  đứng  đầu  các  nước  Đông 
Nam Á về tỷ lệ tử vong do ung thư dạ dày(9,22). 

chủng H. pylori(22).  

Trong các yếu tố nguyên nhân của ung thư 
dạ  dày,  nhiễm  H. pylori  là  một  yếu  tố  nguy  cơ 
chủ  yếu  và  bằng  nhiều  con  đường  bệnh  sinh 
khác nhau, từ viêm dạ dày mạn có thể diễn tiến 
thành các thương tổn tiền ung thư như viêm teo, 
dị sản, loạn sản và ung thư dạ dày(6,18,20,22). Nguy 
cơ ung thư dạ dày tăng từ 2‐6 lần đối với bệnh 
nhân nhiễm H. pylori. Năm 1994, Tổ chức nghiên 
cứu ung thư quốc tế và Tổ chức y tế thế giới đã 
xếp H. pylori là tác nhân nhóm 1 gây ung thư dạ 

dày‐carcinoma ở người(3,22). Hơn nửa dân số thế 
giới  nhiễm  H.  pylori,  tỷ  lệ  nhiễm  từ  25%  ở  các 
nước  phát  triển  đến  hơn  90%  ở  các  nước  đang 
phát triển. Hầu hết những người nhiễm H. pylori 
mạn tính đều không có triệu chứng lâm sàng rõ 
rệt(22),  ở  những  cá  thể  nhạy  cảm  sẽ  có  những 
thương tổn dạ dày khác nhau như viêm, loét và 
hoặc  ung  thư  dạ  dày(12,15,18,19,20).  Trong  số  những 
người bị nhiễm H. pylori, một tỷ lệ nhỏ từ 1‐2% 
phát  triển  thành  ung  thư  dạ  dày  với  quá  trình 

Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học

Gen  cagA  được  tìm  thấy  ở  vùng  đảo  sinh 
bệnh cag PAI và được xem là “dấu ấn sinh học” 
biểu hiện độc tính của vi khuẩn H. pylori khi có  
gen  cagA  hoặc  vùng  PAI.  Những  người  nhiễm 
H. pylori có cagA‐dương tính sẽ có nguy cơ phát 
triển  loét  và  ung  thư  dạ  dày  cao  hơn  so  với 
người  nhiễm  H. pylori  có  cagA‐âm  tính(1,22).  Bên 
cạnh các độc tố của vi khuẩn có tiềm năng gây 
ung  thư  dạ  dày  như  protein  CagA,  thì  tính  đa 
dạng  di  truyền  của  gen  mã  hóa  cho  protein 
VacA cũng được xem là quan trọng(8,10). Sự hiện 
diện của gen vacA gây viêm niêm mạc dạ dày từ 
nhẹ  đến  nặng(16,18,20).  Mặc  dù  hầu  hết  các  chủng 
H. pylori đều có vacA‐dương tính, nhưng chỉ 50‐
60% biểu hiện hoạt tính gây độc tế bào. Sự khác 
biệt  này  có  thể  bắt  nguồn  từ  tính  đa  dạng  di 
truyền  của  gen  vacA.  Phân  tích  di  truyền  các 

chủng H. pylori cho thấy có các kiểu gen vacA với 
những tổ hợp khác nhau của vùng tín hiệu s1, s2 
và  vùng  giữa  m1,  m2.  Các  kiểu  gen  vacA  đặc 
trưng có liên quan ý nghĩa đến hoạt tính gây độc 
tế bào và viêm, loét đường tiêu hóa. Vì vậy, việc 
xác định các gen của H. pylori góp phần hữu ích 
trong  chẩn  đoán  nhiễm  H.  pylori  và  liên  quan 
đến các bệnh ở dạ dày(7,18,19,20). 
Trong  bài  báo  này,  chúng  tôi  giới  thiệu 
nghiên  cứu  về  gen  cagA  và  các  gen  vacA  thực 
hiện  trên  những  bệnh  nhân  viêm  dạ  dày  đến 
khám và điều trị tại bệnh viện Đại học Y Dược 
TP. Hồ Chí Minh‐Cơ sở 2. Từ đó, giúp chúng ta 
có thêm hiểu biết về sự hiện diện cũng như liên 

13


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013

quan  giữa  các  gen  của  vi  khuẩn  H. pylori  trong 
quần thể bệnh nhân được khảo sát làm cơ sở cho 
những nghiên cứu tiếp theo trong tương lai. 

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Nghiên  cứu  cắt  ngang  thực  hiện  từ  tháng 
8/2012 – 2/2013 tại bệnh viện Đại học Y Dược TP. 

Hồ Chí Minh‐Cơ sở 2. Bệnh nhân đến khám tiêu 
hóa đáp ứng các tiêu chuẩn sau: 

Tiêu chuẩn nhận bệnh 
Bệnh nhân đồng ý tham gia nghiên cứu. 
Tiêu chuẩn loại trừ 
Bệnh nhân là trẻ em hoặc phụ nữ mang thai. 

Phương pháp nghiên cứu 
Mẫu  sinh  thiết  dạ  dày  của  bệnh  nhân  thu 
thập  qua  nội  soi,  lấy  ở  vùng  hang  vị  phía  bờ 
cong  lớn,  cách  môn  vị  khoảng  3cm.  Phương 
pháp  multiplex  PCR  được  dùng  để  xác  định 
đồng thời sự  hiện  diện/không  hiện  diện  của  H. 
pylori và xác định các gen của vi khuẩn H. pylori.  
Kết  quả  H.  pylori‐dương  tính  được  chẩn 
đoán  ngoài  phương  pháp  multiplex  PCR  kết 
hợp với ít nhất một trong hai thử nghiệm khác là 
CLO‐test hoặc/và huyết thanh‐dương tính.  
Phương  pháp  multiplex  PCR  với  khả  năng 
đồng  thời  phát  hiện  và  xác  định  H.  pylori  dựa 
trên  gen  cagA  và  vacA  được  sử  dụng  trong 
nghiên  cứu.  Multiplex  PCR  dựa  trên  sự  nhân 
bản đồng thời  nhiều  vùng  gen  cagA,  vacA  khác 
nhau,  bằng  nhiều  cặp  mồi  đặc  trưng  với  H. 
pylori trong cùng một phản ứng. Vì vậy, tính đặc 
hiệu của phản ứng được đảm bảo. 
Để đảm bảo cho tính chính xác sự hiện diện 
của các gen H. pylori trong quần thể khảo sát, chỉ 
những  bệnh  phẩm  dương  tính  với  multiplex 

PCR,  và  dương  tính  với  ít  nhất  một  trong  hai 
phương  pháp  chẩn  đoán  khác  (CLO  test  và 
huyết thanh) mới được đưa vào phân tích thống 
kê. Các trường hợp âm tính với multiplex PCR, 
không xác định được týp  gen, và được loại trừ 
khi CLO test và huyết thanh âm tính. 

14

Phương  pháp  phân  tích  thống  kê  sử  dụng 
các phép kiểm chi bình phương (χ2) để đánh giá 
kết quả nghiên cứu có ý nghĩa thống kê khi p < 
0,05 bằng phần mềm SPSS (phiên bản 10.0, SPSS 
Inc, Ill) với khoảng tin cậy 95%. 

KẾT QUẢ 
Trong 258 bệnh nhân viêm dạ dày đủ tiêu 
chuẩn đưa vào nghiên cứu, trong đó có 38,4% 
(99/258) nam và 61,6% (159/258) nữ, tuổi trung 
bình  là  44,2±12,7  (tuổi  nhỏ  nhất  là  17  và  lớn 
nhất là 76).  

Kết  quả  phân  tích  các  gen  cagA‐
dương/cagA‐âm tính, vacA s1/s2, và m1/m2 
của H. pylori trình bày trong bảng 1 
Bảng 1: Kết quả các gen cagA‐dương/cagA‐âm tính, 
vacA s1/s2 và m1/m2 của H. pylori 
Kết quả
PCR chẩn
đoán H. pylori

(n=258)
cagA
(n=172)
vacA
(n=172)
vacA s1/s2
(n=172)

Phân nhóm

Số bệnh
nhân

Phần trăm
(%)

Âm tính
Dương tính
Dương tính
Âm tính

86
172
157
15

33,3
66,7
91,3
8,7


169
3
161
2
1
8
64
83
17
8

98,3
1,7
93,6
1,2
0,6
4,6
37,2
48,3
9,9
4,6

Dương tính
Không phát hiện
s1
s2
s1 và s2
Không phát hiện
vacA m1/m2

m1
(n=172)
m2
m1 và m2
Không phát hiện

Nhận  xét:  Trong  258  trường  hợp  viêm  dạ 
dày,  có  33,3%  (86/258)  âm  tính  và  66,7% 
(172/258)  dương  tính  với  H. pylori.  Kết  quả  týp 
gen  H.  pylori  xác  định  bằng  phương  pháp 
multiplex  PCR  ở  bảng  trên  cho  thấy  trong  172 
trường hợp H. pylori‐dương tính, tỷ lệ gen cagA‐
dương  tính  là  91,3%  (157/172)  và  không  có  gen 
cagA là 8,7% (15/172) trường hợp. 
Gen  vacA  phát  hiện  được  trong  98,3% 
(169/172)  trường  hợp,  và  có  1,7%  (3/172)  vacA 
không xác định hay vacA‐âm tính. Tỷ lệ các gen 

Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 
vacA s1 và s2 lần lượt là 93,6% (161/172) và 1,2% 
(2/172). Một trường hợp có cả hai gen vacA s1 và 
s2. Gen vacA s1/s2 không xác định được là 4,6% 
(8/172). Tỷ lệ gen vacA m1 và m2 tương ứng lần 
lượt là 37,2% (64/172) và 48,3 (83/172). Có cả hai 
gen vacA m1 và m2 chiếm 9,9% (17/172) trường 
hợp. Gen vacA m1 và m2 không xác định được 
là 4,6% (8/172). 


Liên quan giữa gen cagA với các gen vacA 
s1/s2 và với vacA m1/m2 
Liên  quan  giữa  gen  cagA‐dương/cagA‐âm 
tính  với  các  gen  vacA  s1/s2  và  m1/m2  của  H. 
pylori được trình bày trong bảng 2, 3 và 4. Chúng 
tôi  xin  lưu  ý:  các  trường  hợp  không  phát  hiện 
gen  vacA  s1/s2,  vacA  m1/m2,  và  vừa  đồng  thời 
có  các  gen  vacA  s1  và  s2  hoặc  vacA  m1  và  m2 
không được đưa vào phân tích. 
Bảng 2: Liên quan giữa gen cagA với các gen vacA 
s1/s2  

Các tổ hợp
gen vacA
s1m1
s1m2
s2m1
s2m2
Tổng cộng

Nghiên cứu Y học
Gen cagA
Dương tính Âm tính
59
2
66
12
1
1

127
14

Tổng cộng
61
78
1
1
141

Nhận xét: không  có  mối  liên  quan  giữa  gen 
cagA‐dương  tính  với  các  tổ  hợp  các  gen  vacA 
s1/s2, m1/m2, p=0,120 (χ2‐test). 

BÀN LUẬN 
Nhiễm H. pylori trong nghiên cứu của chúng 
tôi  năm  2013  trên  bệnh  nhân  viêm  dạ  dày  là 
66,7%  (172/258).  Tỷ  lệ  nhiễm  H.  pylori  trong 
nghiên cứu của Fock(5) là 74,6%, theo Nguyen(13) 
là  65,6%.  Như  vậy,  tỷ  lệ  nhiễm  H.  pylori  trong 
nghiên cứu của chúng tôi cao hơn ở Trung Quốc 
là  58,07%,  Hàn  Quốc  59,6%,  Đài  Loan  54,5%, 
Thái Lan 57% nhưng thấp hơn so với tỷ lệ nhiễm 
H. pylori ở Ấn Độ là 79%(5).  

Liên quan đến gen cagA 

có ý nghĩa thống kê, với p=0,018 (χ2‐test). 

Trong  nghiên  cứu  của  chúng  tôi  năm  2013,  

gen  cagA  chiếm  91,3%  trong  các  trường  hợp 
viêm  dạ  dày  có  H. pylori  dương  tính,  tỷ  lệ  này 
tương đương với gen cagA‐dương tính là 93,6% 
trong nghiên cứu của Nguyen (2010) trên nhóm 
bệnh nhân ở khu vực thành phố Hồ Chí Minh(13). 
Trong  một  nghiên  cứu  khác  của  Trần  Thiện 
Trung (2011)(18,19), ở nhóm chứng 91 viêm dạ dày, 
tỷ  lệ  gen  cagA‐dương  tính  chiếm  92,3%,  và 
cagA‐âm tính là 7,7% trường hợp. Như vậy, mặc 
dù có khác biệt về thời điểm nghiên cứu (2010, 
2011  và  2013)  nhưng  tỷ  lệ  H. pylori‐dương  tính 
có  gen  cagA  giữa  các  nghiên  cứu  gần  giống 
nhau.  Trong  kết  quả  của  một  số  nghiên  cứu 
khác,  gen  cagA  thường  được  phát  hiện  trong 
nhóm  bệnh  nhân  ung  thư  dạ  dày  hơn,  so  với 
nhóm đối chứng(8). Trần Thiện Trung (2011)(18,19), 
tỷ lệ gen cagA‐dương tính trong ung thư dạ dày 
chiếm 100% trường hợp. 

Bảng 4: Liên quan giữa gen cagA với các tổ hợp gen 
vacA s1/s2 và m1/m2 

Liên quan đến các gen vacA s1/s1 và vacA 
m1/m2 

Gen cagA
Tổng cộng
Dương tính Âm tính
125
14

139
2
0
2
127
14
141

Gen vacA
s1
s2
Tổng cộng

Nhận xét: không  có  mối  liên  quan  giữa  gen 
cagA‐dương  tính  với  các  gen  vacA  s1  và  s2, 
p=0,636 (χ2‐test).  
Bảng 3: Liên quan giũa gen cagA với các gen vacA 
m1/m2 
Gen vacA
m1
m2
Tổng cộng

Gen cagA
Dương tính Âm tính
60
2
67
12
127

14

Tổng cộng
62
79
141

Nhận  xét:  mối  liên  quan  giữa  gen  cagA‐
dương tính với các gen vacA m1 và m2 khác biệt 

Các tổ hợp
gen vacA

Gen cagA
Dương tính Âm tính

Tổng cộng

Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học

Trong  nghiên  cứu  của  chúng  tôi,  các  chủng 
H. pylori có các gen vacA s2 mặc dù chiếm một tỷ 

15


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013


lệ rất nhỏ là 1,2% (n = 258), trong khi nghiên cứu 
của Nguyen(13), (n = 100)  không  phát  hiện  được 
gen này. Điều này có thể giải thích do tỷ lệ gen 
vacA s2 rất thấp trong nghiên cứu của chúng tôi 
là 1,2% so với 93,6% vacA s1, nên khó phát hiện 
được  gen  này  trong  trường  hợp  cỡ  mẫu  nhỏ. 
Hơn  nữa,  chúng  tôi  còn  phát  hiện  được  một 
trường hợp đồng nhiễm (0.6%) của cả hai chủng 
vacA  s1  và  vacA  s2.  Theo  chúng  tôi  được  biết, 
nhiễm H. pylori đồng thời có cả hai chủng có cả 
hai  gen  vacA  s1  và  s2  chưa  từng  được  báo  cáo 
trong các nghiên cứu ở Việt Nam. Trên thế giới, 
sự  đồng  nhiễm  nhiều  chủng  H.  pylori  đã  được 
báo cáo ở một số nghiên cứu, nhưng chỉ trên các 
chủng có gen vacA m1 và vacA m2(4).  
Tỷ lệ H. pylori có gen vacA m1 là 37,2% trong 
nghiên cứu của chúng tôi tương đương với tỷ lệ 
được công bố trong nghiên cứu của Nguyen(13) là 
36,2%. Trong khi đó, tỷ lệ H. pylori có gen vacA 
m2 là 48,3% của chúng tôi thấp hơn so với tỷ lệ 
đã  công  bố  63,8%(13).  Tuy  nhiên,  trong  nghiên 
cứu của chúng tôi, tỷ lệ đồng nhiễm vacA m1 và 
m2  là  khá  cao  chiếm  9,9%  (17/172)  so  với  tỉ  lệ 
đồng nhiễm vacA s1 và s2. Tương tự, nhiễm H. 
pylori  đồng  thời  có  cả  hai  chủng  có  cả  hai  gen 
vacA m1 và vacA m2 chưa từng được báo cáo ở 
Việt  Nam,  nhưng  đã  được  báo  cáo  ở  một  số 
nghiên cứu trên thế giới(4).  
Một  số  trường  hợp  trong  nghiên  cứu  của 
chúng tôi không thể xác định được các gen vacA 

s1/s2  và  vacA  m1/m2.  Tình  trạng  này  cũng  gặp 
phải ở một số nghiên cứu khác trên thế giới khi 
sử dụng phương pháp PCR để xác định các gen 
vacA  và  nguyên  nhân  vẫn  còn  chưa  được  hiểu 
rõ(7,21).  Trong  nghiên  cứu  của  chúng  tôi,  các 
trường  hợp  không  xác  định  được  gen  vacA  có 
thể  là  do  mật  độ  vi  khuẩn  trong  mẫu  thấp  (độ 
sáng của vạch tín hiệu không mạnh), khi đó kết 
quả multiplex PCR biểu hiện thường lên không 
đủ vạch đặc trưng cho từng kiểu gen vacA. 

Liên  quan  giữa  gen  cagA  và  các  gen  vacA 
s1/s2 và vacA m1/m2 
Trong nghiên cứu của chúng tôi không thấy 
liên quan giữa gen cagA với các gen vacA s1 và 

16

s2  (p  =  0,636),  nhưng  có  liên  quan  đến  các  gen 
vacA m1và m2 (p = 0,018). Theo Nguyen và cs(13), 
đối với quần thể người Việt Nam, gen vacA m1 
cho thấy liên quan đến nguy cơ gia tăng bị loét 
dạ  dày,  và  có  thể  góp  phần  giải  thích  cho  sự 
khác nhau về tỷ lệ loét và ung thư dạ dày giữa 
hai khu vực Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh.  
Như  vậy,  trường  hợp  có  gen  cagA‐dương 
tính  kết  hợp  với  gen  vacA  m1  có  thể  làm  tăng 
nguy cơ ung thư dạ dày. Hơn nữa, điều này có 
thể là sự khác biệt khá đặc trưng giữa Châu Âu 
và Châu Á. Đối với gen vacA, hầu hết các chủng 

H. pylori đều có gen vacA nhưng sự khác biệt ở 
khả năng tạo ra độc tố(14). Các gen vacA s1 và m1 
cho thấy có khả năng gây độc cao hơn so với gen 
vacA s2 và m2(2). Tỷ lệ các gen vacA và khả năng 
gây  bệnh  thay  đổi  tùy  theo  từng  địa  lý  khác 
nhau  trên  thế  giới,  ở  các  nước  phương  tây  sự 
hiện diện của gen cagA và vacA s1 liên quan đến 
loét  đường  tiêu  hóa.  Trong  nghiên  cứu  của 
chúng tôi cho thấy mối liên quan có ý nghĩa giữa 
gen cagA và gen vacA m1 trên bệnh  nhân  viêm 
dạ dày. 
Liên  quan  giữa  gen  cagA  và  tổ  hợp  các  gen 
vacA s1/s2 và m1/m2 trong nghiên cứu của chúng 
tôi năm 2013  không  cho  thấy  mối  liên  hệ  (p  = 
0,120).  Trong  đó,  tổ  hợp  gen  cagA‐dương  tính 
và vacA s1m2 chiếm ưu thế 46,8% (66/141); tiếp 
theo  là  cagA‐dương  tính  và  vacA  s1m1  41,8% 
(59/141);  và  cagA‐âm  tính,  vacA  s1m2  là  8,5% 
(12/141).  Kết  quả  nghiên  cứu  của  chúng  tôi, 
mặc  dù  khác  nhau  về  tỷ  lệ  nhưng  về  thứ  tự 
phổ  biến, tương đồng với kết  quả  nghiên  cứu 
của Reza (Iran, 2013)(15).  
Hơn  nữa,  trong  nghiên  cứu  của  chúng  tôi 
năm  2013,  chúng  tôi  còn  phát  hiện  được  gen 
vacA s2m1 hiện diện trong nghiên cứu và kiểu 
tổ  hợp  gen  này  chưa  từng  được  phát  hiện 
trước đây ở Việt Nam. Gần đây, một số nghiên 
cứu  trên  thế  giới  cũng  cho  thấy  kiểu  gen  này 
nhưng  với  tỉ  lệ  rất  thấp  1,7%  (2/115)(15).  Ngoài 
ra chúng tôi còn tìm thấy tổ hợp gen cagA‐âm 

tính  với  các  gen  vacA  s1m1  và  ngược  lại,  tổ 
hợp  gen  cagA‐dương  tính  với  các  gen  vacA 

Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 
s2m1  và  cagA‐dương  tính  với  các  gen  vacA 
s2m2  là  những  bất  thường  mà  chúng  tôi  mới 
phát hiện được trong nghiên cứu này (bảng 4). 
Trong  nghiên  cứu  khác  của  Trần  Thiện 
Trung (2011)(18,19), liên quan giữa gen cagA và các 
gen  vacA  trên  bệnh  nhân  ung  thư  và  viêm  dạ 
dày. Ở nhóm 78 bệnh nhân ung thư dạ dày, tỷ lệ 
gen  cagA‐dương  tính  chiếm  100%  trường 
hợp, và  chỉ  gặp  ở  các  gen  vacA  s1m1  là  65,4% 
(51/78),  và  các  gen  vacA  s1m2  là  34,6%  (27/78) 
trường hợp. Ở nhóm chứng 91 viêm dạ dày, tỷ 
lệ gen cagA‐dương tính chiếm 92,3% (84/91), và 
cagA‐âm tính chỉ gặp ở nhóm viêm dạ dày 7,7% 
(7/91) trường hợp. Trong nhóm viêm dạ dày, ở 
bệnh  nhân  có  cagA‐dương  tính,  chúng  tôi  gặp 
các  gen  vacA  s1m1  là  41,8%  (38/91),  gen  vacA 
s1m2  là  50,5%  (46/91).  Ở  bệnh  nhân  cagA‐âm 
tính có các gen vacA s1m2 là 4,4% (4/91), và gen 
vacA s2m2 là 3,3% (3/91). Chúng tôi không gặp 
các tổ hợp gen mới khác như trong nghiên cứu 
năm 2013. 

KẾT LUẬN 

Trên  bệnh  nhân  viêm  dạ  dày  có  H.  pylori‐
dương  tính,  xác  định  các  gen  của  vi  khuẩn  H. 
pylori  bằng  phương  pháp  multiplex  PCR.  Tỷ  lệ 
các tổ hợp gen của vi khuẩn H. pylori được tìm 
thấy chủ yếu là cagA‐dương tính, vacA s1m1; và 
tổ hợp gen cagA‐dương tính, vacA s1m2. Một số 
tổ hợp các gen mới khác được phát hiện nhưng 
ít  hơn  trong  nghiên  cứu  như  tổ  hợp  gen  cagA‐
dương  tính  vacA  s2m1;  cagA‐dương  tính  vacA 
s2m2; và tổ hợp gen cagA‐âm tính vacA s1m1. 
Trên những bệnh nhân ở khu vực Miền nam 
Việt nam bị viêm dạ dày có H. pylori‐dương tính, 
gen cagA‐dương tính có liên quan với gen vacA 
m1. Điều xin lưu ý là mối liên quan giữa các gen 
cagA‐dương tính và gen vacA m1 trên bệnh nhân 
ung  thư  dạ  dày  đã  được  công  bố  trong  nghiên 
cứu trước đây của chúng tôi. 

TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.

Arents  NL,  et  al  (2001).  The  importance  of  vacA,  cagA,  and 
iceA genotypes of Helicobacter pylori infection in peptic ulcer 
disease  and  gastro  esophageal  reflux  disease.  Am  J 
Gastroenterol, 96(9): 2603‐2608. 

Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học

2.


3.

4.

5.

6.
7.

8.

9.

10.

11.

12.

13.

14.

15.

16.

17.
18.


Nghiên cứu Y học

Ashour  AA,  et  al  (2002).  Distribution  of  vacA  genotypes  in 
Helicobacter pylori strains isolated from Brazilian adult patients 
with  gastritis,  duodenal  ulcer  or  gastric  carcinoma.  FEMS 
Immunol Med Microbiol, 33(3): 173‐178. 
Eslick  GD,  et  al  (1999).  Association  of  Helicobacter  pylori 
infection  with  gastric  carcinoma:  a  meta‐analysis.  Am  J 
Gastroenterol, 94(9): 2373‐2379. 
Ferman  RZA,  Alyapkina  Y,  Svarval  A  (2010).  Genotypic 
analysis  of  Helicobacter  pylori  strains  in  St.  Petersburg, 
Russia  at  present.  20th  European  Congress  of  Clinical 
Microbiology and Infectious Diseases, Vienna, Austria, 10‐13 
April. 
Fock  KM  and  Ang  TL  (2010).  Epidemiology  of  Helicobacter 
pylori  infection  and  gastric  cancer  in  Asia.  J  Gastroenterol 
Hepatol, 25(3): 479‐486. 
Hamilton SA (2000). Pathology and genetics of tumors of the 
digestive systems. Lyon: IARC Press. 
Han  SR,  et  al  (1999).  One‐step  polymerase  chain  reaction‐
based  typing  of  Helicobacter  pylori  vacA  gene:  association 
with gastric histopathology. Med Microbiol Immunol, 188(3): 
131‐138. 
Jang  SJK,  Olsen  CH,  et  al  (2010).  Epidemiological  link 
between  gastric  disease  and  polymorphisms  in  VacA  and 
CagA. J Clin Microbiol, 48: 559‐567. 
Kimman  M,  et  al  (2012).  The  burden  of  cancer  in  member 
countries  of  the  Association  of  Southeast  Asian  Nations 
(ASEAN). Asian Pac J Cancer Prev, 13(2): 411‐420. 
Malfertheiner  P,  et  al  (2012).  Management  of  Helicobacter 

pylori  infection‐‐the  Maastricht  IV/  Florence  Consensus 
Report. Gut, 61(5): 646‐664. 
Miehlke S, et al (2000). The Helicobacter pylori  vacA  s1,  m1 
genotype and cagA are associated with gastric carcinoma in 
Germany. Int J Cancer, 87(3): 322‐327. 
Milani M, et al (2012). The status of antimicrobial resistance of 
Helicobacter  pylori  in  Eastern  Azerbaijan,  Iran:  comparative 
study  according  to  demographics.  J  Infect  Chemother,  18(6): 
848‐852. 
Nguyen  TL,  et  al  (2010).  Helicobacter  pylori  infection  and 
gastro  duodenal  diseases  in  Vietnam:  a  cross‐sectional, 
hospital‐based study. BMC Gastroenterol, 10: 114. 
Podzorski RP, et al (2003). Analysis of the vacA, cagA, cagE, 
iceA, and babA2 genes in Helicobacter pylori from sixty‐one 
pediatric patients from the Midwestern United States. Diagn 
Microbiol Infect Dis, 46(2): 83‐88. 
Reza  Ghotaslou  MM,  Mohammad  Taghi  Akhi,  Mohammad 
Reza  Nahaei,  Alka  Hasani,  Mohammad  Saeid  Hejazi, 
Mohammad Meshkini (2013). Diversity of Helicobacter pylori 
cagA  and  vacA  Genes  and  Its  Relationship  with  Clinical 
Outcomes  in  Azerbaijan,  Iran.  Advanced  Pharmaceutical 
Bulletin, 3(1): 57‐62. 
Ruzsovics  A,  et  al  (2001).  Determination  of  Helicobacter 
pylori  cagA,  vacA  genotypes  with  real‐time  PCR  melting 
curve analysis. J Physiol Paris, 95(1‐6): 369‐377. 
Society AC (2011). Global Cancer Facts and Figures. Atlanta: 
American Cancer Society. 
Trần  Thiện  Trung,  Hồ  Huỳnh  Thuỳ  Dương,  Nguyễn  Tuấn 
Anh, Cao Minh Nga, Hứa Thị Ngọc Hà, Nguyễn Thuý Oanh, 
Quách Trọng Đức, Lê Châu Hoàng Quốc Chương, Trần Anh 

Minh  (2011).  Định  danh  các  týp  gen  của  vi  khuẩn 
Helicobacter pylori và ý nghĩa sinh bệnh học trong ung thư 
dạ  dày.  Công  trình  Khoa  học  Công  nghệ  cấp  thành  phố, 
Thành phố Hồ Chí Minh. 

17


Nghiên cứu Y học 
19.

20.

21.

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013

Trần Thiện Trung, Cao Minh Nga, Nguyễn Thuý Oanh, Hứa 
Thị Ngọc Hà, Hồ Huỳnh Thùy Dương (2011). Phân tích các 
typ gen cagA và vacA của Helicobacter pylori trong ung thư 
dạ dày. Y học TP. Hồ Chí Minh, 1: 43‐51. 
Trần  Thiện  Trung  (2008).  Bệnh  dạ  dày‐tá  tràng  và  nhiễm 
Helicobacter pylori. Nhà xuất bản Y học, Thành phố Hồ Chí 
Minh. 
Yamaoka  Y,  et  al  (1998).  Relationship  of  vacA  genotypes  of 
Helicobacter pylori to cagA status, cytotoxin production, and 
clinical outcome. Helicobacter, 3(4): 241‐253. 

22.


Zhang  YW,  et  al  (2013).  Evaluation  of  the  relationship 
between  dietary  factors,  CagA‐positive  Helicobacter  pylori 
infection, and RUNX3 promoter hypermethylation in gastric 
cancer tissue. World J Gastroenterol, 19(11): 1778‐1787. 

 

Ngày nhận bài 
 
 
Ngày phản biện nhận xét bài báo 
Ngày bài báo được đăng:   

 27/7/2013. 
 04/9/2013. 
18/10/2013 

 

 
 

18

Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học  



×