Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Phẫu thuật nội soi cắt chỏm nang gan

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (182.99 KB, 6 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 7 * Phụ bản của Số 1 * 2003

Nghiên cứu Y học

PHẪU THUẬT NỘI SOI CẮT CHỎM NANG GAN
Nguyễn Hoàng Bắc*, Vũ Trí Thanh*

TÓM TẮT
Đặt vấn đề. Nang gan là một bệnh lành tính, có nhiều cách thức điều trò, cắt chỏm nang gan cho kết
quả tốt. Phẫu thuật nội soi thích hợp để điều trò bệnh lý này.
MỤC TIÊU. đánh giá hiệu quả và những ưu điểm của phẫu thuật nội soi cắt chỏm nang gan.
PHƯƠNG PHÁP. Hồi cứu tất cả các trường hợp nang gan được phẫu thuật nội soi tại bệnh viện Đại học
Y Dược từ 1-1-1999 đến 31-12-2002. Tỷ lệ nữ/nam là 27/6. Tuổi trung bình là 60.5 (43 đến 77 tuổi).
Kết quả. Chúng tôi đã thực hiện 34 lần mổ, trong đó cắt chỏm nang gan nội soi là 31 (91.1%), bơm
Ethanol vào nang 2 trường hợp (5.8%), chuyển mổ hở 1. Nang gan ở thuỳ phải là 22 trường hợp (64.7%),
thùy trái là 8 trường hợp (23.5%), cả 2 thùy là 4 trường hợp (11.7%). Nang gan đơn độc là 28 trường hợp
(82.3%), 4 trường hợp có từ 2-4 nang (11.7%), và 2 trường hợp có rất nhiều nang có kích thước lớn nhỏ khác
nhau. Kết quả tốt là 23 trường hợp (67.6%), trung bình là 9 trường hợp (26.4%). Có 2 trường hợp tái phát.
Kết luận. Phẫu thuật cắt chỏm nang gan nội soi là một phương pháp có nhiều ưu điểm: hiệu quả, an
toàn, dễ thực hiện, tính thẩm mỹ cao, thời gian nằm viện ngắn nên có thể áp dụng phương pháp này một
cách rộng rãi đặc biệt đối với những nang gan đơn độc, nằm nông trên bề mặt.

SUMMARY
LAPAROSCOPIC HEPATIC CYST DEROOFING
Nguyen Hoang Bac, Vu Tri Thanh * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 7 * Supplement of No 1 * 2003: 29 - 34

BACKGROUND. Hepatic cyst is a benign lesion, which has many different treating modalities. Deroofing
of hepatic cyst has favorable outcome. Laparoscopic approach is
OBJECTIVES. The aim of this study is to evaluate efficacy and benefits of laparoscopic hepatic cyst
deroofing.
METHODS. From January 1999 to December 2002, 34 laparoscopic deroofing of hepatic cysts at


University Medical Center were reviewed in our retrospective study. There were 27 women and 6 men with
a mean age of 60,5 (ranging from 43-77).
RESULTS. Among 34 procedures, there were 31 laparoscopic deroofing (91,1%), 2 ethanol injection
(5,8%), and 1 conversion to open surgery. Hepatic cysts were found located in the right lobe in 22 patients
(64,7%), the left lobe in 8 patients (23,5%), and in both lobes in 4 patients (11,7%). 28 patients had a solitary
cyst (82,3%). 4 patients had 2 to 4 cysts (11,7%). 2 patients had multiple hepatic cyst with different size.
Optimal result was obtained in 23 patients (67,6%), acceptable result in 9 patients (26,4%). Recurrence
occurred in 2 patients.
CONCLUSION. Laparoscopic deroofing of hepatic cyst is a simple, safe and efficient procedure with
cosmetic benefit and a shorter hospital stay. Therefore, a broad indication to laparoscopic deroofing is
recomended especially for superficial solitary hepatic cysts.

* Bs.Ths giảng viên bộ môn ngoại trường ĐHYD TP.HCM
** Bs.Nội trú bộ môn ngoại trường ĐHYD TP.HCM

Chuyên đề Ngoại khoa

29


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 7 * Phụ bản của Số 1 * 2003
Thời gian nghiên cứu:

ĐẶT VẤN ĐỀ
Nang gan là một tổn thương gan lành tính, ít
gặp, thường không thông với đường mật, hay gặp ở
lứa tuổi 40-70, nữ nhiều hơn nam. Tavignot lần đầu
đã mô tả nang gan vào năm 1840. Bristowe đã mô
tả gan đa nang kèm thận đa nang vào năm 1856.
Năm 1918, Von Meyenburg cho rằng trong quá trình

phôi thai hình thành đường mật, xoang không bò
thoái triển đi và không thông nối với đường mật dẫn
đến sự hình thành nang gan.
17

Tại Việt Nam, năm 1968, Phạm Nhựt Hướng
đã báo cáo nhân một trường hợp gan đa nang được
phẫu thuật tại bệnh viện Bình dân. Năm 1980,
Nguyễn Dương Quang15 đã báo cáo tổng kết nang
gan được điều trò tại bệnh viện Việt Đức. Năm 1996,
Nguyễn Thành Lê16 đã báo cáo tổng kết 10 năm
phẫu thuật nang gan tại bệnh viện Chợ Rẫy.
Trước đây, có nhiều phương pháp điều trò nang
gan như chọc hút nang gan có hay không kèm với
chích chất tạo xơ vào nang gan, cắt bỏ toàn bộ nang
gan, cắt gan lấy nang, dẫn lưu nang gan vào ruột
non kiểu Roux-en-Y.
Nếu chỉ chọc hút nang gan đơn thuần, tỷ lệ tái
phát sẽ là 100%. Chọc hút kèm với chích chất tạo
xơ, tỷ lệ tái phát cũng rất cao.
Năm 1968, Lin13 đưa ra phương pháp cắt chỏm
nang. Từ đó, phẫu thuật này đã trở thành một phẫu
thuật kinh điển được áp dụng rộng rãi trong điều trò
nang gan.
Năm 1989, Mazza14 cắt chỏm nang gan qua nội
soi ổ bụng. Tại nước ta, đã có vài bệnh viện thực
hiện cắt chỏm nang gan qua nội soi, nhưng chưa
mang tính chất phổ biến.
Nghiên cứu này nhằm đánh giá hiệu quả và
những ưu điểm của phẫu thuật nội soi cắt chỏm

nang gan.

ĐỐI TƯNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU
Thiết kế nghiên cứu:
Tiền cứu và hồi cứu thể loại ứng dụng lâm sàng.

30

Nghiên cứu Y học

Từ 01/01/1999 đến 31/12/2002
Chọn mẫu:
Đối tượng nghiên cứu:
Tất cả bệnh nhân được chẩn đoán nang gan
trong thời gian nghiên cứu, tại bệnh viện Đại học Y
Dược.
Tiêu chuẩn chọn bệnh

Tất cả bệnh nhân được chẩn đoán nang
gan và được phẫu thuật.
KỸ THUẬT MỔ
Cuộc mổ được chuẩn bò như các cuộc mổ nội soi
ổ bụng thông thường.
Bệnh nhân nằm tư thế ngửa, đầu cao. Phẫu
thuật viên đứng bên trái bệnh nhân. Kính soi được
đưa qua trocar 10mm đặt ở ngay dưới rốn, 2 trocar
5mm được đặt ở 2 bên hông, cao thấp phụ thuộc vò
trí nang khi quan sát được trong mổ. Trong trường
hợp vò trí nang nằm ở vòm gan thì trocar thứ 3 đặt ở

thượng vò. Những nang gan ở mặt sau bên, hạ phân
thùy VII, VIII hay mặt dưới hoặc nang gan viêm dính
thường khó khăn hơn. Dùng dụng cụ vén gan để lật
gan, quan sát hết toàn bộ mặt trên, mặt dưới gan để
đánh giá số lượng, vò trí, kích thước nang. Những
nang gan có thể cắt chỏm qua nội soi là những
nang có vách mỏng, thành nang gần như trong
suốt, không còn nhu mô gan. Chọc thủng vách
nang một lỗ nhỏ, hút dòch nang quan sát màu sắc,
thử sinh hóa. Đặt ống hút, hút sạch dòch nang, đánh
giá lượng dòch trong nang. Có thể bơm Ethanol vào
trong nang để vài phút trước khi hút sạch để làm xơ
vách nang. Nếu nang gan có chồi phải sinh thiết tức
thì để loại trừ ung thư gan. Tiến hành cắt bỏ toàn bộ
chỏm nang gan, đường cắt cách nhu mô gan lành.
Cầm máu cẩn thận, không cần cố gắng lấy hết phần
nang gan nằm quá sâu trong nhu mô gan vì rất dễ
chảy máu và rất khó cầm. Sau khi cắt nang gan và
cầm máu, nhét mạc nối lớn vào lòng nang, khâu
đính mạc nối lớn với rìa nang gan. Chỏm nang được
đem ra ngoài qua trocar 5mm, đo diện tích vách

Chuyên đề Ngoại khoa


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 7 * Phụ bản của Số 1 * 2003

nang cắt được. Chỉ đặt dẫn lưu khi dòch nang xuất

huyết hay dòch đục.

KẾT QUẢ
Tổng số 33 bệnh nhân, một bệnh nhân được
mổ 2 lần do nang gan tái phát ở vò trí khác. Tỷ lệ
nữ/nam là 27/6. Tuổi trung bình là 60.5 (43 đến 77
tuổi). Đa số bệnh nhân nhập viện vì đau bụng ở
thượng vò hay hạ sườn phải (81.8%). Triệu chứng
thăm khám chủ yếu là gan to hay sờ thấy một khối
u bụng to (45%). Tất cả các trường hợp đều được
siêu âm chẩn đoán một hay nhiều lần trước nhập
viện. 2 trường hợp được chẩn đoán bằng CT Scan.
Có 9 trường hợp đã được chọc hút dòch nang gan
qua siêu âm từ 1 đến 5 lần nhưng nang không nhỏ
hoặc lớn hơn.Trong tất cả trường hợp Bilirubin
trong máu, TQ, TCK bình thường. 9 trường hợp
SGOP và SGOT tăng nhẹ.
Chúng tôi đã thực hiện 34 lần mổ, trong đó cắt
chỏm nang gan nội soi là 31 (91.1%); Chọc hút dòch
nang sau đó bơm Ethanol vào nang 2 trường hợp
(5.8%), 1 do nang nằm sâu trong nhu mô gan và 1
do nang nằm ở mặt sau sát vòm hoành; Chuyển mổ
hở 1 trường hợp vì bệnh nhân có bệnh tim và quá
dính do đã được mổ hở cắt tử cung trước đó.
Quan sát nang gan trong lúc mổ chúng tôi nhận
thấy sự phân bố nang gan ở thuỳ phải là 22 trường
hợp (64.7%), thùy trái là 8 trường hợp (23.5%), cả 2
thùy là 4 trường hợp (11.7%). Nang gan đơn độc là
28 trường hợp (82.3%), 4 trường hợp có từ 2-4 nang
(11.7%), và 2 trường hợp có rất nhiều nang có kích

thước lớn nhỏ khác nhau. Kích thước nang gan
trung bình là 10.7 cm (5-20 cm). Lượng dòch nang
trung bình là 800 ml (60-2500 ml). Màu sắc dòch
nang đa số trường hợp là trắng trong (67.6%).Chúng
tôi lấy dòch nang làm các xét nghiệm sinh hóa, các
trường hợp Bilirubin đều âm tính. 2 trường hợp soi
và cấy tìm sán lá gan đều âm tính. Vách nang
thường mỏng (82.3%). Kết quả giải phẫu bệnh nang
đơn thuần là 27 trường hợp (79.4%), có 2 trường
hợp là vách bọc mô xơ và 1 trường hợp là nang
giả.Thời gian mổ trung bình là 57 phút (25-150
phút). Thời gian nằm viện trung bình là 3.9 ngày (2-

Chuyên đề Ngoại khoa

8 ngày). Tất cả trường hợp không dùng kháng sinh
điều trò. Dùng kháng sinh dự phòng 31 trường hợp
(91%). Không có các biến chứng chảy máu trong lúc
mổ và sau mổ, không tổn thương đường mật và tổn
thương ruột, không biến chứng nhiễm trùng vết
mổ.
Kết quả tốt là 23 trường hợp (67.6%), trung bình
là 9 trường hợp (26.4%). Có 2 trường hợp tái phát,
trong đó 1 trường hợp mổ lần đầu nang gan lớn ở
thùy phải, lần sau tái phát ở thùy trái, cả 2 lần đều
được mổ cắt chỏm nội soi; trường hợp còn lại nang
tái phát nhưng kích thước nhỏ hơn và không có
triệu chứng gì, theo dõi siêu âm kích thước nang
không lớn hơn nên không điều trò gì thêm.


TƯ LIỆU BỆNH NHÂN
Triệu chứng cơ năng
Đau bụng Khó tiêu Đầy bụng Sờ thấy u
27
13
5
3

Mệt
3

Sốt
1

Triệu chứng thăm khám
Gan to
11

Ấn gan đau
2

U to bụng
4

Vàng da
0

Phương pháp mổ
Cắt chỏm nang nội Cắt chỏm nang mổ Chọc hút qua nội soi
soi

hở
31
1
2

Vò trí nang gan trong lúc mổ
Gan phải
22

Gan trái
8

Hai thùy
4

Phân loại nang gan
Nang gan đơn độc
28

Gan nhiều nang
4

Bệnh gan đa nang
2

Kích thước nang gan trung bình là 10.7
cm
<8 cm
8


>8 cm
26

Màu sắc dòch nang gan
Trắng trong
23

Vàng trong
5

Nâu đen
5

Thể tích dòch chứa trong nang
<500 ml
7

500-1000 1001-1500 1501-2000 >2000 ml
ml
ml
ml
7
3
1
1

31


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 7 * Phụ bản của Số 1 * 2003

Vách nang
Vách mỏng
28

Vách dầy
5

Vách có chồi
1

Vách bọc mô xơ
2

Nang giả
1

Giải phẫu bệnh
Nang gan đơn độc
27

Kết quả
Tốt
23

Trung bình
9

Tái phát
2


BÀN LUẬN
Trong 4 năm, nghiên cứu của chúng tôi tại
bệnh viện ĐH Y Dược có 33 bệnh nhân. Theo
Sanchez20, nang gan lành tính xuất hiện trong 5%
dân số, nhưng dưới 5% gây triệu chứng. Theo
Baker4, gan đa nang chiếm từ 1/1500-1/5000 và
nang gan đơn độc là 2.5%.

Nghiên cứu Y học

Quan sát nang gan trong mổ, chúng tôi nhận
thấy sự phân bố nang gan ở thuỳ phải là 22 trường
hợp (64.7%), thùy trái là 8 trường hợp (23.5%), cả 2
thùy là 4 trường hợp (11.7%).Theo y văn22, các nang
có thể phân bố ở thùy phải, trái hoặc cả 2 thùy,
nhưng thường hơn ở thùy phải.
Chúng tôi nhận thấy 28 trường hợp là nang gan
đơn độc (82.3%), 4 trường hợp có từ 2-4 nang
(11.7%), và 2 trường hợp là bệnh gan đa nang có rất
nhiều nang với kích thước lớn nhỏ khác nhau.
Theo các tác giả5, nang gan có kích thước càng
lớn càng dễ gây triệu chứng. Hầu hết nang gan
trong nghiên cứu của chúng tôi có kích thước trên 8
cm (76.5%). Kích thước nang gan trung bình là 10.7
cm (5-20 cm).
Lượng dòch nang trung bình là 800 ml (60-2500 ml).

Theo y văn, nang gan là một bệnh lành tính ít
khi gây triệu chứng. Hầu hết các trường hợp được
phát hiện tình cờ qua siêu âm hay CT Scan. Chỉ có

một số trường hợp nang gan lớn gây chèn ép các
cấu trúc lân cận gây ra các triệu chứng lâm sàng và
các biến chứng nhưng hiếm khi bệnh nặng và tử
vong1,6,7,10,11. Các triệu chứng thường gặp là đau
bụng âm ỉ vùng thượng vò hay hạ sườn phải, chán
ăn, ăn chậm tiêu. Ít gặp hơn là khó thở, đau bụng
cấp, sốt, vàng da. Rất hiếm gặp các biến chứng vỡ
nang, xoắn, ung thư hoá 25,2.

Màu sắc dòch nang đa số trường hợp là trong
(67.6%).

Chúng tôi gặp nhiều nhất là đau âm ỉ thựơng vò
và hạ sườn phải với tỷ lệ 79.4%, và gan to là 32%.

Có nhiều phương pháp điều trò nang
gan.

Tất cả các trường hợp của chúng tôi đều được
siêu âm chẩn đoán một hay nhiều lần trước mổ với
tỷ lệ chính xác tuyệt đối là 87.8% trường hợp, sai
2.9%, các trường hợp còn lại phát hiện có nang
nhưng chưa chính xác về vò trí hoặc số lượng nang.

Lai12 và Saini19 đã chứng minh: chọc hút đơn
thuần sẽ đưa đến tái phát 100%. Chúng tôi ghi
nhận có 9 trường hợp có tiền sử được chọc hút
nang đơn thuần qua siêu âm từ 1 đến 5 lần trước
mổ đều tái phát.


CT Scan có thể chẩn đoán rất chính xác nang
gan, đặc biệt hình ảnh của CT scan cho phép biết
chính xác độ dày của chỏm nang, giúp chỉ đònh mổ
và tiên lượng khả năng thành công của phẫu thuật.
Tuy nhiên giá thành khá cao nên chưa thể áp dụng
rộng rãi cho tất cả trường hợp. Chúng tôi chụp CT
Scan cho 2 trường hợp và tỷ lệ chính xác là 100%.

1956, Rosenberg18 dùng Formalin tiêm vào
nang để điều trò.

32

Theo y văn, nang gan là một tổn thương gan
lành tính, chỉ điều trò khi nang có kích thước lớn gây
triệu chứng chèn ép, hoặc có biến chứng. Trong
nghiên cứu của chúng tôi, 31 trường hợp có triệu
chứng, chủ yếu là đau hạ sườn phải và đau thượng
vò; 1 trường hợp không có triệu chứng nhưng theo
dõi trên siêu âm thấy nang lớn nhanh; 2 trường hợp
cắt nang cơ hội trên bệnh nhân bò viêm túi mật do
sỏi và u nang buồng trứng lớn.

1982, Bean và Rordan3 dùng Ethanol 900 tiêm
vào nang xuyên gan qua da dưới hướng dẫn siêu âm
1988, Sigeyasu tiêm Minocycline Hydrochloride
vào nang để điều trò.

Chuyên đề Ngoại khoa



Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 7 * Phụ bản của Số 1 * 2003

Phương pháp chích các chất gây xơ hóa cho kết
quả khá tốt tuy nhiên có thể gây hoại tử nhu mô
gan, tổn thương các mạch máu và đường mật trong
gan, nguy cơ nhiễm trùng và tỷ lệ tái phát cao.
Nghiên cứu của chúng tôi có 2 trường hợp chọc hút
và bơm Ethanol vào nang, một do nang nằm sâu
trong nhu mô gan và một do nang nằm ở mặt
hoành gan nên nội soi không thể tiếp cận, kết quả
nang nhỏ đi rõ rệt và không tái phát triệu chứng.
Có nhiều phương pháp phẫu thuật như: dẫn lưu
ngoài phúc mạc, nối nang vào đường tiêu hóa, cắt
trọn nang, cắt chỏm nang, trong đó cắt chỏm nang
được thực hiện nhiều nhất. Phương pháp này được
thực hiện lần đầu tiên bởi Lin13 năm 1968, là một
phương pháp đơn giản, bảo tồn nhu mô gan tối đa,
ít gây tổn thương đường mật và mạch máu trong
gan đồng thời kết quả không khác so với các phương
pháp phẫu thuật khác.
Gần đây, sự phát triển của phẫu thuật nội soi ổ
bụng với nhiều ưu điểm so với mổ hở như giảm đau
hậu phẫu, vận động sớm, thời gian nằm viện ngắn
và tính thẩm mỹ cao, nên nhiều tác giả các nước đã
ứng dụng kỹ thuật này để cắt chỏm nang gan.
Năm 1989, Mazza14 thực hiện cắt chỏm nang
gan qua nội soi ổ bụng, kết quả rất tốt. Từ đó, các

tác giả26,27,28,29 ở nhiều nước đã áp dụng ngày càng
rộng rãi phương pháp này. Chúng tôi thực hiện 31
trường hợp cắt chỏm nang gan nội soi, kết quả tốt là
22 (71%), trung bình 7 (22.5%), tái phát 2 (6.5%).
Hai trường hợp tái phát là gan đa nang, nang tái
phát ở vò trí khác với vò trí ở lần mổ ban đầu. Chúng
tôi nhận thấy cắt chỏm nang gan nội soi tỷ lệ tái
phát khá cao ở những bệnh nhân gan đa nang, và có
khó khăn trong trường hợp nang nằm ở mặt sau của
gan, vì đây là vùng phẫu thuật nội soi khó tiếp cận.
Những trường hợp nang gan ở mặt trước và mặt
bên, đặc biệt là nang đơn độc thì rất phù hợp với
phương pháp mổ nội soi ổ bụng.
Có hai trường hợp khi quan sát qua kính soi,
không thấy chỏm nang, phải xác đònh vò trí nang
bằng siêu âm trong mổ và chọc hút nang gan. Cả
hai trường hợp này đều không có hình ảnh CT scan
trước mổ nên không đánh giá được bề dày của vách

Chuyên đề Ngoại khoa

nang. Sau khi chọc hút cho nang xẹp, bơm Ethanol
vào trong nang làm xơ hóa. Cắt chỏm nang trong
trường hợp này chảy máu rất nhiều, khó kiểm soát.
Chúng tôi thấy CT scan là phương tiện rất cần thiết
để đánh giá chính xác độ dày của vách nang.

KẾT LUẬN
Phẫu thuật cắt chỏm nang gan nội soi là một
phương pháp có nhiều ưu điểm: hiệu quả, an toàn,

dễ thực hiện, tính thẩm mỹ cao, thời gian nằm viện
ngắn nên có thể áp dụng phương pháp này một
cách rộng rãi đặc biệt đối với những nang gan đơn
độc. Thành công của phẫu thuật phụ thuộc rất
nhiều vào sự chính xác trong chẩn đoán vò trí và độ
dày chỏm nang.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1

Akriviadis EA, Steindel H, Ralls P, et al: Spontaneous
rupture
of
nonparasitic
cyst
of
the
liver.
Gastroenterology 1989; 97:213-215.
2
Banbury J, Colon KC, Ghossein R, Brennan M:
Primary squamous cell carcinoma within a solitary
nonparasitic hepatic cyst. J. Surg. Oncol 1994; 57:210212.
3
Bean WJ, Rodan BA. Hepatic cysts: Treatment with
alcohol. Ann Surg 1985; 205:45-48.
4
Beker
Simon:
Cyst

of
the
liver.
Bockus
Gastroenterology, vol.3, Liver and biliary tract, 1995;
Chap. 125:2393-2404.
5
Benchimol D, Mouroux J,et al: Les kystes bilaires
solitaires du foie compliques. J. Chir 1991; 128:221225.
6
Benhamou JP, Menu Y: Non- parasitic cystic disease of
the liver and intrahepatic biliary tree. In: Blumgart
LH, ed. Surgery of the liver and biliary tract. 2nd ed.
New York: Churchill Livingstone Inc; 1994:1197-1210.
7
Bourgeois N, Kinnaert P, Vereerstraeten P, et al:
Infection
of
hepatic
cysts
following
kidney
transplantation in polycystic disease. World J Surg
1983; 7: 629-631.
8
Flagg Richard S, Robinson DW: Solitary nonparacitic
hepatic cysts: Report of oldest known case and review
of the literature. Arch. Surg 1967; 95:964-973.
9
Fritschy P, Robotti G, Schneekloth: Measurement of

liver volume by ultrasound and computed tomography.
J. Clin. Ultrasound 1983; 11: 299-303.
10 Gadzijev E, Dragan S, Verica FM, et al: Hepatobiliary
cystadenoma protruding into the common bileduct,
mimicking complicated hydatid cyst of the liver. Report
of a case. Hepatogastroenterology 1995;42: 1008-1010.
11. Hanazaki K, Wakabayashi M, Mori H, et al:
Hemmorrhageinto a simple cyst:diagnostic implications
of a recent case. J Gastroenterol 1997;32: 848-851.
12. Lai Edward CS, Wong J: Symtomatic nonparasitic
cysts of the liver. Word. J. Surg. 1990; 14: 452-456.

33


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 7 * Phụ bản của Số 1 * 2003
13. Lin TY, Chen CC, Wang SM: Treatment of
nonparasitic cystic disease of the liver: A new approach
to therapy with polycystic liver. Ann. Surg. 1968;168:
921-927.
14. Mazza D, Fabian P. et al: Fenestration par voie
coelioscopicque des kystes hépatiques: Résultats a
moyen term. Socíeté d’ dition de l’ Association d’
Enseignement Médical des Hôpitaux de Paris, 1995.
15. Nguyễn Dương Quang:Những nang đơn độc lớn ở gan.
Bệnh lý ngoại khoa gan mật, nhà xuất bản Y học Hà
Nội 1980.
16. Nguyễn Thành Lê: Góp phần nghiên cứu nang gan.
Luận văn tốt nghiệp bác só nội trú Ngoại tổng quát,
1996.

17. Phạm Nhật Hướng:La Maladie polykystique du foie:
Revue générale de la littérature mondiale, a propos d’
un cas. Thèse pour le doctorat en Médecine 1968.
18. Rosenberg Geoge V: Solitary nonparasitic cysts of the
liver. Am. J. Surg. 1956;91:441-444.
19. Saini S, Mueller PR, FirrucciJT Jr, Simeone JF,
Wittenberg J, Botch RJ. Percutaneos aspiration of
hepatic cysts does not provide definitive therapy. AJR
Am J Roetgenol 1983;141:559-560.
20. Sanchez H, Gagner M, Rossi RL, Jenkins RL, Lewis
WD, Munson JL, Braasch JW. Surgical management of
nonparasitic cystic liver disease. Am J Sur 1991; 161:
113-119.

34

Nghiên cứu Y học

21. Schwartz seymour I:Cyst and benign tumors. Maintgot’s
abdominal operation, 9th edition, 1990; chap. 57: 12411242.
22. Terada Tadashi, Nakanuma Y, et al: Mucinhistochemical and immunohistochemical profiles of
epithelial cells of several types of hepatic cyst.
Virchows. Archiv.Pathol. Anat 1991; 419:499-504.
23. Vauthey JN, Maddern GJ, Blumgart LH et al: Adult
polycystic disease of the liver: Review. Br J Surg 1991;
78:524-527.
24. Vauthey JN, Maddern GJ, Kolbingart LH, et al: Clinical
experience with adult polycystic liver disease. Br J
Surg 1992; 79:562-565.
25. Watson A, Sood SC: Solitary cyst of the liver prasenting

as an abdominal emergency. Postgrad. Med. Journal
1974; 50: 48-50.
26. Gigot JF, et al: The surgical management of cogenital
liver cysts. Surg Endosc(2001) 15: 357-363.
27. Khoury G, Abiad F, Geagea T, et al(2000): Laparoscopic
treatment of hydatid cyst of the liver and spleen. Surg
Endosc 14: 243-245.
28. Zacherl J, Scheuba C, Imhof M et al (2000):Long-term
results after laparoscopic unroofing of solitary
symptomatic congenital liver cysts. Sur Endosc 14:5962.
29. Arie Regev, K Rajender Reddy et al: Large Cystic
lesions of the liver in adults: A 15- year expirience in a
tertiary Center. J Am Coll Surg. Vol. 193, No. 1, July
2001.p. 36-45.

Chuyên đề Ngoại khoa



×