Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Biến chứng sớm của phẫu thuật nội soi cắt nang ống mật chủ ở người lớn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (326.67 KB, 5 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013

Nghiên cứu Y học

BIẾN CHỨNG SỚM CỦA PHẪU THUẬT NỘI SOI  
CẮT NANG ỐNG MẬT CHỦ Ở NGƯỜI LỚN 
Đỗ Minh Hùng* 

TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Phẫu thuật nội soi cắt nang ống mật chủ ở bệnh nhân lớn tuổi vẫn là một thách thức về mặt kỹ 
thuật và còn mới mẻ nhất là ở Việt Nam, chưa có nhiều nghiên cứu báo cáo về vấn đề này. Trong nghiên cứu này 
chúng tôi báo cáo tỉ lệ biến chứng sớm của phẫu thuật nội soi cắt nang đường mật qua 39 trường hợp từ kinh 
nghiệm của 1 phẫu thuật viên duy nhất.  
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Từ tháng 7‐2009 đến tháng 4‐2013, chúng tôi đã thực hiện phẫu 
thuật nội soi cắt nang ống mật chủ cho 39 bệnh nhân lớn tuổi. Chúng tôi ghi nhận các tai biến xảy ra trong lúc 
phẫu thuật và những biến chứng sớm xảy ra sau mổ.  
Kết quả: Có 3 trường hợp tai biến xảy ra trong mổ chiếm tỉ lệ 7,7%, không có trường hợp nào cần truyền 
máu trong mổ và chuyển mổ mở. Có 6/39 trường hợp có biến chứng sớm chiếm 15,4%. Trong đó có 1 trường 
hợp dò mật, 2 trường hợp tụ dịch do dò mật, 1 trường hợp tụ dịch ổ bụng, 1 trường hợp chảy máu miệng nối ống 
gan‐hỗng tràng, 1 trường hợp viêm tụy cấp. 
Kết luận: Phẫu thuật nội soi cắt nang ống mật chủ có thể thực hiện được và an toàn hơn với kinh nghiệm 
được tích lũy.  
Từ khóa: Biến chứng sớm, phẫu thuật nội soi, nang ống mật chủ. 

ABSTRACT 
EARLY COMPLICATIONS AFTER LAPAROSCOPIC CHOLEDOCHAL CYST EXCISION IN ADULTS 
Do Minh Hung * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ No 6 ‐ 2013: 311 ‐ 315 
Background:  Laparoscopic  excision  of  choledochal  cysts  in  adults  is  technically  challenging.  In  Vietnam, 
there have been few reports on the laparoscopic treatment of choledochal cyst. We present early complications of 
laparoscopic adult choledochal cyst excision from an only surgeon’s experience. 
Materials and methods: From July 2009 to April 2013, we performed laparoscopic resection choledochal 


cyst for 39 adult patients. Data about complications intraoperation and early postoperation were analyzed. 
Results: There were 3 intraoperative complications (7,7%). There was no open conversion. The overall early 
morbidity rate was 15,4% with one bile leakage, two fluid collection caused bile leakage, one fluid collection in the 
lesser sac, one bloody bowel, and one pancreatitis.  
Conclusion: With accumulated experience, laparoscopic resection of choledochal cyst in adult is feasible and 
safe.  
Key words: Early complication, laparoscopic excision, choledochal cyst. 
gặp  ở  trẻ  dưới  10  tuổi.  Tuy  nhiên,  một  khi 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
được  chẩn  đoán  nang  phải  được  cắt  đi  cùng 
Nang  ống  mật  chủ  là  1  bệnh  lý  lành  tính 
với 
túi  mật,  tái  tạo  ống  gan‐ruột  vì  nguy  cơ 
hiếm  gặp  của  đường  mật.  Căn  nguyên  của 
diễn  tiến  thành  ung  thư  đường  mật  chính  và 
bệnh  chưa  rõ  nhưng  nang  đường  mật  được 
túi  mật.  Xử  trí  kinh  điển  nang  đường  mật  là 
xem  là  bẩm  sinh  vì  trên  75%  các  trường  hợp 
* Khoa ngoại tổng quát bệnh viện Bình Dân, TP.HCM 
Tác giả liên lạc: ThS.BS. Đỗ Minh Hùng 
 ĐT: 0903857495 

 Email:  

Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013

311


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013


Nghiên cứu Y học 

phẫu  thuật  mở.  Những  tiến  bộ  về  kỹ  thuật, 
thời  điểm  can  thiệp  phẫu  thuật  giúp  tỉ  lệ  tử 
vong do phẫu thuật gần như bằng không, tỉ lệ 
biến chứng sớm và muộn sau phẫu thuật cũng 
giảm  đi  đáng  kể.  Với  những  tiến  bộ  cả  về  kỹ 
thuật và dụng cụ, các phẫu thuật viên đã thực 
hiện  các  phẫu  thuật  nội  soi  có  mức  độ  phức 
tạp  cao  mà  vẫn  đảm  bảo  kết  quả  với  ít  chấn 
thương  hơn  và  mau  hồi  phục  hơn.  Nhiều  tác 
giả  đã  báo  cáo  kinh  nghiệm  phẫu  thuật  cắt 
nang đường mật bằng phẫu thuật nội soi. Tuy 
nhiên, phẫu thuật nội soi cắt nang ống mật chủ 
ở bệnh nhân lớn tuổi vẫn là một thách thức về 
mặt  kỹ  thuật  và  còn  mới  mẻ  nhất  là  ở  Việt 
Nam,  chưa  có  nhiều  nghiên  cứu  báo  cáo  về 
vấn  đề  này.  Trong  nghiên  cứu  này  chúng  tôi 
báo  cáo  tỉ  lệ  biến  chứng  sớm  của  phẫu  thuật 
nội soi cắt nang đường mật qua 39 trường hợp 
từ  kinh  nghiệm  của  1  phẫu  thuật  viên  
duy nhất. 

ĐỐI TƯỢNG‐PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đây  là  một  nghiên  tiền  cứu  mô  tả  loạt  ca, 
theo đó, đối tượng là những bệnh nhân có nang 
ống mật chủ từ 16 tuổi trở lên được phẫu thuật 
tại bệnh viện Bình Dân thành phố Hồ Chí Minh. 
Thời điểm nghiên cứu từ 7 – 2009 đến 4 – 2013, 

39 trường hợp bệnh đã được chúng tôi thực hiện 
phẫu thuật nội cắt nang ống mật chủ thành một 
khối, nối ống gan‐hỗng tràng Roux‐en‐Y.  
Bệnh nhân nằm ngửa, đầu cao, nghiêng trái, 
dạng 2 chân. Phẫu thuật viên bên trái bệnh nhân. 
Chúng  tôi  sử  dụng  4  trocars.  1  trocar  10‐mm  ở 
rốn  cho  camera,  1  trocar  10‐mm  ở  thượng  vị,  2 
trocars  5‐mm  ở  hạ  sườn  phải.  Bệnh  nhân  được 
tiến  hành  phẫu  tích  cắt  trọn  nang  và  túi  mật 
thành  một  khối,  nối  ống  gan‐hỗng  tràng  theo 
kiểu  Roux‐en‐Y  hoàn  toàn  bằng  nội  soi  với  thì 
nối  chân  hỗng‐hỗng  tràng  được  làm  ngoài  ổ 
bụng qua ngả trocar rốn được mở rộng. 
Chúng tôi thu thập các biến số về tình trạng 
viêm  nhiễm  quanh  nang  trong  lúc  mổ,  tai  biến 
trong  phẫu  thuật,  tình  trạng  dẫn  lưu  bụng  sau 
mổ,  các  chỉ  số  amylase,  nuôi  ăn  qua  đường 
miệng, thời gian nằm viện.  

312

KẾT QUẢ 
Chúng tôi phẫu thuật cắt nang qua ngả nội 
soi  ổ  bụng  cho  39  trường  hợp  với  37  trường 
hợp là nữ, tuổi trung bình 31,1 ± 9,6 tuổi (16 – 
56 tuổi).  
Có 3 trường hợp tai biến trong mổ chiếm tỉ lệ 
7,7%.  Có  2  trường  hợp  làm  đứt  đoạn  cuối  ống 
mật  trong  nhu  mô  tụy,  1  trường hợp  được  kẹp 
lại,  1  trường  hợp  không.  Một  trường  hợp  cắt 

ngang 2 ống gan được nối lại vách 2 ống gan và 
nối với hỗng tràng. 
Bảng 1: Tai biến trong mổ 
Đứt đầu dưới
Cắt ngang 2 ống gan

Số trường hợp
2
1

Tỉ lệ %
5,1
2,6

Có  6/39  trường  hợp  có  biến  chứng  sớm 
chiếm 15,4%. Trong đó có 1 trường hợp dò mật, 
2 trường hợp tụ dịch do dò mật, 1 trường hợp tụ 
dịch ổ bụng, 1 trường hợp chảy máu miệng nối 
ống gan‐hỗng tràng, 1 trường hợp viêm tụy cấp.  
Nuôi ăn qua miệng bắt đầu từ 1‐4 ngày sau 
phẫu thuật.  
Thời gian phẫu thuật trung bình 257,2 ± 50,1 
phút (175‐360 phút).  
Không  có  trường  hợp  nào  phải  truyền 
máu,  tai  biến,  biến  chứng  phải  chuyển  mổ  hở 
hoặc mổ lại. 
Bảng 2: Biến chứng sớm sau mổ 
Dò mật
Tụ dịch do dò mật
Tụ dịch ổ bụng

Chảy máu tiêu hóa
Viêm tụy cấp

Số trường hợp
1
2
1
1
1

Tỉ lệ %
2,6
5,1
2,6
2,6
2,6

Bảng 3: Chỉ số amylase sau mổ 
Amylase máu
Amylase nước tiểu

Trung bình
89,1 ± 47,2
522,8 ± 696,3

Khoảng
27 – 226
63 - 4216

Thời  gian  hậu  phẫu  trung  bình  là  6,8  ±  2,7 

ngày (từ 4 – 17 ngày). 
Thời gian theo dõi trung bình 25 ± 13,5 tháng 
(1 ‐ 46 tháng). 
100%  các  trường  hợp  đều  phẫu  thuật  qua 
ngã nội soi ổ bụng với một ê kíp phẫu thuật có 

Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013
một phẫu thuật viên chính duy nhất. 

BÀN LUẬN 
Với những tiến bộ về kỹ thuật, thời điểm can 
thiệp phẫu thuật thì tỉ lệ tử vong do phẫu thuật 
gần  như  bằng  không.  Tỉ  lệ  biến  chứng  sớm  và 
muộn  sau  phẫu  thuật  cũng  giảm  đi  đáng  kể. 
Những biến chứng sớm sau phẫu thuật cắt nang 
nối ống gan‐đường tiêu hóa có thể gặp như chảy 
máu,  nhiễm  trùng  vết  mổ,  dò  miệng  nối  mật‐
ruột, dò tụy, tắc ruột, tụ dịch hoặc áp xe ổ bụng. 
Theo  Diao(3),  tỉ  lệ  biến  chứng  trong  nhóm  phẫu 
thuật  nội  soi  thấp  đáng  kể  so  với  nhóm  phẫu 
thuật hở. Theo Nawara(7), tỉ lệ biến chứng sớm là 
19‐50% mà chủ yếu ở bệnh nhân lớn tuổi chiếm 
41%  so  với  6%  ở  bệnh  nhân  nhỏ  tuổi,  bao  gồm 
viêm  đường  mật  5‐10%,  áp  xe  trong  ổ  bụng  7‐
9%,  dò  mật  7‐9%,  nhiễm  trùng  vết  mổ  4‐9%, 
viêm tụy 2‐6%. Tỉ lệ biến chứng sớm toàn bộ là 
5,3%,  theo  She(10).  Nguyễn  Cao  Cương(8)  nghiên 

cứu phẫu thuật hở cho 147 bệnh nhân trong 10 
năm với tỉ lệ biến chứng sớm sau phẫu thuật là 
18,37%.  Trong  nghiên  cứu  của  chúng  tôi  tỉ  lệ 
biến chứng sớm là 15,6%. 
Một  trường  hợp  trong  nghiên  cứu  của  Jang 
J.Y   bị  đứt  đoạn  cuối  ống  mật  chủ  vì  lôi  kéo 
nang lên phía trên quá mức, cho nên thao tác cần 
hết sức cẩn trọng. Chúng tôi có 2 trường bị đứt 
đầu  dưới  ống  mật  chủ,  1  trường  hợp  được  tìm 
thấy  và  kẹp  lại,  1  trường  hợp  không  xử  trí  gì 
thêm.  Cả  hai  trường  hợp  này  do  cố  gắng  phẫu 
tích đến đoạn cuối nhỏ nhất và lực kéo căng nên 
gây  đứt.  tuy  nhiên,  cả  hai  trường  hợp  này  đều 
không  có  viêm tụy sau mổ.  Trường  hợp  không 
xử  trí  gì  thêm  chúng  tôi  chỉ  theo  dõi  sát,  trước 
mổ có viêm gan với men gan tăng cao, bilirubin 
tăng, có thể đoạn cuối ống mật chủ hẹp hẳn.  
(2)

Chúng tôi có một trường hợp cắt ngang hai 
ống  gan  do  nhận  định  sai  lầm  trong  lúc  phẫu 
thuật. Đây là trường hợp 2 ống gan hợp lưu thấp 
ở ngoài gan. Trường hợp này chúng tôi nối hai 
vách của ống gan lại với nhau và nối vào cùng 
một  lỗ  miệng  nối  với  hỗng  tràng,  hậu  phẫu  ổn 
định không có biến chứng gì xảy ra, bệnh nhân 
được xuất viện vào ngày hậu phẫu thứ 8. Theo 

Nghiên cứu Y học
Tanaka(12) tỉ lệ chuyển mổ hở là 37%, biến chứng 

chung  là  20%  cho  thấy  phẫu  thuật  nội  soi  cắt 
nang đường  mật  ở  người  trưởng  thành  rất  khó 
khăn. Tuy nhiên, các báo cáo càng về sau này tỉ 
lệ chuyển mổ hở giảm rõ rệt. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi có 1 trường 
hợp tụ dịch ổ bụng với ống dẫn lưu ra dịch đỏ 
sậm, siêu âm ở ngày hậu phẫu thứ 4 phát hiện tụ 
dịch hậu cung mạc nối, bệnh nhân được điều trị 
nội khoa bảo tồn bằng kháng sinh đến ngày hậu 
phẫu  thứ  12  siêu  âm  không  dịch  ổ  bụng,  bệnh 
nhân được rút dẫn lưu và cho xuất viện. Tụ dịch 
dưới gan có thể gặp do hút không kỹ sau phẫu 
thuật, do dẫn lưu không hiệu quả và biến chứng 
này  thường  được  giải  quyết  bằng  điều  trị  nội 
khoa. Trong báo cáo của Liem(6) có 2 trường hợp 
(1,5%) dịch dưới gan trong nhóm nối ống gan‐tá 
tràng  được  điều  trị  bằng  chọc  hút  dưới  hướng 
dẫn  của  siêu  âm.  Woon(17)  báo  cáo  tỉ  lệ  áp  xe 
trong  ổ  bụng  là  9%  ở  những  bệnh  nhân  được 
phẫu thuật hở điều trị nang ống mật chủ. 
Dò  miệng  nối  mật  ruột  là  do  sự  xơ  hóa  và 
viêm  nhiễm  mạn  tính  của  thành  đường  mật  ở 
thời điểm phẫu thuật nên miệng nối mủn, lành 
sẹo  kém  gây  dò  và  hẹp  miệng  nối.  Đường  mật 
viêm nhiễm mạn tính, xơ hóa càng tăng lên theo 
tuổi  nên  biến  chứng  càng  dễ  gặp  hơn  ở  bệnh 
nhân  lớn,  và  phẫu  thuật  nên  được  thực  hiện 
càng  sớm  càng  tốt(11).  Biến  chứng  này  thường 
đáp ứng với điều trị nội khoa hay chọc hút trong 
trường hợp dò mật nhẹ(15). Trong trường hợp dò 

mật  nhiều  mà  dẫn  lưu  không  hiệu  quả  có  thể 
gây viêm phúc mạc, áp xe thì cần phải can thiệp 
ngoại khoa. Tỉ lệ dò miệng nối thay đổi từ 0‐20% 
trong  một  nghiên  cứu,  và  theo  Tian,  tỉ  lệ  dò 
miệng  nối  tự  giới  hạn  là  12,1%(14),  theo Cho(1)  là 
2,5%.  Trong  một  báo  cáo  của  Woon,  tỉ  lệ  dò 
miệng  nối  phải  mổ  lại  là  3%(17).  Trong  báo  cáo 
của  Diao(3)  so  sánh  giữa  phẫu  thuật  nội  soi  với 
phẫu thuật mở,  tỉ  lệ dò mật  lần  lượt  là 0,9% so 
với  5,5%.  Trong  báo  cáo  của  Shah(9),  tỉ  lệ  biến 
chứng này ở nhóm trẻ em là 3,1% và ở người lớn 
là 6,3%. Tang(13) báo cáo 1 trường hợp dò mật ở 
ngày  hậu  phẫu  thứ  6  và  đáp  ứng  điều  trị  nội 

Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013

313


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013

Nghiên cứu Y học 
khoa sau 38 ngày trong số 62 trường hợp được 
phẫu  thuật  nội  soi.  Liêm(6),  trong  số  190  trường 
hợp được phẫu thuật nội soi, có 7 trường hợp dò 
mật  (3,6%) trong  đó  5  trường hợp  từ  nhóm  nối 
ống  gan‐tá  tràng  nội  soi,  2  trường  hợp  trong 
nhóm  nối  ống  gan‐hỗng  tràng.  Nguyễn  Cao 
Cương  có  6/147  trường  hợp  dò  mật,  3  trường 
hợp phải phẫu thuật lại(8). Trong nghiên cứu của 

chúng tôi có 2 trường hợp tụ dịch khu trú do dò 
miệng  nối.  Một  trường  hợp  phát  hiện  tụ  dịch 
dưới  gan  ở  ngày  hậu  phẫu  thứ  7.  Trường  hợp 
này  ở  ngày  hậu  phậu  1  dẫn  lưu  ra  mật  vàng 
300ml, ngày hậu phẫu 2 ra 100ml, hậu phẫu 3 ra 
50ml, đến ngày hậu phẫu thứ 4 siêu âm kiểm tra 
không còn dịch ổ bụng, bệnh nhân được rút dẫn 
lưu  ở  ngày  hậu  phẫu  thứ  5  và  xuất  viện.  Hai 
ngày sau khi xuất viện bệnh nhân bị đau bụng, 
sốt được phát hiện có tụ dịch dưới gan phải và 
được  chọc  hút  dưới  hướng  dẫn  của  siêu  âm, 
điều trị kháng sinh đáp ứng tốt. Một bệnh nhân 
được rút dẫn lưu ổ bụng ở ngày hậu phẫu thứ 4 
với siêu âm kiểm tra chỉ còn ít dịch ở giường túi 
mật.  Tuy  nhiên,  đến  ngày  hậu  phẫu  thứ  7  thì 
bệnh nhân sốt, đau thượng vị, siêu âm có khối tụ 
dịch to dưới gan trái được chọc hút dưới hướng 
dẫn  của  siêu  âm  ra  200ml  mật  vàng  nhưng  tụ 
dịch vẫn tái lập nên phải chọc hút dẫn lưu vào 
ngày  hậu  phẫu  thứ  9.  Trường  hợp  này  bệnh 
nhân được điều trị nội khoa bằng kháng sinh và 
xuất viện ở ngày hậu phẫu thứ 17. Cả hai trường 
hợp tụ dịch này thực ra là do dò miệng nối ống 
gan‐hỗng  tràng  với  cung  lượng  thấp,  dẫn  lưu 
được rút sớm nên dò được khu trú lại và xử trí 
kịp thời. Chúng tôi có một trường hợp dò miệng 
mối mật ruột biểu hiện bằng dẫn lưu dưới gan ra 
mật vàng với cung lượng thấp trên 7 ngày. Bệnh 
nhân  được  điều  trị  nội  khoa,  rút  dẫn  lưu  vào 
ngày  hậu  phẫu  thứ  10  và  được  xuất  viện  vào 

ngày hậu phẫu thứ 14.  
Dẫn lưu dưới gan là thường qui cho những 
trường hợp cắt nang ống mật chủ nối ống gan‐
hỗng  tràng.  Dẫn  lưu  nhằm  thoát  dịch  còn 
đọng lại, dẫn lưu dịch tiết do bóc tách, dẫn lưu 
dịch mật trong những trường hợp dò mật nhẹ 

314

và  để  báo  hiệu  trong  những  trường  hợp  chảy 
máu.  Chúng  ta  phải  luôn  đề  phòng  dò  mật  ở 
miệng nối vì kiểm soát độ kín ở mũi khâu liên 
tục  trong  phẫu  thuật  nội  soi  thì  hơi  khó(4). 
Chúng  tôi,  theo  kinh  nghiệm  của  Le(5),  chỉ  cắt 
ngang đầu trên nang khi miệng nối hỗng‐hỗng 
tràng đã được làm xong, ruột được đưa vào ổ 
bụng và chân nối đã được đưa lên gần rốn gan 
vì thế lượng mật tụ dưới gan rất ít, sau khi lau 
rửa lượng dịch ra dẫn lưu rất ít. Trong nghiên 
cứu  của  Chowbey(2)  ống  dẫn  lưu  dưới  gan 
được rút sau mổ 5‐27 ngày, khi dịch là dịch tiết 
và ít hơn 50ml. Rõ ràng hai trường hợp tụ dịch 
khu  trú  do  dò  miệng  nối  là  do  chúng  tôi  hơi 
chủ quan khi rút dẫn lưu khá sớm. 
Chảy  máu  tiêu  hóa  có  thể  xảy  ra  do  loét, 
hoặc từ miệng nối hỗng‐hỗng tràng ở bệnh nhân 
được  nối  ống  gan‐hỗng  tràng  Roux‐en‐Y. 
Thường  biến  chứng  này  được  điều  trị  thành 
công  với  các  thuốc  ức  chế  bơm  proton,  H2. 
Truyền  máu  khi  chảy  máu  nhiều.  Tỉ  lệ  biến 

chứng này trong nhóm phẫu thuật nội soi 0,9% 
so với 2,5% trong nhóm phẫu thuật mở(3). Chúng 
tôi có một trường hợp chảy máu miệng nối mà 
phải truyền máu, điều trị nội khoa và được xuất 
viện  ở  ngày  hậu  phẫu  thứ  11.  Trường  hợp  này 
bệnh  nhân  có  nang  ống  mật  chủ  khổng  lồ  với 
kích  thước  150x110mm,  đường  kính  ống  gan 
chung 60mm, bệnh nhân phát hiện bệnh trên 10 
năm,  vào  viện  với  tình  trạng  vàng  da  tắc  mật 
nặng, gan ứ mật. Siêu âm khi có tình trạng mất 
máu  nghi  ngờ  khối  phản  âm  ở  miệng  nối  ống 
gan‐hỗng  tràng  là  máu  cục,  có  thể  trường  hợp 
này do tình trạng viêm nhiễm quá lâu, chúng tôi 
cầm máu không kỹ khi cắt ngang qua ống gan, 
khi  khâu  miệng  nối  bằng  mũi  liên  tục  cũng 
không đủ lực căng để cầm máu.  
Biến  chứng  viêm  tụy  cấp  và  dò  tụy  xảy  ra 
khi phẫu tích làm tổn thương ống tụy hoặc mô 
tụy  khi  phẫu  tích  đoạn  cuối  ống  mật  chủ  nằm 
trong  nhu  mô  tụy(15).  Để  tránh  biến  chứng  này 
cần phẫu tích cẩn thận, tránh chảy máu làm mờ 
phẫu  trường,  có  thể  chỉ  cần  phẫu  tích  đến  chỗ 
hẹp  lại  bình  thường,  nhỏ  nhất  ở  đoạn  cuối  ống 

Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013
mật chủ là được chứ không cần tìm kênh chung 
mật tụy(2,16). Điều trị bao gồm giảm áp qua thông 

dạ  dày  liên  tục,  nuôi  ăn  qua  đường  tĩnh  mạch. 
Trường  hợp  nặng  có  thể  sử  dụng  giảm  tiết, 
kháng sinh, ...Trong nghiên cứu của chúng tôi có 
1 trường hợp viêm tụy cấp xảy ra sau mổ với chỉ 
số amylase máu là 226 U/L, amylase niệu là 4218 
U/L.  Trường  hợp  này  bệnh  nhân  có  kèm  theo 
cơn nhịp nhanh kích phát trên thất được điều trị 
sốc điện làm giảm cơn nhịp nhanh, điều trị giảm 
tiết  và  kháng  sinh  cho  viêm  tụy  cấp  và  bệnh 
nhân được xuất viện vào ngày hậu phẫu thứ 8. 
Bệnh nhân được nuôi ăn qua miệng sớm bắt 
đầu  từ  1‐4  ngày  sau  phẫu  thuật,  với  thời  gian 
hậu phẫu trung bình là 6,8 ± 2,7 ngày (từ 4 – 17 
ngày).  Không  có  trường  hợp  nào  phải  truyền 
máu,  tai  biến,  biến  chứng  phải  chuyển  mổ  hở 
hoặc mổ lại. 

Nghiên cứu Y học

5.

6.

7.

8.

9.

10.


11.
12.

KẾT LUẬN 
Phẫu thuật nội soi cắt nang đường mật ngoài 
gan tuy còn nhiều thách thức nhưng có thể thực 
hiện được và an toàn với một ê kíp phẫu thuật 
nội  soi  có  nhiều  kinh  nghiệm  mà  không  cần 
dụng cụ đặc biệt nào. Phẫu thuật nên được thực 
hiện  ở  các  trung  tâm  phẫu  thuật  lớn  có  nhiều 
kinh nghiệm về phẫu thuật đường mật qua ngả 
mổ mở cũng như nội soi.  

TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.

2.

3.

4.

Cho MJ, Hwang S, Lee YJ, Kim KH, Ahn CS, Moon DB, Lee 
SK,  Kim  MH,  Lee  SS,  Park  DH,  Lee  SG  (2011).  Surgical 
Experience of 204 Cases of Adult Choledochal Cyst Disease over 14 
Years. World J Surg, 35 (5):1094‐1102. 
Chowbey PK, Soni V, Sharma A, Khullar R, Baijal M (2005). 
Laparoscopic  Hepaticojejunostomy  for  Biliary  Strictures.  Surg 
Endosc, 19:273‐279. 

Diao M, Li L, Cheng W (2011). Laparoscopic Versus Open Roux‐
En‐Y  Hepatojejunostomy  for  Children  with  Choledochal  Cysts: 
Intermediate‐Term  Follow‐up  Results.  Surg  Endosc,  25  (5):1567‐
1573. 
Kim JH, Choi TY, Han JH, Yoo BM, Hong J, Kim MW, Kim 
WH  (2008).  Risk  Factors  of  Postoperative  Anastomotic  Stricture 
 

13.

14.

15.

16.

17.

after  Excision  of  Choledochal  Cysts  with  Hepaticojejunostomy.  J 
Gastrointest Surg, 12 (5):822‐828. 
Le  DM,  Woo  RK,  Sylvester  K,  Krummel  TM,  Albanese  CT 
(2005).  Laparoscopic  Resection  of  Type  1  Choledochal  Cysts  in 
Pediatric Patients. Surgical Endoscopy, 20 (2):249‐251. 
Liem Nguyen Thanh, Hien P. D, Dung le A, Son T. N (2010). 
Laparoscopic  Repair  for  Choledochal  Cyst:  Lessons  Learned  from 
190 Cases. J Pediatr Surg, 45 (3):540‐544. 
Nawara  C,  Wolkersdörfer  G,  Öfner‐Velano  D,  et  al  (2011). 
Recent Developments in the Diagnosis and Treatment of Bile Duct 
Cysts: A Review. European Surgery, 43 (5):249‐254. 
Nguyễn  Cao  Cương  (2005).  Chẩn  Đoán  Và  Kết  Quả  Phẫu 

Thuật Cắt Nang Đường Mật Ở Người Lớn. Đại Học Y Dược 
TP Hồ Chí Minh. Luận Án Tiến Sĩ 
Shah  OJ,  Shera  AH,  Zargar  SA,  Shah  P,  Robbani  I,  Dhar  S, 
Khan AB (2009). Choledochal Cysts in Children and Adults with 
Contrasting Profiles: 11‐Year Experience at a Tertiary Care Center 
in Kashmir. World J Surg, 33 (11):2403‐2411. 
She  WH,  Chung  HY,  Lan  LC,  Wong  KK,  Saing  H,  Tam  PK 
(2009).  Management  of  Choledochal  Cyst:  30  Years  of  Experience 
and Results in a Single Center. J Pediatr Surg, 44 (12):2307‐2311. 
Singham  J,  Yoshida  EM,  Scudamore  CH  (2010).  Choledochal 
Cysts.Part3.Management. Can J Surg, 53 (1):51‐56. 
Tanaka M, Shimizu S, Mizumoto K, Yokohata K, Chijiiwa K, 
Yamaguchi  K,  Ogawa  Y  (2001).  Laparoscopically  Assisted 
Resection  of  Choledochal  Cyst  and  Roux‐En‐Y  Reconstruction. 
Surg Endosc, 15 (6):545‐552. 
Tang ST, Yang Y, Wang Y, Mao YZ, Li SW, Tong QS, Cao GQ, 
Zhao  ZX  (2011).  Laparoscopic  Choledochal  Cyst  Excision, 
Hepaticojejunostomy, and Extracorporeal Roux‐En‐Y Anastomosis: 
A Technical Skill and Intermediate‐Term Report in 62 Cases. Surg 
Endosc, 25 (2):416‐422. 
Tian Y, Wu SD, Zhu AD, Chen DX (2010). Management of Type 
I  Choledochal  Cyst  in  Adult:  Totally  Laparoscopic  Resection  and 
Roux‐En‐Y  Hepaticoenterostomy.  J  Gastrointest  Surg,  14 
(9):1381‐1388. 
Todani T (1997). Congenital Choledochal Dilatation Classification, 
Clinical Features, and Long‐Term Results. J Hep Bil Pancr Surg, 
4:276‐282. 
Ure  BM,  Schier  F,  Schmidt  AI,  Nustede  R,  Petersen  C,  Jesch 
NK (2005). Laparoscopic Resection of Congenital Choledochal Cyst, 
Choledochojejunostomy,  and  Extraabdominal  Roux‐En‐Y 

Anastomosis. Surg Endosc, 19 (8):1055‐1057. 
Woon  CY,  Tan  YM,  Oei  CL,  Chung  AY,  Chow  PK,  Ooi  LL 
(2006).  Adult  Choledochal  Cysts:  An  Audit  of  Surgical 
Management. ANZ J Surg, 76 (11):981‐986. 

 

Ngày nhận bài báo 

 

 

: 25/07/2013 

Ngày phản biện nhận xét bài báo 

: 30/07/2013 

Ngày bài báo được đăng 

: 15/12/2013 

 

Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013

315




×