Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Sử dụng bảng câu hỏi SF-36 trong đánh giá chất lượng cuộc sống của bệnh nhân suy thận mạn giai đoạn cuối trước và sau chạy thận nhân tạo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (310.45 KB, 7 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

SỬ DỤNG BẢNG CÂU HỎI SF-36 TRONG ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG
CUỘC SỐNG CỦA BỆNH NHÂN SUY THẬN MẠN GIAI ĐOẠN CUỐI
TRƯỚC VÀ SAU CHẠY THẬN NHÂN TẠO
Lâm Nguyễn Nhã Trúc*, Trần Thị Bích Hương**

TÓM TẮT
Đặt vấn đề và mục tiêu: Nghiên cứu sử dụng bảng câu hỏi SF-36 trong đánh giá chất lượng cuộc sống
của bệnh nhân suy thận mạn giai đoạn cuối trước và sau chạy thận nhân tạo trong thời gian nằm viện.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiến cứu, mô tả cắt ngang, có so sánh 107 bệnh nhân suy thận mạn
giai đoạn cuối ở hai thời điểm trước khi khởi đầu và sau một thời gian chạy thận nhân tạo (CTNT) tại khoa Thận
bệnh viện Chợ Rẫy.
Kết quả: Chất lượng cuộc sống qua bảng câu hỏi SF-36 trước chạy thận nhân tạo của bệnh nhân suy thận
mạn giai đoạn cuối là 12,1 điểm so với 100 điểm tối đa, trong đó sức khỏe về thể chất chỉ còn 4 điểm và sức khỏe
tinh thần còn 18,5 điểm. Sau thời gian chạy thận nhân tạo trung bình 2 tuần, chất lượng cuộc sống của bệnh
nhân tăng có ý nghĩa thống kê so với trước chạy thận nhân tạo với điểm SF-36 đạt 41,3 [32,8 - 48,25] điểm và
sức khỏe thể chất, sức khỏe tinh thần lần lượt đạt 35,8 [24,2 - 46] điểm và 43,9 [34,5 - 57] điểm, song hành với sự
cải thiện về các chỉ số sinh hóa. Điểm sức khỏe thể chất tăng gấp 9 lần và điểm sức khỏe tinh thần tăng gấp 2,4
lần. Tỷ lệ cải thiện sức khỏe thể chất có liên quan đến các nhóm tuổi, liên quan đến bệnh lý đi kèm.
Kết luận: Điểm SF-36 sau CTNT 2 tuần cải thiện so với trước CTNT chủ yếu là cải thiện sức khỏe thể chất.
Điểm sức khỏe thể chất cải thiện tương quan với tuổi, bệnh đi kèm, mức độ cải thiện BUN, creatinine.
Từ khóa: SF-36, chất lượng cuộc sống, sức khỏe thể chất, sức khỏe tinh thần, suy thận mạn giai đoạn cuối,
trước chạy thận nhân tạo, sau chạy thận nhân tạo.

ABSTRACT
USING SF-36 QUESTIONAIRE TO EVALUATE THE QUALITY OF LIFE OF THE PRE AND POST
DIALYSIS END STAGE RENAL DISEASE.
Lam Nguyen Nha Truc, Tran Thi Bich Huong


* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 3 - 2012: 334 - 341
Background: Quality of life (QOL) is considered to be an important outcome measure for patients with end
stage renal disease. We investigated how QOL progresses over time in hemodialysis patients and what factors are
associated with this evolution.
Objectives: Using SF-36 questionaire to evaluate the quality of life of the pre and post dialysis end stage
renal disease.
Methods: A Prospective and cross-sectional study compared the quality of life of the pre and post dialysis of
107 end stage renal disease patients at the Nephrology Department of Cho Ray Hospital in 2010.
Results: The SF-36 score of predialysis end stage renal disease was only 12.1/100. The physical health score
and mental health score were very low, only 4/100 and 18.5/100, respectively. QOL of postdialysis patients has
* Khoa Nội Thận BV Chợ Rẫy.
** Bộ Môn Nội ĐH Y Dược TPHCM, Khoa Nội Thận BV Chợ Rẫy.
Tác giả liên lạc: BS Lâm Nguyễn Nhã Trúc
ĐT: 0908241565
Email:

Chuyên Đề Thận Niệu

335


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

improved after 2 weeks dialysis. The SF-36 score, physical health score and mental health score increased greatly
41.3 [32.8 - 48.25]; 35.8 [24.2 - 46] and 43.9 [34.5 - 57]. The physical health score increased 9 times and the
mental health 2.4 times. The increasing of physical health score corralated with ages, coordinate diseases and the
decreasing of BUN, creatinine after dialysis.
Conclusions: SF-36 score of postdialysis patients improved after 2 weeks of dialysis, mainly the physical

health score. The increasing of physical health score correlated with ages, coordinate diseases and the decreasing of
BUN, creatinine.
Key words: SF-36, quality of life, physical health, mental health, end stage renal disease, predialysis, post
dialysis.

ĐẶT VẤN ĐỀ

ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Chất lượng cuộc sống (CLCS) là một khái
niệm phản ánh nhận thức của một cá nhân về
tình trạng hiện tại của cá nhân đó, những
nhận thức này gắn liền với mục tiêu, kỳ vọng
và những mối quan tâm của họ. CLCS liên
quan đến nhiều lĩnh vực như tình trạng kinh
tế, chỗ ở, việc làm, tôn giáo, chính sách trợ
cấp xã hội, tình trạng sức khỏe…(8). Nhiều
thang đo chất lượng cuộc sống liên quan sức
khỏe (CLCS-SK) đã được các tác giả Anh,
Pháp, Mỹ xây dựng và được sử dụng trên
nhiều bệnh lý khác nhau(6). Bộ câu hỏi SF-36
(Short Form-36) là một trong số các bộ câu hỏi
được sử dụng rộng rãi hiện nay trong đánh
giá CLCS-SK. SF-36 đã được sử dụng và phát
triển ở hơn 60 quốc gia, dịch sang hơn 50 thứ
tiếng và được ứng dụng trên nhiều bệnh lý
khác nhau như bệnh thận, tim mạch, đái tháo
đường, viêm khớp, ung thư, tiêu hóa, bệnh
phổi tắc nghẽn mãn tính... Tại Việt Nam, đã
có công trình nghiên cứu sử dụng bộ câu hỏi

SF-36 ở bệnh nhân đái tháo đường(10). Chúng
tôi chưa tìm được nghiên cứu về vấn đề này ở
bệnh nhân suy thận mạn giai đoạn cuối. Do
vậy, chúng tôi thực hiện đề tài này nhằm mục
tiêu: (1) Sử dụng bảng câu hỏi SF- 36 để đánh
giá CLCS-SK ở 107 bệnh nhân suy thận mạn
giai đoạn cuối trước và sau chạy thận nhân
tạo, (2) Khảo sát tương quan giữa thay đổi của
điểm SF-36 với các thông số sinh hóa, huyết
học trước và sau chạy thận nhân tạo.

Thiết kế nghiên cứu

336

Nghiên cứu tiến cứu, mô tả cắt ngang, có so
sánh ở hai thời điểm trước và sau chạy thận
nhân tạo (CTNT) trong một lần điều trị nội trú
tại khoa Thận bệnh viện Chợ Rẫy.

Đối tượng nghiên cứu
Tiêu chuẩn chọn bệnh
Bệnh nhân suy thận mạn giai đoạn cuối (khi
độ lọc cầu thận ước đoán (eGFR) nhỏ hơn
15ml/phút/1,73m2 da kéo dài trên 3 tháng và siêu
âm kích thước thận teo)(3) nhập khoa Thận bệnh
viện Chợ Rẫy trong thời gian từ tháng 4/2010
đến 12/2010. Các bệnh nhân này chưa được điều
trị thay thế thận cho đến thời điểm nhập viện và
trong thời gian nằm viện được CTNT ít nhất 2

lần. Bệnh nhân đồng ý tham gia nghiên cứu và
hợp tác trả lời các câu hỏi SF-36.
Tiêu chuẩn loại trừ
Bệnh nhân không thỏa tiêu chí chọn bệnh và
đang trong tình trạng cấp cứu nội khoa như phù
phổi cấp, suy hô hấp cấp, nhiễm trùng nặng…

Phương pháp nghiên cứu
Thu thập số liệu
-Trước và sau CTNT: Khám lâm sàng, xét
nghiệm sinh hóa được tiến hành tại khoa sinh
hóa bệnh viện Chợ Rẫy, BUN được đo theo
phương pháp Urease Kinetic và Creatinine
được đo theo phương pháp Jaffé Kinetic,
huyết đồ được đo bằng máy tự động CELLDYO 3700, Xquang ngực thẳng khảo sát tổn
thương phổi, siêu âm bụng đo kích thước

Chuyên Đề Thận Niệu


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012
thận 2 bên với định nghĩa thận teo khi chiều
dài thận nhỏ hơn 80mm.

Nghiên cứu Y học

-Phỏng vấn trước và sau CTNT: Chúng tôi
sử dụng bảng dịch tiếng Việt bộ câu hỏi SF-36
đã được 2 tác giả Võ Tuấn Khoa và Nguyễn
Thy Khuê chuyển ngữ năm 2007 sau khi xin

phép và được sự chấp thuận bằng văn bản
của hai tác giả này(10)

chúng tôi chuyển thành bảng tính điểm của 8
lĩnh vực. Từ điểm 8 lĩnh vực gộp lại thành các
điểm như điểm sức khỏe thể chất, điểm sức
khỏe tinh thần và điểm SF-36 (bằng cách sử
dụng phần mềm tính điểm Microsoft Excel theo
hướng dẫn tính điểm bộ câu hỏi SF-36). Xử lý
dữ kiện bằng phần mềm SPSS 17.0. Sự khác biệt
có ý nghĩa thống kê khi p < 0,05.

Một số định nghĩa dùng trong nghiên cứu

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Về hoàn cảnh kinh tế

Trong thời gian 8 tháng, chúng tôi có 107
bệnh nhân (bn) tham gia nghiên cứu, trong đó
có 48 nam (44,9%) và 59 nữ (55,1%), tuổi trung
bình là 48 [48 ± 18]. Đa số (81,3%) bn sống ở tỉnh
và 68,2% bn có trình độ cấp 1, 2. Dựa theo phân
loại của chúng tôi, số bn được xếp vào diện
nghèo (45,8%) tương đương với số bn diện đủ
sống (46,7%). Hầu hết bn (72% ) đều có bảo hiểm
y tế khi nhập viện. Gần một nữa bn (44,9%)
nhập viện có bệnh nội khoa khác đi kèm, trong
đó viêm phổi chiếm tỷ lệ cao nhất (50%).


Do bệnh viện Chợ Rẫy nhận bệnh từ các
tỉnh, thành phố khác ngoài thành phố Hồ Chí
Minh nên để tạo điều kiện thuận lợi cho việc trả
lời, chúng tôi tạm thời qui ước về hoàn cảnh
kinh tế trong nghiên cứu này như sau:
-Giàu có: thu nhập cao và bệnh nhân có khả
năng tự chi trả cho đi du lịch nước ngoài.
-Dư sống: thu nhập cao, ngoài chi tiêu hàng
ngày bệnh nhân có khả năng tự chi trả cho đi du
lịch trong nước.
-Đủ sống: đủ chi tiêu và có tiền dự phòng
khi ốm đau.
-Thiếu thốn: thu nhập thấp hằng ngày và
không có quỹ tiết kiệm dự phòng khi ốm đau.
-Diện xóa đói giảm nghèo: được địa phương
xét để hưởng chế độ trợ cấp.
Định nghĩa về cải thiện chất lượng cuộc sống
Với điểm tối đa là 100 trong thang điểm SF36 và trong thời gian theo dõi ngắn, chúng tôi
tạm quy ước điểm số SF-36 ở 2 thời điểm trước
và sau CTNT được xem là khác biệt khi hiệu số
lớn hơn 20 điểm. Chúng tôi gọi là “cải thiện chất
lượng cuộc sống” nếu điểm tăng trên 20 điểm so
với trước CTNT và “không cải thiện” nếu điểm
tăng không đến 20 điểm hoặc giảm hơn so với
trước CTNT.

Xử lý số liệu
Các biến định lượng có phân phối chuẩn
được biểu diễn dưới dạng trung bình và độ lệch
chuẩn, các biến định lượng có phân phối không

chuẩn được trình bày dưới dạng trung vị và tứ
phân vị. Từ kết quả của bảng câu hỏi SF-36,

Chuyên Đề Thận Niệu

Sau thời gian trung bình nằm viện là 12 [1016] ngày, các bệnh nhân được CTNT trung bình
4 [3 - 5] lần. Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và
điểm đánh giá chất lượng cuộc sống được trình
bày ở các bảng 1, 2, 3. Bảng 1 cho thấy gần 90%
bn nhập viện chưa được mổ tạo dò động tĩnh
mạch trước để chuẩn bị việc CTNT. Hơn 1/3 bn
nhập viện có huyết áp chưa kiểm soát được. Số
bn tăng huyết áp giảm sau CTNT, trong đó
huyết áp tâm thu và tâm trương đều giảm có ý
nghĩa thống kê. Trong bảng 2, BUN, creatinine
máu đều giảm sau lọc máu, tình trạng thiếu
máu cũng cải thiện sau CTNT. Điểm SF-36 ở
thời điểm sau CTNT đều tăng có ý nghĩa thống
kê so với trước CTNT, chủ yếu là sức khỏe thể
chất (bảng 3)
Bảng 1: Đặc điểm lâm sàng trước và sau CTNT
Trước Sau CTNT
p
CTNT
*
Lâm Huyết áp tâm thu
142,6 ±
131,2 ± <0,001
sàng
(mmHg)

17,7
16,0
Huyết áp tâm trương 80,7 ± 9,3 77,6 ± 9,1 0,006
(mmHg)
*
Số bn có
68
46
<0,001
HA>140/90mmHg (63,55%) (42,99%)
Các thông số

337


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Trước Sau CTNT
p
CTNT
*
Số bn đã được tạo dò
11
88
<0,001
động tĩnh mạch để (10,28%) (82,24%)
CTNT trước nhập viện
Các thông số


Bảng 2: Cận lâm sàng của bệnh nhân STMGĐC
trước và sau CTNT
Các thông số Trước
Sau Hiệu số trước
CTNT
CTNT và sau CTNT
Hb (g/dL)
6,91 ±
7,68 ± 0,9 [0,4- 2,2]
1,62
1,35
BUN (mg/dL) 104,85 ± 51,17 ± 53,7 ± 26,6
28,81
23,69
Creatinine(mg 12,3[9,7- 6,4[ 4,66 [3,6-9]
/dL)
16,1]
8,6]
eGFR(ml/phút 4,2 ± 1,7
9,4 ±
9,4 ± 4,3
2
/1,73m da)
4,3 *

p
*

*


<0,001

*

<0,001

*

<0,001

Sau CTNT Hiệu số trước
P
và sauCTNT
*
35,8 [24,2- 29,2 ± 13,9 <0,001
46]
*
43,9 [34,5- 27,6 ± 18,2 <0,001
57]
*
41,3[32,828,9 ± 12,7 <0,001
8,25]

Từ 36 câu hỏi của bộ câu hỏi SF-36 sẽ phân
thành 8 lĩnh vực đánh giá các hoạt động khác
nhau từ thể chất đến tinh thần (được chúng tôi
quy ước theo chữ viết tắc như bảng 4) và gộp lại
thành 2 nhóm sức khỏe thể chất và sức khỏe tinh
thần. Điểm SF-36 được phân tích thành điểm sức

khỏe thể chất (bao gồm các lĩnh vực hoạt động
chức năng (1.PF), giới hạn chức năng (2.RP),
Cảm nhận đau đớn (3.BP), đánh giá sức khỏe
(4.GH) và cảm nhận sức sống (5.VT)) và điểm
sức khỏe tinh thần (bao gồm các lĩnh vực đánh
giá sức khỏe (4.GH), cảm nhận sức sống (5.VT),
hoạt động xã hội (6.SF), giới hạn tâm lý (7.RE)
và tâm thần tổng quát (8.MH))(6,1,2,12,11). Khi điểm
SF-36 được phân tích thành từng lĩnh vực,
chúng tôi có kết quả ở bảng 4 và nhận thấy sức
khỏe thể chất cải thiện chủ yếu là các lĩnh vực
1.PF, 4.GH và 5.VT; sức khỏe tinh thần cải thiện
chủ yếu là các lĩnh vực 4.GH, 5.VT và 8.MH.

1.PF
2.RP
3.BP

<0,001

Bảng 3: Điểm SF-36, sức khỏe thể chất, sức khỏe tinh
thần trước và sau CTNT

338

Thành Tên viết
phần
tắt
Sức
khỏe

thể
chất

Ghi chú: * chức năng thận sau khi đã điều trị thay thế thận,
không phải là chức năng thận thực sự của bệnh nhân; p: So
sánh trước và sau chạy thận nhân tạo

Các
Trước
thông số CTNT
Sức khỏe 4 [2,75-9]
thể chất
Sức khỏe 18,5 [9,25tinh thần 26,75]
Điểm SF- 12,1 [6,936
17,1]

Bảng 4: Điểm các lĩnh vực SF-36 trước và sau
CTNT

Sức
khỏe
tinh
thần

4.GH
5.VT
6.SF
7.RE
8.MH


Lĩnh vực

Hoạt động chức
năng
Giới hạn chức
năng
Cảm nhận đau
đớn
Đánh giá sức
khỏe
Cảm nhận sức
sống
Hoạt động xã hội
Giới hạn tâm lý
Tâm thần tổng
quát

Điểm
p
Trước Sau
CTNT CTNT
5
35 <0,001
*
0
0
1,000
51
0
30

62,5
0
52

54

0,299

<0,001
*
<0,001
45
*
62,5 0,380
0
0,988
60 <0,001
*
35

Ghi chú: Sức khỏe thể chất bao gồm các lĩnh vực: 1.PF,
2.RP, 3.BP, 4.GH, 5.VT; Sức khỏe tinh thần bao gồm các
lĩnh vực: 4.GH, 5.VT, 6.SF, 7.RE, 8.MH.

Dựa vào việc chúng tôi qui ước 20% là khác
biệt có ý nghĩa khi so sánh các loại điểm của SF36 trước và sau CTNT, chúng tôi có kết quả tỷ lệ
cải thiện sức khỏe thể chất, sức khỏe tinh thần
và điểm SF-36 lần lược là 71%, 58,9% và 76,6%
(bảng 5).
Bảng 5: Đánh giá cải thiện chất lượng cuộc sống

Lĩnh vực

Sức khỏe
thể chất

Các lĩnh vực cấu
thành

Cải thiện Không cải
thiện CLCS
CLCS
N=107
n (%)
n (%)
76 (71%)
31 (39%)

Trung bình
cộng(1.PF,2.RP,
3.BP, 4.GH,5.VT)
Sức khỏe Trung bình cộng
63 (58,9%) 44 (41,1%)
tinh thần
(4.GH,5.VT,
6.SF,7.RE,8.MH)
Điểm SF- Trung bình cộng (Sức 82 (76,6%) 25 (23,4%)
36
khỏe thể chất, sức
khỏe tinh thần)


Ghi chú: Cải thiện nếu hiệu số trước và sau CTNT lớn hơn
20%; Không cải thiện nếu hiệu số trước và sau CTNT nhỏ
hơn 20%

Để tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng đến cải
thiện chất lượng cuộc sống, chúng tôi khảo sát
các yếu tố như giới tính, tuổi, tiền sử bệnh đái
tháo đường, tiền sử bệnh tăng huyết áp, có bệnh
lý đi kèm hay có tạo động tĩnh mạch trước đó có

Chuyên Đề Thận Niệu


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012
ảnh hưởng đến sự cải thiện CLCS và kết quả là:
giữa các nhóm tuổi có sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê về sự cải thiện sức khỏe thể chất, cụ thể
nhóm trẻ tuổi và tuổi trung niên có tỷ lệ cải
thiện nhiều hơn; nhóm suy thận mạn đơn thuần
có tỷ lệ cải thiện sức khỏe thể chất cao hơn
nhóm có bệnh phối hợp. Sự khác biệt này có ý
nghĩa thống kê p < 0,001; sự cải thiện sức khỏe
thể chất không khác nhau giữa các giới, đái tháo
đường, tăng huyết áp hay bn đã được mổ tạo dò
động tĩnh mạch lúc nhập viện (Bảng 6). Sự cải
thiện sức khỏe thể chất cũng có tương quan với
tuổi, mức độ cải thiện BUN và creatinin (Bảng 7)
Bảng 6: Yếu tố liên quan sự cải thiện sức khỏe thể
chất


Nhóm tuổi < 60
tuổi
Đái tháo đường
Tăng huyết áp
Mổ tạo dò động
tĩnh mạch
Bệnh đi kèm

Cải thiện
N=76
62

6
28
3

0,782
0,522
0,601

27

21

0,002

*

Bảng 7: Tương quan giữa hiệu số trước và sau
CTNT về điểm sức khỏe thể chất, sức khỏe tinh thần,

điểm SF-36 với sự cải thiện các chỉ số lâm sàng, cận
lâm sàng
Hiệu số
sức khỏe
thể chất
rp
**
Tuổi
-0,329 0,001
Số lần lọc máu 0,089 0,363
Hiệu Hb
0,040 0,679
Hiệu Hct
0,027 0,785
**
Hiệu BUN
-0,258 0,007
Hiệu Creatinine -0,226* 0,019
máu

Hiệu số
sức khỏe
tinh thần
rp
0,077 0,428
0,121 0,216
0,058 0,551
0,043 0,659
0,043 0,663
-0,028 0,775


Hiệu số
điểm SF-36
rp
-0,133 0,173
0,098 0,315
0,080 0,412
0,060 0,540
-0,054 0,582
-0,112 0,251

Ghi chú: r: hệ số tương quan, (*) có tương quan

BÀN LUẬN
Chất lượng cuộc sống của bệnh nhân suy
thận mạn tính trước CTNT ít được chú ý hơn so
với bệnh nhân CTNT(9). Fukuhara S. và cộng sự
nghiên cứu trên 471 bệnh nhân ở Nhật Bản suy
thận mạn giai đoạn 3,4 trước khi CTNT, theo dõi

Chuyên Đề Thận Niệu

Bảng 8: So sánh giá trị trung bình điểm số sức khỏe
thể chất, sức khỏe tinh thần trước CTNT với nghiên
cứu khác
Tác giả

N

Korevaar 152


5,9±3,0

37,7

Sức khỏe
tinh thần
(từ 0-100
điểm)
40,6

Chúng tôi 107

4,2±1,7

4

18,5

(

13
67
8

Hiệu số trước
và sau CTNT

điểm số SF-36, lâm sàng mỗi 2 tháng trong 1
năm. Ông nhận thấy bệnh nhân suy thận mạn

giai đoạn 3,4 trước CTNT có chất lượng cuộc
sống giảm nhanh hơn so với dân số chung. Sự
suy giảm này có liên quan với sự gia tăng
creatinine huyết thanh và sự suy giảm
hematocrit(9).

4)

Không cải thiện
P
N=31
18
0,017*

Nghiên cứu Y học

eGFR
Sức khỏe thể
chất
(ml/phút/1
2
,73m ) (từ 0-100 điểm)

Trong nghiên cứu của chúng tôi, với mức
eGFR khoảng 4 ml/phút/1,73m2 da, cả hai
điểm sức khỏe thể chất và sức khỏe tinh thần
đều giảm thấp chỉ còn dưới 20% so với bình
thường, đặc biệt điểm về sức khỏe thể chất
giảm nặng chỉ còn 4% so với người bình
thường. Trong khi theo Korevaar(4) nghiên

cứu trên 152 bệnh nhân STMGĐC chưa CTNT
với eGFR khoảng 6 ml/phút/1,73m2 da, sức
khỏe thể chất và tinh thần đều sụt giảm còn
40 điểm (Bảng 8). Điểm khác biệt của chúng
tôi so với Korevaar ở chỗ thời điểm phỏng
vấn. Korevaar tiến hành nghiên cứu bệnh
nhân ở giai đoạn trước CTNT 0 - 4 tuần trong
điều kiện bệnh nhân ổn định và không nhập
viện trong tình trạng cấp cứu như viêm phổi,
phù phổi cấp…trong khi hầu hết các bệnh
nhân của chúng tôi nhập viện để CTNT một
khi bệnh đã đi đến giai đoạn cuối có biến
chứng đe dọa tử vong ngay cả những bệnh
nhân đã được giải thích chuẩn bị mổ AVF
trước. Trong nghiên cứu của Korevaar nhận
thấy điểm số về sức khỏe thể chất của bệnh
nhân ở thời điểm bắt đầu CTNT thấp hơn
điểm số sức khỏe tinh thần. Đặc điểm này
cũng phù hợp với nghiên cứu của chúng tôi.
Điều này có thể giải thích ở thời điểm bắt đầu
CTNT sức khỏe thể chất của bệnh nhân thực
sự kém trong khi sức khỏe về tinh thần ở bệnh

339


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012


nhân chưa ảnh hưởng tương ứng đến chất
lượng sống. Đặc điểm này cũng phù hợp với
một nghiên cứu khác của tác giả Tsai Y. sử
dụng bộ câu hỏi WHOQOL- BREF (Worth
Health Organization Quality-of-Life Question)
phiên bản của Đài Loan ở bệnh nhân suy thận
mạn cũng nhận thấy sức khỏe thể chất giảm
dần theo mức độ suy thận trong khi sức khỏe
tinh thần và quan hệ xã hội lại không thay đổi
theo giai đoạn của bệnh thận(14).
Chúng tôi nhận thấy sau thời gian CTNT,
điểm số sức khỏe thể chất, sức khỏe tinh thần
của bệnh nhân chúng tôi cũng không khác với
nghiên cứu DOPPS(5) (trên dân số Nhật Bản,
Châu Âu và Mỹ), Wu(13) (trên dân số Mỹ) và
Tsai(14) (trên dân số Đài Loan) tuy thời gian
đánh giá bn của chúng tôi ngắn hơn nhiều các
tác giả khác. Điều này có thể nghĩ những thay
đổi quan trọng nhất là ở giai đoạn sớm lúc bn
bắt đầu CTNT, sau đó những thay đổi sẽ
không đáng kể. Cũng vì lẽ đó mà các nghiên
cứu của Wu(13) và Mekus(7) theo dõi bệnh nhân
CTNT định kỳ nhận thấy thay đổi các điểm số
SF-36 từ 2 đến 3 điểm là có ý nghĩa về mặt lâm
sàng. Song nếu nghiên cứu của chúng tôi
cũng chọn thay đổi 2 - 3 điểm trên 100 điểm
tối đa để gọi là cải thiện có ý nghĩa thì 100%
bn của chúng tôi đều cải thiện. Do vậy chúng
tôi chọn sự khác biệt 20/100 điểm để gọi là cải
thiện trong giai đoạn nghiên cứu. Lý do khác

khiến điểm số CLCS của bn chúng tôi thay
đổi nhiều sau CTNT phải chăng bn của chúng
tôi khởi đầu CTNT rất trễ, lúc CLCS đã sụt
giảm rất nhiều nên sau CTNT, CLCS đã tăng
lên rõ rệt. Vậy liệu việc CTNT sớm hơn sẽ làm
giảm sự khác biệt này như các nghiên cứu
khác chăng. Nhìn chung, so với các nghiên
cứu trên, nghiên cứu của chúng tôi cũng nhận
thấy sau CTNT, điểm số sức khỏe thể chất
tăng cao hơn điểm số sức khỏe tinh thần
(Bảng 9).
Bảng 9: So sánh giá trị trung bình điểm số sức khỏe
thể chất, sức khỏe tinh thần sau CTNT với nghiên
cứu khác
Nghiên

340

Dân số

N

Thời Sức khỏe Sức khỏe

cứu
Tác giả
Nghiên cứu Dân số
(5)
DOPPS Châu Âu
Dân số

Nhật Bản
Dân số
Mỹ
(13)
WU
Mỹ

gian thể chất tinh thần
CTNT (0 - 100) (0 - 100)
2406
34,7
44,1
CTNT
2087 định kỳ 40,0
44,0
2885

33,4

47,6

698

33,2

48,2

48,0

55,7


35,8

43,9

CTNT
1 năm
(14)
Tsai Y
Đài Loan 65 CTNT
định kỳ
Chúng tôi Việt Nam 107 CTNT
2 tuần

So sánh với điểm số trước CTNT, chúng tôi
cũng thấy sức khỏe thể chất, sức khỏe tinh thần
và điểm SF-36 ở thời điểm sau CTNT đều tăng
có ý nghĩa thống kê (p < 0,001). Chúng tôi cũng
nhận thấy rằng sau CTNT sức khỏe thể chất cải
thiện tốt hơn (tăng gấp 9 lần) so với sức khỏe
tinh thần (tăng 2,4 lần) (Bảng 2). Điều này cũng
phù hợp với nghiên cứu của Wu và cộng sự(13),
sau 1 năm CTNT, chất lượng cuộc sống đã cải
thiện tốt hơn, trong đó các lĩnh vực thuộc sức
khỏe thể chất cũng cải thiện tốt hơn lãnh vực
thuộc sức khỏe tinh thần. Trong nghiên cứu của
chúng tôi, các lĩnh vực tự đánh giá sức khỏe
tổng quát (4.GH) (tăng 35 điểm so với 0 điểm
trước lọc máu) và điểm số lĩnh vực sức khỏe liên
quan hoạt động chức năng (1.PF) (tăng lên 35

điểm so với 5 điểm trước CTNT) là tăng có ý
nghĩa nhất. Đặc điểm này phù hợp với nghiên
cứu của Wu và cộng sự(13) sau 1 năm CTNT, có
lẽ 2 lĩnh vực này duy nhất trong bảng câu hỏi
SF-36 đánh giá sức khỏe ở ngay thời điểm đang
hỏi nên bệnh nhân thấy rõ sự thay đổi. Các lĩnh
vực khác trong bảng câu hỏi SF-36 đều đánh giá
sức khỏe trong vòng 1 tháng qua nên bệnh nhân
chúng tôi chưa đủ thời gian để nhận thấy sự
khác biệt.

KẾT LUẬN
Điểm SF-36 của bn STMGĐC trước chạy
thận nhân tạo rất thấp (12/100 điểm) (sức khỏe
thể chất (4/100 điểm) và sức khỏe tinh thần
(18/100 điểm). Điểm SF-36 của bn STMGĐC sau
chạy thận nhân tạo tăng đáng kể (41/100 điểm)
(sức khỏe thể chất (36/100 điểm) và sức khỏe

Chuyên Đề Thận Niệu


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012
tinh thần (44/100 điểm)). Tỷ lệ cải thiện sức khỏe
thể chất có liên quan đến các nhóm tuổi, liên
quan đến bệnh lý đi kèm. Điểm sức khỏe thể
chất cải thiện tương quan với tuổi, bệnh đi kèm,
mức độ cải thiện BUN, creatinine.
Việc ứng dụng SF-36 có hiệu quả trong đánh
giá toàn diện chất lượng cuộc sống của bệnh

nhân suy thận mạn giai đoạn cuối trước và sau
chạy thận nhân tạo bên cạnh những đánh giá về
sinh hóa.

6.
7.

8.
9.

10.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

2.
3.
4.

5.

Kalantar-Zadeh K, Kopple JD, Block G, Humphreys MH (2001),
Association Among SF36 Quality of Life Measures and
Nutrition, Hospitalization, and Mortality in Hemodialysis.
Journal of the American Society of Nephrology, 12(12), 27972806.
Kamyar KZ (2003), Quality of Life in Patients with Chronic
Renal Failure. CIN.
KDOQI Clinical Practice Guidelines (2002), Definition and stages
of Chronic Kidney Disease. National Kidney Foundation.
Korevaar JC, Jansen MA, Merkus MP, Dekker FW, Boeschoten

EW, Krediet RT (2000), Quality of life in predialysis end-stage
renal disease patients at the initiation of dialysis therapy. The
NECOSAD Study Group. Perit Dial Int, 20(1), 69-75.
Mapes DL, Bragg-Gresham JL, Bommer Fukuhara S, McKevitt
P, Lopes AA (2004), Health-related quality of life in the Dialysis
Outcomes and Practice Patterns Study (DOPPS). American

Chuyên Đề Thận Niệu

11.
12.

13.

14.

Nghiên cứu Y học

journal of kidney diseases: the official journal of the National
Kidney Foundation, 44, 54-60.
McDowell I (2006). A guide to Rating Scales and questionnairs
(Third ed.). Oxford university press: 520-703.
Merkus MP, Jager KJ, Dekker FW, de Haan RJ, Boeschoten EW,
Krediet RT (1999), Quality of life over time in dialysis: The
Netherlands Cooperative Study on the Adequacy of Dialysis.
Kidney Int, 56(2), 720-728.
Oleson M (1990), Subjectively Perceived Quality of Life. Journal
of Nursing Scholarship, 22(3), 187-190.
Shunichi F et al (2007), Health-Related Quality of Life of
Predialysis Patients with Chronic Renal Failure. Nepron Clinical

Practice, 105(1).
Võ Tuấn Khoa, Nguyễn Thy Khuê (2007), Nghiên cứu về bản
đánh giá chất lượng cuộc sống Short Form (SF) -36 và ứng dụng
để đánh giá chất lượng cuộc sống cho bệnh nhân đái tháo đường
sau đoạn chi tại Bệnh viện Chợ Rẫy. Luận văn Thạc sĩ Y Học
năm 2007. Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh.
Ware JE Jr. (2000), SF-36 Health Survey Update. Spine, 25(24),
3130-3139.
Ware JE, Gandek B (1998), Overview of the SF-36 Health Survey
and the International Quality of Life Assessment (IQOLA)
Project. Journal of clinical epidemiology, 51(11), 903-912.
Wu AW, Fink NE, Marsh-Manzi JVR, Meyer KB, Finkelstein FO,
Chapman MM et al. (2004), Changes in Quality of Life during
Hemodialysis and Peritoneal Dialysis Treatment: Generic and
Disease Specific Measures. Journal of the American Society of
Nephrology, 15(3), 743-753.
Tsai Y.C. and et al, Quality of life predicts risks of end-stage renal
disease and mortality in patients with chronic kidney disease.
Nephrology Dialysis Transplantation,25(5), 1621-1626.

341



×