Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Mối liên quan giữa các yếu tố chuyển viện với tình trạng cấp cứu khi nhập viện và tử vong trong 24 giờ đầu ở bệnh nhi chuyển đến khoa cấp cứu Bệnh viện Nhi Đồng 1 từ 06/2012 đến 05/2013

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (335.48 KB, 6 trang )

Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

MỐI LIÊN QUAN GIỮA CÁC YẾU TỐ CHUYỂN VIỆN  
VỚI TÌNH TRẠNG CẤP CỨU KHI NHẬP VIỆN VÀ TỬ VONG  
TRONG 24 GIỜ ĐẦU Ở BỆNH NHI CHUYỂN ĐẾN KHOA CẤP CỨU  
BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG 1 TỪ 06/2012 ĐẾN 05/2013 
Trang Giang Sang*, Bùi Quốc Thắng** 

TÓM TẮT 
Mục tiêu nghiên cứu: Xác định mối liên quan giữa các đặc điểm và yếu tố chuyển viện với tình trạng cấp 
cứu khi nhập viện và tử vong 24 giờ đầu ở bệnh nhi chuyển viện đến khoa cấp cứu bệnh viện Nhi Đồng 1 từ 
tháng 06/2012 đến 05/2013. 
Phương pháp: Nghiên cứu đoàn hệ tiền cứu. 
Kết quả: Trong khoảng thời gian từ 06/2012 đến 05/2013, chúng tôi khảo sát được 574 trường hợp chuyển 
viện đến khoa cấp cứu BV Nhi Đồng 1. Trong nghiên cứu của chúng tôi, khoảng 80% bệnh nhân được chuyển 
viện là dưới 5 tuổi, trong đó sơ sinh chiếm tỉ lệ cao nhất 30,7%, không có sự khác biệt giới tính ở bệnh nhân 
chuyển viện. Phần lớn bệnh nhân được chuyển từ các cơ sở y tế phía nam 71,3%, và từ  các cơ sở y tế TP.Hồ Chí 
Minh là 28,7%. Bệnh nhân được chuyển viện với lý do chính là vượt khả năng chuyên môn 76%. Lúc bắt đầu 
chuyển viện, có 40,4% bệnh nhân được chuyển trong tình trạng không ổn định, và 25,3% trường hợp hỗ trợ hô 
hấp không phù hợp. Phần lớn bệnh nhân được chuyển bằng xe cấp cứu 95,5%, đa số là có nhân viên y tế theo hộ 
tống 99,1%, hầu hết là điều dưỡng theo chuyển bệnh 86,2%. Bệnh lý được chuyển nhiều nhất là bệnh chu sinh 
27,9%, kế đó là bệnh lý nhiễm trùng  20,2% và bệnh hô hấp là 20%. Trên đường chuyển có 20,4% trường hợp 
xảy ra biến cố và chỉ có 17,1% trường hợp có xử trí biến cố. Khi đến khoa cấp cứu bệnh viện Nhi Đồng 1, có 
44,8% bệnh nhân trong tình trạng không ổn định và 46,7% bệnh nhân cần xử trí cấp cứu ngay. Tử vong trong 
24 giờ đầu nhập viện chiếm 9,9% tổng số bệnh nhân nhập viện.  
Kết  luận: Chuyển bệnh nhi lên tuyến trên để điều trị khi vượt quá khả năng của các cơ sở y tế tuyến 
trước là một nhu cầu thiết yếu, chuyển viện đúng và an toàn sẽ góp phần cải thiện tỉ lệ tử vong ở trẻ em. 
Nhưng tỉ lệ bệnh nhi chết trên đường chuyển, cũng như tỉ lệ trẻ nhập viện trong tình trạng cần phải được 
cấp cứu và tử vong trong 24 giờ đầu nhập viện vẫn còn cao. Do đó, chúng ta cần xem xét lại vấn đề chuyển 


viện sao cho an toàn, việc đào tạo đội ngũ chuyển viện có tính chuyên nghiệp, có kỹ năng chuyên môn kịp 
thời ứng phó những biến cố xảy ra trên đường chuyển, đặc biệt chú trọng đào tạo kỹ năng chuyển viện cho 
điều dưỡng là điều cần thiết. 
Từ  khóa:  chuyển  viện  an  toàn  trẻ  em,  yếu  tố  nguy  cơ  chuyển  viện,  tử  vong  trong  24  giờ  đầu  ở  trẻ 
chuyển viện. 

ABSTRACT  
THE RELATIONSHIP BETWEEN THE CHARACTERISTICS  
AND FACTORS REFERRED TO A HOSPITAL FOR EMERGENCY ADMISSION  
AND MORTALITY IN THE FIRST 24 HOURS OF PATIENTS REFERRED  
TO EMERGENCY DEPARTMENTS OF CHILDREN 1 HOSPITAL FROM 06/2012 TO 05/2013 
Trang Giang Sang, Bui Quoc Thang  
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 448 ‐ 453 
* Khoa Cấp cứu bệnh viện Nhi Đồng 
** Đại học Y Dược TP.HCM 
Tác giả liên lạc: ThS. BS. Trang Giang Sang   ĐT: 0982960906  Email:  

448

Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 

Nghiên cứu Y học

Objective:  To  determine  the  relationship  between  the  characteristics  and  factors  referred  to  emergency 
admission to hospital and mortality in the first 24 hours of patients to hospital emergency departments Children 
1 from 06/2012 to 05 / 2013. 
Design: Prospective cohort study. 

Results:  In  the  period  from  06/2012  to  05/2013,  we  investigated  574  referral  cases.  In  our  study, 
approximately 80% of patients referred to hospital is less than 5 years old, including infants accounted for the 
highest rate of 30.7%, with no gender differences in patient referral. 71.3%, of patients were transferred from the 
southern medical facility and from Ho Chi Minh City is 28.7%. Primary reason for 76% of referral cases is over 
expertise. At the start of referral, 40.4% of patients were transferred in unstable condition, and 25.3% was in 
inappropriate respiratory support. 95.5% of patients were transferred with ambulance, referral with medical staff 
was  99.1%,  mostly  86.2%  was  referred  with  nurse.  Most  of  transferred  patients  get  perinatal  disease  27.9%, 
infectious  and  respiratory  diseases  are  20.2%  and  20%.  On  the  way  of  referral,  there  were  20.4%  of  cases 
occurred events and only 17.1% were treated. The emergency department 1 Childrenʹs Hospital, with 44.8% of 
patients in unstable condition and 46.7% of patients required emergency management. Mortality in the first 24 
hours of hospitalization accounted for 9.9% of all hospitalized patients.  
Conclusions: Referring patients to a higher level for treatment in case of over expertise is necessary. But the 
death  rate  of  patients  on  the  move,  as  well  as  the  rate  of  hospitalized  children  in  emergency  cases  and  the 
mortality in the first 24 hours of hospitalization still remain high. Therefore, we need to reconsider referrals safety 
and staff training to ensure that they are professional and competent to response to events occurring on the move, 
especially focus on training for referral nurse is required. 
Key words: Transport of children, Factors referred, Mortality in the first 24 hours of patients referred 
đảm bảo an toàn trong quá trình chuyển viện. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Những  năm  qua  tuy  tỉ  lệ  tử  vong  ở  trẻ  em 
ngày  một  giảm  thấp  nhưng  tỉ  lệ  tử  vong  trong 
24 giờ đầu nhập viện vẫn không giảm. Có nhiều 
lý do làm tăng tỉ lệ tử vong 24 giờ đầu như do 
bệnh nhi đến bệnh viện muộn, khám chữa bệnh 
cấp cứu ở cơ sở kém, còn một lý do khác không 
kém  phần  quan  trọng  trong  đó  là  chuyển  viện 
không an toàn(5,8).  
Mặc  dầu  vấn  đề  chuyển  viện  ở  trẻ  em  đã 
được thực hiện bởi nhiều tác giả, hầu hết các tác 
giả mô tả tỷ lệ % có được từ những xử lý thống 

kê một yếu tố, và nhất là thiết kế nghiên cứu đều 
là mô tả trường hợp bệnh. Xuất phát từ thực tế 
đó,  chúng  tôi  tiến  hành  nghiên  cứu  này  để  xác 
định  mối  liên  quan  giữa  tình  trạng  lâm  sàng 
không  ổn  định  khi  chuyển  viện  và  các  yếu  tố 
chuyển  viện  khác  với  tình  trạng  cấp  cứu  khi 
nhập  viện  và  tử  vong  24  giờ  đầu  ở  bệnh  nhi 
được chuyển  viện  đến  khoa  cấp  cứu  bệnh  viện 
Nhi  Đồng  1  để  làm  cơ  sở  cho  công  tác  chỉ  đạo 
tuyến cũng như đưa ra những đề nghị góp phần 

Nhi Khoa

Mục tiêu tổng quát 
Xác định mối liên quan giữa các đặc điểm 
và  yếu  tố  chuyển  viện  với  tình  trạng  cấp  cứu 
khi  nhập  viện  và  tử  vong  24  giờ  đầu  ở  bệnh 
nhi  chuyển  viện  đến  khoa  cấp  cứu  bệnh  viện 
Nhi Đồng 1. 
Mục tiêu chuyên biệt 
Xác định tỉ lệ các đặc điểm dịch tễ học, đặc 
điểm lâm sàng và các yếu tố liên quan đến quá 
trình chuyển viện. 
Xác định tỉ lệ trẻ nhập viện trong tình trạng 
cấp  cứu  và  tử  vong  trong  24  giờ  đầu  ở  trẻ 
chuyển viện. 
Xác định mối tương quan giữa các đặc điểm 
và yếu tố chuyển viện với tình trạng cấp cứu khi 
nhập viện. 
Xác định mối tương quan giữa các đặc điểm 

và yếu tố chuyển viện với tử vong 24 giờ đầu. 

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Thiết kế nghiên cứu  
449


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

Nghiên cứu Y học 
Nghiên cứu đoàn hệ tiền cứu. 

Đối tượng nghiên cứu 
Dân số mục tiêu 
Tất cả bệnh nhi dưới 15 tuổi được chuyển từ 
các cơ sở y tế đến khoa cấp cứu bệnh viện Nhi 
đồng 1. 
Dân số chọn mẫu 
Tất  cả  bệnh  nhi  dưới  15  tuổi  được  chuyển 
viện từ các cơ sở y tế đến khoa cấp cứu BV Nhi 
đồng  1  có  giấy  giới  thiệu  chuyển  viện  trong 
khoảng thời gian từ tháng 06/2012 đến hết tháng 
05/2013. 
Cỡ mẫu 
Chúng tôi sử dụng phần mềm Epi info 2007 
để  tính  cỡ  mẫu,  với  khoảng  tin  cậy  95%,  độ 
mạnh  (1‐  ß)  99%,  tỷ  lệ  chuyển  viện  an  toàn: 
chuyển viện không an toàn là 2,6:1; tỷ lệ tử vong 
trong nhóm chuyển viện an toàn là 0,2%, tỷ lệ tử 
vong trong nhóm chuyển viện không an toàn  là 

11,3%, nguy cơ tương đối (RR) là 57,08. 
Tính được cỡ mẫu với số liệu trên là: n= 432 

KÉT QUẢ NGHIÊN CỨU 
Trong  khoảng  thời  gian  từ  06/2012  đến 

Giới tính
Nam
Nữ
Tổng cộng

Số ca
338
236
574

Tỉ lệ (%)
58,9
41,1
100

Nhận  xét:  Không  có  sự  khác  biệt  về  giới  ở 
bệnh nhi chuyển viện. 

Địa phương chuyển viện 
Bảng 3:  
Địa phương
Tỉnh
TP.Hồ Chí Minh
Tổng cộng


Số ca
409
165
574

Tỉ lệ (%)
71,3
28,7
100

Nhận  xét:  Phần  lớn  bệnh  nhân  được  chuyển 
từ  các  cơ  sở  y  tế  của  các  tỉnh  thành  phía  Nam 
71,3%. 

Các loại phương tiện dùng để chuyển viện 
Bảng 4:  
Phương tiện chuyển viện
Xe cấp cứu
Ô tô thuê riêng
Xe khách
Máy bay
Tổng cộng

Số ca
548
17
4
5
574


Nhận xét: Hầu hết bệnh nhân được chuyển 
viện bằng xe cấp cứu của bệnh viện. Có một tỉ lệ 
nhỏ  bệnh  nhân  được  chuyển  bằng  máy  bay  từ 
các tỉnh xa xôi như Phú Quốc, Đà Nẵng. 

05/2013,  theo  phương  pháp  lấy  mẫu  hệ  thống 

Nhân viên hộ tống chuyển viện 

với  khoảng  cách  mẫu  là  8,  chúng  tôi  đã  tiến 

Bảng 5:  

hành khảo sát chuyển viện trong 45 ngày và 574 
trường hợp chuyển viện đã được khảo sát. 

Phân bố tuổi 
Số ca
176
137
142
119
574

Tỉ lệ (%)
30,7
23,9
24,7
20,7

100

Giới tính 
Bảng 2:  

450

Số ca
569
5
574

Tỉ lệ (%)
99,1
0,9
100

Thành phần nhân viên hộ tống chuyển viện 
Bảng 6:  

Nhận  xét:  Trẻ  sơ  sinh  được  chuyển  viện 
chiếm tỉ lệ khá cao 30,7% trường hợp. 

Nhân viên hộ tống

Không
Tổng cộng

Nhận  xét: Phần lớn các  trường  hợp  chuyển 
viện đều có nhân viên hộ tống (99,1%). 


Bảng 1:  
Nhóm tuổi
Sơ sinh
< 1 tuổi
1 – 5 tuổi
> 5 tuổi
Tổng cộng

Tỉ lệ (%)
95,5
2,9
0,7
0,9
100

Thành phần
Bác sĩ
Điều dưỡng
Nữ hộ sinh
Thành phần khác
Không NVYT
Tổng cộng

Số ca
34
495
37
3
5

574

Tỉ lệ (%)
6
86,2
6,4
0,5
0,9
100

Nhận  xét:  Thành  phần  hộ  tống  chuyển 
viện chủ yếu là điều dưỡng (86,2%). 

Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 

Nghiên cứu Y học

Theo  dõi  bệnh  nhân  trong  quá  trình 
chuyển viện 

Bệnh  nhân  được  cấp  cứu  ngay  khi  nhập 
viện 

Bảng 7:  

Bảng 11:  


Theo dõi

Không
Tổng cộng

Số ca
344
230
574

Tỉ lệ (%)
59,9
40,1
100

Nhận  xét:  Gần  ½  bệnh  nhân  chuyển  viện 
không  được  theo  dõi  trong  quá  trình  chuyển 
viện. 

Biến cố xảy ra trong quá trình chuyển viện 
Bảng 8:  
Biến cố

Không
Tổng cộng

Số ca
117
457
574


Tỉ lệ (%)
20,4
79,6
100

Nhận  xét:  trong  quá  trình  chuyển  viện  có 
20,4% trường hợp có xảy ra biến cố. 

Phân bố các loại biến cố 
Bảng 9:  
Loại biến cố
Sốc
Tím tái
Hôn mê
Ngưng thở
Chết trước nhập viện
Ngưng tim
Co giật
Tụt ống nội khí quản

Số ca
71
68
55
34
31
27
19
5


Tỉ lệ (%)
12,4
11,8
9,6
5,9
5,4
4,7
3,3
0,9

Cấp cứu

Không
Tổng cộng

Số ca
268
306
574

Tỉ lệ (%)
46,7
53,3
100

Tình trạng cấp cứu 
Bảng 12:  
Tình trạng cấp cứu
Suy hô hấp

Hôn mê
Sốc
Ngưng thở
Ngưng tim
Chết trước khi nhập viện
Co giật
Khác
Tổng cộng

Số ca
240
93
82
49
31
31
21
16
574

Tỉ lệ (%)
41,8
16,2
14,3
8,5
5,4
5,4
3,7
2,8
100


Nhận  xét:  Bệnh  nhân  được  chuyển  viện 
trong  tình  trạng  không  ổn  dịnh  cần  xử  trí  cấp 
cứu  ngay  khi  nhập  viên  còn  khá  cao  (46,7%). 
Trong  đó  bệnh  nhi  bị  suy  hô  hấp  chiếm  đa  số 
(41,8%).  Trong  đó  có  một  tỉ  lệ  không  nhỏ  5,4% 
bệnh nhi chết trước nhập viện. 

Tử vong trong 24 giờ đầu nhập viện 
Bảng 13:  
Tử vong trong 24 giờ đầu nhập viện
Không

Tổng cộng

Số ca Tỉ lệ (%)
517
90,1
57
9,9
574
100

Nhận  xét:  Biến  cố  thường  gặp  khi  chuyển 
viện là sốc 12,4%, kế đó là tím tái (11,8%), đặc 
biệt  có  5,4%  trường  hợp  chết  trên  đường 
chuyển viện. 

Nhận xét: tỉ lệ bệnh nhi tử vong trong 24 giờ 
đầu từ khi nhập viện là 9,9%. 


Xử trí biến cố 

Bảng 14:  

Khi  có  xảy  ra  biến  cố  chỉ  có  17,1%  trường 
hợp được xử trí. 
Bảng 10:  
Xử trí biến cố

Không
Tổng cộng

Số ca
20
97
117

Tỉ lệ (%)
17,1
82,9
100

Phân bố tử vong theo chẩn đoán ra viện 
Nhóm bệnh tử vong
Bệnh lý chu sinh
Bệnh hô hấp
Bệnh lý thần kinh
Bệnh lý nhiễm trùng
Bệnh tim mạch

Các bệnh khác
Tổng cộng

Số ca
26
11
9
7
1
3
57

Tỉ lệ (%)
45,6
19,3
15,8
12,3
1,8
5,2
100

Nhận xét: bệnh chuyển viện có tỉ lệ tử vong 
cao nhất đó là bệnh lý sơ sinh (45,6%). 

Nhi Khoa

451


Nghiên cứu Y học 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

Mối  tương  quan  giữa  các  yếu  tố  chuyển 
viện với tình trạng cấp cứu khi nhập viện 
khi phân tích đa biến 
Suy  hô  hấp  khi  chuyển  viện  là  có  mối  liên 
quan  mạnh  nhất  với  tình  trạng  xử  trí  cấp  cứu 

khi  nhập  viện,  kế  đó  là  có  thực  hiện  thủ  thuật 
trước  khi  chuyển,  tình  trạng  bệnh  nhân  không 
ổn  định  khi  chuyển  viện,  hỗ  trợ  hô  hấp  không 
phù hợp, có xảy ra biến cố khi chuyển viện, và 
cuối cùng là tuổi  ≤ 1 tuổi. 

Bảng 15 
Yếu tố liên quan
≤ 1 tuổi
Có thực hiện thủ thuật CV
Tình trạng không ổn định khi CV
Có xảy ra biến cố trong quá trình CV
Hỗ trợ hô hấp không phù hợp
Suy hô hấp khi CV

RR (khoảng tin cậy 95%)
2,373 (1,061-5,308)
6,95 (1,788-27,021)
9,324 (1,825-47,629)
3,394 (1,244-9,263)
6,805 (1,501-30,858)

15,295 (2,502-93,496)

Mối tương quan giữa các yếu tố chuyển viện 
với tử vong 24 giờ khi phân tích đa biến 
Bảng 16:  
Yếu tố liên quan RR (khoảng tin cậy 95%)
P
Suy hô hấp nặng có
30,121 (4,020-225,7)
0,001
đặt NKQ CV
Hỗ trợ hô hấp không 39,421 (10,442-148,816) < 0,0001
phù hợp
Có xảy ra biến cố lúc 11,935 (3,291-43,278) < 0, 0001
CV

Nhận xét: hỗ trợ hô hấp không phù hợp, và 
có  xảy  ra  biến  cố  trên  đường  chuyển  viện  là  2 
yếu tố liên quan mạnh nhất với tử vong 24 giờ, 
cuối  cùng  là  bệnh  nhân  bị  suy  hô  hấp  nặng  có 
đặt nội khí quản khi chuyển viện. 

BÀN LUẬN 
Trong  khoảng  thời  gian  1  năm,  chúng  tôi 
khảo sát được 574 trường hợp chuyển viện từ 
các cơ sở y tế đến khoa cấp cứu bệnh viện Nhi 
Đồng  1,  chúng  tôi  nhận  thấy  lứa  tuổi  thường 
được chuyển viện là < 1 tuổi (54,6%), điều này 
phù hợp với mô hình bệnh tật ở trẻ em, đa số 
các bệnh tật và tử vong xảy ra ở năm đầu tiên 

của trẻ(6).  
Đa  số  bệnh  nhân  được  chuyển  từ  các  tỉnh 
(71,3%),  phần  lớn  từ  bệnh  viện  đa  khoa  tỉnh 
(54,1%),  cho  thấy  hơn  một  nửa  tổng  số  bệnh 
nhân chuyển viện là nặng, quá khả năng điều trị 
của  bệnh  viện  tuyến  tỉnh.  Phần  lớn  bệnh  nhi 
được  chuyển  viện  bằng  xe  cấp  cứu  (95,5%),  và 
có nhân viên y tế theo hộ tống (99,1%), đa phần 
là  điều  dưỡng  (86,2%),  tuy  nhiên  chỉ  có  59,9% 

452

p
0,035
0,005
0, 007
0,017
0,013
0,003

trường  hợp  nhân  viên  chuyển  viện  có  theo  dõi 
bệnh  nhi  trong  quá  trình  chuyển  viện.  Điều 
đáng quan tâm là biến cố xảy ra trong quá trình 
chuyển  viện  là  rất  cao  (20,4%),  qua  khảo  sát 
chúng  tôi  thấy,  không  xử  trí  biến  cố  do  không 
phát hiện biến cố là rất cao 82,9%, ngoài ra còn 
một tỉ lệ không nhỏ là 6,4% phát hiện ra biến cố 
nhưng nằm ngoài khả năng xử trí của nhân viên 
chuyển  viện.  Xem  lại  thành  phần  nhân  viên 
chuyển  viện,  chúng  tôi  nhận  thấy  phần  lớn  chỉ 

có 1 điều dưỡng hoặc 1 nữ hộ sinh theo chuyển 
viện.  Tuy  nhiên  trong  điều  kiện  bị  hạn  chế  về 
nhân lực như hiện nay, thành phần chuyển viện 
không thể nào khác hơn được. Vì vậy, việc huấn 
luyện  kỹ  năng  xử  trí  cấp  cứu  chuyển  viện  cho 
đội ngũ y tế là một nhu cầu thiết yếu, đặc biệt là 
đào tạo chuyển viện cho điều dưỡng. 
Tử  vong  24  giờ  đầu  nhập  viện  còn  khá  cao 
9,9%  tổng  số  bệnh  nhi  chuyển  viện,  trong  đó 
bệnh  lý  sơ  sinh  tử  vong  nhiều  nhất  45,6%.  Do 
đó,  chúng  ta  cần  tăng  cường  năng  lực  cho  các 
đơn  nguyên  sơ  sinh.  Cần  chú  trọng  hơn  trong 
hoạt động huấn luyện, chuyển giao kỹ thuật về 
sơ sinh cho các tuyến. 
Qua phân tích đa biến chúng tôi thấy, bệnh 
nhân trong quá trình chuyển viện có xảy ra biến 
cố,  hoặc  được  hỗ  trợ  hô  hấp  không  phù  hợp 
trong quá trình chuyển, đặc biệt là những bệnh 
nhân bị suy hô hấp nặng cần đặt nội khí quản có 
mối liên quan mật thiết đến tử vong 24 giờ đầu. 
Do đó, để giảm thiểu tử vong trong 24 giờ đầu, 
thực  hiện  chuyển  viện  an  toàn  là  một  trong 

Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 
những biện pháp cấp bách cần được thực hiện. 
Điều này chứng minh cho các báo cáo đã được 
công bố(5,9,10). 


TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.

2.
3.
4.

5.

6.

7.

Advanced life support group (2001), “Transport of children”, 
Advanced  peadiatric  life  support,  The  practice  approach, 
third edition, BMJ publish group, London, pp.255‐259. 
Barry P, Leslie A (2004), “Peadiatric and Neonatal critical care 
transport”, BMJ Publishing Group. 
Bary PW (1994), “Adverse events occury during interhospital 
transfer of the critically ill”, Arch Dis Child, 71(1), pp.8‐11. 
Durbin  DR  (1997),  “Preparing  the  child  for  interhospital 
transport”,  Textbook  pediatric  emergency  procedures, 
Edited by Fred M. Henretig, William & Wilkins, Baltimor, 
pp.1401‐1406. 
Hoàng Trọng Kim (2003), “Tình hình sức khoẻ bệnh tật trẻ 
em  Việt  Nam  năm  2001”,  Giáo  trình  bài  giảng  nhi  khoa 
sau đại học 
Kanter  RK,  Tompkins  JM  (1989),  “Adverse  events  during 
interhospital transport: physiologi deterioration associated 

with pretransport severity of  illness”, Pediatrics, 84(1), pp. 
43‐8. 
Macnab  JB  (1994),  “Interfacility  transport”,  Handbook  of 
pediatric  life  support,  second  edition,  Mosby  –  year  book, 
 

Nhi Khoa

8.

9.

10.

11.

12.

Nghiên cứu Y học

Baltimore, pp. 539‐554 
Nguyễn Thu Nhạn (2000), “Nghiên cứu thực trạng sức khoẻ 
và mô hình bệnh tật trẻ em Việt Nam, đề xuất các biện pháp 
khắc phục”,Nhi khoa, Hội Nhi Khoa Việt Nam, Nhà xuất bản 
y học, Hà Nội, 10 (số đặc biệt), tr.1‐19 
Phạm Lê An (2004), “Chuyển viện an toàn cho bệnh nhi”, Nhi 
khoa chương trình đại học, Nhà xuất bản y học, TP.HCM, tập 
1, tr. 409 – 419 
Viện  Nhi  khoa  (2000),  “Công  tác  chăm  sóc  sức  khoẻ  trẻ  em 
1991 – 2000 và định hướng chiến lược chăm sóc sức khoẻ trẻ 

em  giai  đoạn  2001‐  2010”,  Hội  nghị  nhi  khoa  toàn  quốc  lần 
thứ XVII, 6‐11‐2000, Hà Nội 
Võ Công Đồng (2001), “Tổng quan về chuyển bệnh nhi”, Cấp 
cứu nhi khoa, Tài liệu lưu hành nội bộ, Bệnh viện Nhi Đồng 
2, tr. 43‐44. 
Vũ  Thị  Thuỷ  (2002),  “Nghiên  cứu  thực  trạng  hồi  sức  cấp 
cứu nhi tại các tuyến trong thành phố”, Nhi khoa, Hội nhi 
khoa  Việt  Nam,  Nhà  xuất  bản  y  học,  Hà  Nội,  10  (số  đặc 
biệt), tr. 30‐35. 

 

 Ngày nhận bài báo: 01/11/2013 
 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 05/11/2013 
 Ngày bài báo được đăng: 05/01/2014 

453



×