Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
MỐI LIÊN QUAN GIỮA CÁC YẾU TỐ CHUYỂN VIỆN
VỚI TÌNH TRẠNG CẤP CỨU KHI NHẬP VIỆN VÀ TỬ VONG
TRONG 24 GIỜ ĐẦU Ở BỆNH NHI CHUYỂN ĐẾN KHOA CẤP CỨU
BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG 1 TỪ 06/2012 ĐẾN 05/2013
Trang Giang Sang*, Bùi Quốc Thắng**
TÓM TẮT
Mục tiêu nghiên cứu: Xác định mối liên quan giữa các đặc điểm và yếu tố chuyển viện với tình trạng cấp
cứu khi nhập viện và tử vong 24 giờ đầu ở bệnh nhi chuyển viện đến khoa cấp cứu bệnh viện Nhi Đồng 1 từ
tháng 06/2012 đến 05/2013.
Phương pháp: Nghiên cứu đoàn hệ tiền cứu.
Kết quả: Trong khoảng thời gian từ 06/2012 đến 05/2013, chúng tôi khảo sát được 574 trường hợp chuyển
viện đến khoa cấp cứu BV Nhi Đồng 1. Trong nghiên cứu của chúng tôi, khoảng 80% bệnh nhân được chuyển
viện là dưới 5 tuổi, trong đó sơ sinh chiếm tỉ lệ cao nhất 30,7%, không có sự khác biệt giới tính ở bệnh nhân
chuyển viện. Phần lớn bệnh nhân được chuyển từ các cơ sở y tế phía nam 71,3%, và từ các cơ sở y tế TP.Hồ Chí
Minh là 28,7%. Bệnh nhân được chuyển viện với lý do chính là vượt khả năng chuyên môn 76%. Lúc bắt đầu
chuyển viện, có 40,4% bệnh nhân được chuyển trong tình trạng không ổn định, và 25,3% trường hợp hỗ trợ hô
hấp không phù hợp. Phần lớn bệnh nhân được chuyển bằng xe cấp cứu 95,5%, đa số là có nhân viên y tế theo hộ
tống 99,1%, hầu hết là điều dưỡng theo chuyển bệnh 86,2%. Bệnh lý được chuyển nhiều nhất là bệnh chu sinh
27,9%, kế đó là bệnh lý nhiễm trùng 20,2% và bệnh hô hấp là 20%. Trên đường chuyển có 20,4% trường hợp
xảy ra biến cố và chỉ có 17,1% trường hợp có xử trí biến cố. Khi đến khoa cấp cứu bệnh viện Nhi Đồng 1, có
44,8% bệnh nhân trong tình trạng không ổn định và 46,7% bệnh nhân cần xử trí cấp cứu ngay. Tử vong trong
24 giờ đầu nhập viện chiếm 9,9% tổng số bệnh nhân nhập viện.
Kết luận: Chuyển bệnh nhi lên tuyến trên để điều trị khi vượt quá khả năng của các cơ sở y tế tuyến
trước là một nhu cầu thiết yếu, chuyển viện đúng và an toàn sẽ góp phần cải thiện tỉ lệ tử vong ở trẻ em.
Nhưng tỉ lệ bệnh nhi chết trên đường chuyển, cũng như tỉ lệ trẻ nhập viện trong tình trạng cần phải được
cấp cứu và tử vong trong 24 giờ đầu nhập viện vẫn còn cao. Do đó, chúng ta cần xem xét lại vấn đề chuyển
viện sao cho an toàn, việc đào tạo đội ngũ chuyển viện có tính chuyên nghiệp, có kỹ năng chuyên môn kịp
thời ứng phó những biến cố xảy ra trên đường chuyển, đặc biệt chú trọng đào tạo kỹ năng chuyển viện cho
điều dưỡng là điều cần thiết.
Từ khóa: chuyển viện an toàn trẻ em, yếu tố nguy cơ chuyển viện, tử vong trong 24 giờ đầu ở trẻ
chuyển viện.
ABSTRACT
THE RELATIONSHIP BETWEEN THE CHARACTERISTICS
AND FACTORS REFERRED TO A HOSPITAL FOR EMERGENCY ADMISSION
AND MORTALITY IN THE FIRST 24 HOURS OF PATIENTS REFERRED
TO EMERGENCY DEPARTMENTS OF CHILDREN 1 HOSPITAL FROM 06/2012 TO 05/2013
Trang Giang Sang, Bui Quoc Thang
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 448 ‐ 453
* Khoa Cấp cứu bệnh viện Nhi Đồng
** Đại học Y Dược TP.HCM
Tác giả liên lạc: ThS. BS. Trang Giang Sang ĐT: 0982960906 Email:
448
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Nghiên cứu Y học
Objective: To determine the relationship between the characteristics and factors referred to emergency
admission to hospital and mortality in the first 24 hours of patients to hospital emergency departments Children
1 from 06/2012 to 05 / 2013.
Design: Prospective cohort study.
Results: In the period from 06/2012 to 05/2013, we investigated 574 referral cases. In our study,
approximately 80% of patients referred to hospital is less than 5 years old, including infants accounted for the
highest rate of 30.7%, with no gender differences in patient referral. 71.3%, of patients were transferred from the
southern medical facility and from Ho Chi Minh City is 28.7%. Primary reason for 76% of referral cases is over
expertise. At the start of referral, 40.4% of patients were transferred in unstable condition, and 25.3% was in
inappropriate respiratory support. 95.5% of patients were transferred with ambulance, referral with medical staff
was 99.1%, mostly 86.2% was referred with nurse. Most of transferred patients get perinatal disease 27.9%,
infectious and respiratory diseases are 20.2% and 20%. On the way of referral, there were 20.4% of cases
occurred events and only 17.1% were treated. The emergency department 1 Childrenʹs Hospital, with 44.8% of
patients in unstable condition and 46.7% of patients required emergency management. Mortality in the first 24
hours of hospitalization accounted for 9.9% of all hospitalized patients.
Conclusions: Referring patients to a higher level for treatment in case of over expertise is necessary. But the
death rate of patients on the move, as well as the rate of hospitalized children in emergency cases and the
mortality in the first 24 hours of hospitalization still remain high. Therefore, we need to reconsider referrals safety
and staff training to ensure that they are professional and competent to response to events occurring on the move,
especially focus on training for referral nurse is required.
Key words: Transport of children, Factors referred, Mortality in the first 24 hours of patients referred
đảm bảo an toàn trong quá trình chuyển viện.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Những năm qua tuy tỉ lệ tử vong ở trẻ em
ngày một giảm thấp nhưng tỉ lệ tử vong trong
24 giờ đầu nhập viện vẫn không giảm. Có nhiều
lý do làm tăng tỉ lệ tử vong 24 giờ đầu như do
bệnh nhi đến bệnh viện muộn, khám chữa bệnh
cấp cứu ở cơ sở kém, còn một lý do khác không
kém phần quan trọng trong đó là chuyển viện
không an toàn(5,8).
Mặc dầu vấn đề chuyển viện ở trẻ em đã
được thực hiện bởi nhiều tác giả, hầu hết các tác
giả mô tả tỷ lệ % có được từ những xử lý thống
kê một yếu tố, và nhất là thiết kế nghiên cứu đều
là mô tả trường hợp bệnh. Xuất phát từ thực tế
đó, chúng tôi tiến hành nghiên cứu này để xác
định mối liên quan giữa tình trạng lâm sàng
không ổn định khi chuyển viện và các yếu tố
chuyển viện khác với tình trạng cấp cứu khi
nhập viện và tử vong 24 giờ đầu ở bệnh nhi
được chuyển viện đến khoa cấp cứu bệnh viện
Nhi Đồng 1 để làm cơ sở cho công tác chỉ đạo
tuyến cũng như đưa ra những đề nghị góp phần
Nhi Khoa
Mục tiêu tổng quát
Xác định mối liên quan giữa các đặc điểm
và yếu tố chuyển viện với tình trạng cấp cứu
khi nhập viện và tử vong 24 giờ đầu ở bệnh
nhi chuyển viện đến khoa cấp cứu bệnh viện
Nhi Đồng 1.
Mục tiêu chuyên biệt
Xác định tỉ lệ các đặc điểm dịch tễ học, đặc
điểm lâm sàng và các yếu tố liên quan đến quá
trình chuyển viện.
Xác định tỉ lệ trẻ nhập viện trong tình trạng
cấp cứu và tử vong trong 24 giờ đầu ở trẻ
chuyển viện.
Xác định mối tương quan giữa các đặc điểm
và yếu tố chuyển viện với tình trạng cấp cứu khi
nhập viện.
Xác định mối tương quan giữa các đặc điểm
và yếu tố chuyển viện với tử vong 24 giờ đầu.
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
449
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Nghiên cứu Y học
Nghiên cứu đoàn hệ tiền cứu.
Đối tượng nghiên cứu
Dân số mục tiêu
Tất cả bệnh nhi dưới 15 tuổi được chuyển từ
các cơ sở y tế đến khoa cấp cứu bệnh viện Nhi
đồng 1.
Dân số chọn mẫu
Tất cả bệnh nhi dưới 15 tuổi được chuyển
viện từ các cơ sở y tế đến khoa cấp cứu BV Nhi
đồng 1 có giấy giới thiệu chuyển viện trong
khoảng thời gian từ tháng 06/2012 đến hết tháng
05/2013.
Cỡ mẫu
Chúng tôi sử dụng phần mềm Epi info 2007
để tính cỡ mẫu, với khoảng tin cậy 95%, độ
mạnh (1‐ ß) 99%, tỷ lệ chuyển viện an toàn:
chuyển viện không an toàn là 2,6:1; tỷ lệ tử vong
trong nhóm chuyển viện an toàn là 0,2%, tỷ lệ tử
vong trong nhóm chuyển viện không an toàn là
11,3%, nguy cơ tương đối (RR) là 57,08.
Tính được cỡ mẫu với số liệu trên là: n= 432
KÉT QUẢ NGHIÊN CỨU
Trong khoảng thời gian từ 06/2012 đến
Giới tính
Nam
Nữ
Tổng cộng
Số ca
338
236
574
Tỉ lệ (%)
58,9
41,1
100
Nhận xét: Không có sự khác biệt về giới ở
bệnh nhi chuyển viện.
Địa phương chuyển viện
Bảng 3:
Địa phương
Tỉnh
TP.Hồ Chí Minh
Tổng cộng
Số ca
409
165
574
Tỉ lệ (%)
71,3
28,7
100
Nhận xét: Phần lớn bệnh nhân được chuyển
từ các cơ sở y tế của các tỉnh thành phía Nam
71,3%.
Các loại phương tiện dùng để chuyển viện
Bảng 4:
Phương tiện chuyển viện
Xe cấp cứu
Ô tô thuê riêng
Xe khách
Máy bay
Tổng cộng
Số ca
548
17
4
5
574
Nhận xét: Hầu hết bệnh nhân được chuyển
viện bằng xe cấp cứu của bệnh viện. Có một tỉ lệ
nhỏ bệnh nhân được chuyển bằng máy bay từ
các tỉnh xa xôi như Phú Quốc, Đà Nẵng.
05/2013, theo phương pháp lấy mẫu hệ thống
Nhân viên hộ tống chuyển viện
với khoảng cách mẫu là 8, chúng tôi đã tiến
Bảng 5:
hành khảo sát chuyển viện trong 45 ngày và 574
trường hợp chuyển viện đã được khảo sát.
Phân bố tuổi
Số ca
176
137
142
119
574
Tỉ lệ (%)
30,7
23,9
24,7
20,7
100
Giới tính
Bảng 2:
450
Số ca
569
5
574
Tỉ lệ (%)
99,1
0,9
100
Thành phần nhân viên hộ tống chuyển viện
Bảng 6:
Nhận xét: Trẻ sơ sinh được chuyển viện
chiếm tỉ lệ khá cao 30,7% trường hợp.
Nhân viên hộ tống
Có
Không
Tổng cộng
Nhận xét: Phần lớn các trường hợp chuyển
viện đều có nhân viên hộ tống (99,1%).
Bảng 1:
Nhóm tuổi
Sơ sinh
< 1 tuổi
1 – 5 tuổi
> 5 tuổi
Tổng cộng
Tỉ lệ (%)
95,5
2,9
0,7
0,9
100
Thành phần
Bác sĩ
Điều dưỡng
Nữ hộ sinh
Thành phần khác
Không NVYT
Tổng cộng
Số ca
34
495
37
3
5
574
Tỉ lệ (%)
6
86,2
6,4
0,5
0,9
100
Nhận xét: Thành phần hộ tống chuyển
viện chủ yếu là điều dưỡng (86,2%).
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Nghiên cứu Y học
Theo dõi bệnh nhân trong quá trình
chuyển viện
Bệnh nhân được cấp cứu ngay khi nhập
viện
Bảng 7:
Bảng 11:
Theo dõi
Có
Không
Tổng cộng
Số ca
344
230
574
Tỉ lệ (%)
59,9
40,1
100
Nhận xét: Gần ½ bệnh nhân chuyển viện
không được theo dõi trong quá trình chuyển
viện.
Biến cố xảy ra trong quá trình chuyển viện
Bảng 8:
Biến cố
Có
Không
Tổng cộng
Số ca
117
457
574
Tỉ lệ (%)
20,4
79,6
100
Nhận xét: trong quá trình chuyển viện có
20,4% trường hợp có xảy ra biến cố.
Phân bố các loại biến cố
Bảng 9:
Loại biến cố
Sốc
Tím tái
Hôn mê
Ngưng thở
Chết trước nhập viện
Ngưng tim
Co giật
Tụt ống nội khí quản
Số ca
71
68
55
34
31
27
19
5
Tỉ lệ (%)
12,4
11,8
9,6
5,9
5,4
4,7
3,3
0,9
Cấp cứu
Có
Không
Tổng cộng
Số ca
268
306
574
Tỉ lệ (%)
46,7
53,3
100
Tình trạng cấp cứu
Bảng 12:
Tình trạng cấp cứu
Suy hô hấp
Hôn mê
Sốc
Ngưng thở
Ngưng tim
Chết trước khi nhập viện
Co giật
Khác
Tổng cộng
Số ca
240
93
82
49
31
31
21
16
574
Tỉ lệ (%)
41,8
16,2
14,3
8,5
5,4
5,4
3,7
2,8
100
Nhận xét: Bệnh nhân được chuyển viện
trong tình trạng không ổn dịnh cần xử trí cấp
cứu ngay khi nhập viên còn khá cao (46,7%).
Trong đó bệnh nhi bị suy hô hấp chiếm đa số
(41,8%). Trong đó có một tỉ lệ không nhỏ 5,4%
bệnh nhi chết trước nhập viện.
Tử vong trong 24 giờ đầu nhập viện
Bảng 13:
Tử vong trong 24 giờ đầu nhập viện
Không
Có
Tổng cộng
Số ca Tỉ lệ (%)
517
90,1
57
9,9
574
100
Nhận xét: Biến cố thường gặp khi chuyển
viện là sốc 12,4%, kế đó là tím tái (11,8%), đặc
biệt có 5,4% trường hợp chết trên đường
chuyển viện.
Nhận xét: tỉ lệ bệnh nhi tử vong trong 24 giờ
đầu từ khi nhập viện là 9,9%.
Xử trí biến cố
Bảng 14:
Khi có xảy ra biến cố chỉ có 17,1% trường
hợp được xử trí.
Bảng 10:
Xử trí biến cố
Có
Không
Tổng cộng
Số ca
20
97
117
Tỉ lệ (%)
17,1
82,9
100
Phân bố tử vong theo chẩn đoán ra viện
Nhóm bệnh tử vong
Bệnh lý chu sinh
Bệnh hô hấp
Bệnh lý thần kinh
Bệnh lý nhiễm trùng
Bệnh tim mạch
Các bệnh khác
Tổng cộng
Số ca
26
11
9
7
1
3
57
Tỉ lệ (%)
45,6
19,3
15,8
12,3
1,8
5,2
100
Nhận xét: bệnh chuyển viện có tỉ lệ tử vong
cao nhất đó là bệnh lý sơ sinh (45,6%).
Nhi Khoa
451
Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Mối tương quan giữa các yếu tố chuyển
viện với tình trạng cấp cứu khi nhập viện
khi phân tích đa biến
Suy hô hấp khi chuyển viện là có mối liên
quan mạnh nhất với tình trạng xử trí cấp cứu
khi nhập viện, kế đó là có thực hiện thủ thuật
trước khi chuyển, tình trạng bệnh nhân không
ổn định khi chuyển viện, hỗ trợ hô hấp không
phù hợp, có xảy ra biến cố khi chuyển viện, và
cuối cùng là tuổi ≤ 1 tuổi.
Bảng 15
Yếu tố liên quan
≤ 1 tuổi
Có thực hiện thủ thuật CV
Tình trạng không ổn định khi CV
Có xảy ra biến cố trong quá trình CV
Hỗ trợ hô hấp không phù hợp
Suy hô hấp khi CV
RR (khoảng tin cậy 95%)
2,373 (1,061-5,308)
6,95 (1,788-27,021)
9,324 (1,825-47,629)
3,394 (1,244-9,263)
6,805 (1,501-30,858)
15,295 (2,502-93,496)
Mối tương quan giữa các yếu tố chuyển viện
với tử vong 24 giờ khi phân tích đa biến
Bảng 16:
Yếu tố liên quan RR (khoảng tin cậy 95%)
P
Suy hô hấp nặng có
30,121 (4,020-225,7)
0,001
đặt NKQ CV
Hỗ trợ hô hấp không 39,421 (10,442-148,816) < 0,0001
phù hợp
Có xảy ra biến cố lúc 11,935 (3,291-43,278) < 0, 0001
CV
Nhận xét: hỗ trợ hô hấp không phù hợp, và
có xảy ra biến cố trên đường chuyển viện là 2
yếu tố liên quan mạnh nhất với tử vong 24 giờ,
cuối cùng là bệnh nhân bị suy hô hấp nặng có
đặt nội khí quản khi chuyển viện.
BÀN LUẬN
Trong khoảng thời gian 1 năm, chúng tôi
khảo sát được 574 trường hợp chuyển viện từ
các cơ sở y tế đến khoa cấp cứu bệnh viện Nhi
Đồng 1, chúng tôi nhận thấy lứa tuổi thường
được chuyển viện là < 1 tuổi (54,6%), điều này
phù hợp với mô hình bệnh tật ở trẻ em, đa số
các bệnh tật và tử vong xảy ra ở năm đầu tiên
của trẻ(6).
Đa số bệnh nhân được chuyển từ các tỉnh
(71,3%), phần lớn từ bệnh viện đa khoa tỉnh
(54,1%), cho thấy hơn một nửa tổng số bệnh
nhân chuyển viện là nặng, quá khả năng điều trị
của bệnh viện tuyến tỉnh. Phần lớn bệnh nhi
được chuyển viện bằng xe cấp cứu (95,5%), và
có nhân viên y tế theo hộ tống (99,1%), đa phần
là điều dưỡng (86,2%), tuy nhiên chỉ có 59,9%
452
p
0,035
0,005
0, 007
0,017
0,013
0,003
trường hợp nhân viên chuyển viện có theo dõi
bệnh nhi trong quá trình chuyển viện. Điều
đáng quan tâm là biến cố xảy ra trong quá trình
chuyển viện là rất cao (20,4%), qua khảo sát
chúng tôi thấy, không xử trí biến cố do không
phát hiện biến cố là rất cao 82,9%, ngoài ra còn
một tỉ lệ không nhỏ là 6,4% phát hiện ra biến cố
nhưng nằm ngoài khả năng xử trí của nhân viên
chuyển viện. Xem lại thành phần nhân viên
chuyển viện, chúng tôi nhận thấy phần lớn chỉ
có 1 điều dưỡng hoặc 1 nữ hộ sinh theo chuyển
viện. Tuy nhiên trong điều kiện bị hạn chế về
nhân lực như hiện nay, thành phần chuyển viện
không thể nào khác hơn được. Vì vậy, việc huấn
luyện kỹ năng xử trí cấp cứu chuyển viện cho
đội ngũ y tế là một nhu cầu thiết yếu, đặc biệt là
đào tạo chuyển viện cho điều dưỡng.
Tử vong 24 giờ đầu nhập viện còn khá cao
9,9% tổng số bệnh nhi chuyển viện, trong đó
bệnh lý sơ sinh tử vong nhiều nhất 45,6%. Do
đó, chúng ta cần tăng cường năng lực cho các
đơn nguyên sơ sinh. Cần chú trọng hơn trong
hoạt động huấn luyện, chuyển giao kỹ thuật về
sơ sinh cho các tuyến.
Qua phân tích đa biến chúng tôi thấy, bệnh
nhân trong quá trình chuyển viện có xảy ra biến
cố, hoặc được hỗ trợ hô hấp không phù hợp
trong quá trình chuyển, đặc biệt là những bệnh
nhân bị suy hô hấp nặng cần đặt nội khí quản có
mối liên quan mật thiết đến tử vong 24 giờ đầu.
Do đó, để giảm thiểu tử vong trong 24 giờ đầu,
thực hiện chuyển viện an toàn là một trong
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
những biện pháp cấp bách cần được thực hiện.
Điều này chứng minh cho các báo cáo đã được
công bố(5,9,10).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
Advanced life support group (2001), “Transport of children”,
Advanced peadiatric life support, The practice approach,
third edition, BMJ publish group, London, pp.255‐259.
Barry P, Leslie A (2004), “Peadiatric and Neonatal critical care
transport”, BMJ Publishing Group.
Bary PW (1994), “Adverse events occury during interhospital
transfer of the critically ill”, Arch Dis Child, 71(1), pp.8‐11.
Durbin DR (1997), “Preparing the child for interhospital
transport”, Textbook pediatric emergency procedures,
Edited by Fred M. Henretig, William & Wilkins, Baltimor,
pp.1401‐1406.
Hoàng Trọng Kim (2003), “Tình hình sức khoẻ bệnh tật trẻ
em Việt Nam năm 2001”, Giáo trình bài giảng nhi khoa
sau đại học
Kanter RK, Tompkins JM (1989), “Adverse events during
interhospital transport: physiologi deterioration associated
with pretransport severity of illness”, Pediatrics, 84(1), pp.
43‐8.
Macnab JB (1994), “Interfacility transport”, Handbook of
pediatric life support, second edition, Mosby – year book,
Nhi Khoa
8.
9.
10.
11.
12.
Nghiên cứu Y học
Baltimore, pp. 539‐554
Nguyễn Thu Nhạn (2000), “Nghiên cứu thực trạng sức khoẻ
và mô hình bệnh tật trẻ em Việt Nam, đề xuất các biện pháp
khắc phục”,Nhi khoa, Hội Nhi Khoa Việt Nam, Nhà xuất bản
y học, Hà Nội, 10 (số đặc biệt), tr.1‐19
Phạm Lê An (2004), “Chuyển viện an toàn cho bệnh nhi”, Nhi
khoa chương trình đại học, Nhà xuất bản y học, TP.HCM, tập
1, tr. 409 – 419
Viện Nhi khoa (2000), “Công tác chăm sóc sức khoẻ trẻ em
1991 – 2000 và định hướng chiến lược chăm sóc sức khoẻ trẻ
em giai đoạn 2001‐ 2010”, Hội nghị nhi khoa toàn quốc lần
thứ XVII, 6‐11‐2000, Hà Nội
Võ Công Đồng (2001), “Tổng quan về chuyển bệnh nhi”, Cấp
cứu nhi khoa, Tài liệu lưu hành nội bộ, Bệnh viện Nhi Đồng
2, tr. 43‐44.
Vũ Thị Thuỷ (2002), “Nghiên cứu thực trạng hồi sức cấp
cứu nhi tại các tuyến trong thành phố”, Nhi khoa, Hội nhi
khoa Việt Nam, Nhà xuất bản y học, Hà Nội, 10 (số đặc
biệt), tr. 30‐35.
Ngày nhận bài báo: 01/11/2013
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 05/11/2013
Ngày bài báo được đăng: 05/01/2014
453