Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Nhân một trường hợp u trong sọ có hủy xương ở người có tuổi mắc nhiều bệnh lý khác

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (464.82 KB, 6 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 

Nghiên cứu Y học

NHÂN MỘT TRƯỜNG HỢP U TRONG SỌ CÓ HỦY XƯƠNG  
Ở NGƯỜI CÓ TUỔI MẮC NHIỀU BỆNH LÝ KHÁC 
Lê Điền Nhi*, Phạm Ngọc Anh** 

TÓM TẮT 
Nhóm người có tuổi thường chịu đựng tốt những phẫu thuật thần kinh. Tuy vậy, nếu người có tuổi mắc 
thêm các bệnh khác thì cần hết sức thận trọng trong quyết định phẫu thuật và các phương thức can thiệp, đồng 
thời phải trình bày cho thân nhân biết rõ bệnh trạng và tiên lượng bệnh. Tác giả trình bày trường hợp một phụ 
nữ 75 tuổi đang điều trị bệnh tăng huyết áp và thiểu năng vành, từ nhiều tháng nay phát hiện một khối u dưới 
da đầu vùng trán ‐ đính bên trái lớn dần. CT‐scan sọ não cho thấy 1 khối choán chỗ ngoài trục vùng trán bên trái 
kích thước 50x50 mm, đậm độ nhu mô, gây hủy rộng xương sọ trán và chèn ép nhẹ nhu mô não bên dưới. Bệnh 
có chỉ định phẫu thuật nhưng chẩn đoán trước mổ còn nghi vấn vì có hủy xương sọ. Vì vậy, thân nhân người 
bệnh yêu cầu can thiệp với phẫu thuật tối thiểu ‐ trong khi chờ kết quả giải phẫu bệnh ‐ chỉ lấy khối u mà không 
tái tạo lại phần khuyết sọ rộng. Sau mổ người bệnh bị biến chứng tụ máu dưới da đầu lớn do không tái tạo vùng 
khuyết sọ để làm nền ép khoảng trống dưới da đầu, do vậy thời gian nằm viện kéo dài. Kết quả giải phẫu bệnh:“U 
màng não thể hợp bào, độ I”. 5 tháng sau mổ, lâm sàng và hình ảnh học cho thấy tình trạng người bệnh ổn 
định nhưng cần được tiếp tục theo dõi. 
Từ khóa: Người có tuổi; u trong sọ có hủy xương; u màng não thể hợp bào; tái tạo phần khuyết sọ. 

ABSTRACT 
INTRACRANIAL TUMOR WITH CRANIAL BONE DESTRUCTION IN AN ELDERLY PATIENT WITH 
INTERCURRENT ILLNESSES. CASE REPORT 
Le Đien Nhi, Phạm Ngọc Anh * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 4 ‐ 2013: 54 ‐ 59 
The  elderly  patients  tend  to  tolerate  neurosurgical  interventions  remarkably  well.  But  the  neurosurgeon 
ought to be careful in the surgical making decision if the elderly has the intercurrent illnesses and has to explain 
clearly the risk‐taking to their families. The authors report the case of a 75 y.o. woman with a left large fronto‐
parietal scalp mass. This mass enlarges progressively from many months. Her intercurrent illnesses are arterial 


hypertension and heart problems. The CT‐scans show a left frontal extra‐axial mass with the size 50 x 50 mm. 
This space‐occupying mass causes a large left frontal bone destruction and a slight compression on the adjacent 
brain. The surgical indication is formal but the preoperative diagnosis is much more doubtful in this case with 
bone destruction. Therefore, the patient ‘s relatives request us to perform the mini‐invasive surgery – ablation of 
the tumor without cranioplasty and wait for the histologic results of the specimen. Post‐operative complication is 
a  large  subgaleal  hematoma,  because,  without  the  cranioplasty,  we  can’t  perform  compressive  dressing  of  the 
scalp, and so, the hospital stay of this patient is long. The histologic result of tumor is “Meningeal meningioma, 
grade I”. Five months after, clinical and imaging studies show that the patient status is stabilized and we need a 
long time for the follow‐up of this patient.  
Key words: Eldely patient; intracranial tumor with cranial bone destruction; meningothelial meningioma; 
cranioplasty. 

TRƯỜNG HỢP LÂM SÀNG 

Một  phụ  nữ  75  tuổi  vào  viện  ngày 

*

 Trường ĐHYK Phạm Ngọc Thạch Tp.HCM 
** Bệnh viện Cấp cứu Trưng Vương 
Tác giả liên lạc: Ts.Bs. Lê Điền Nhi 
ĐT: 0909025672
Email: 

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Cấp Cứu Trưng Vương 2013 

53


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013


Nghiên cứu Y học 

03/10/2012 tại Bệnh viện Cấp cứu Trưng Vương 
với  khối  u  căng  dưới  da  đầu  ở  vùng  trán  bên 
trái.  Khối  u  xuất  hiện  từ  nhiều  tháng  nay,  lớn 
dần đến kích thước hiện tại 6 cm x 6 cm. Người 
bệnh tỉnh, thể trạng gầy yếu, tiếp xúc tốt, không 
dấu  hiệu  thần  kinh  khu  trú,  có  tiền  sử  tăng 
huyết áp và thiểu năng vành, đang được điều trị 
và theo dõi ở một bệnh viện tại TP.Hồ Chí Minh. 
CT‐scan sọ não ngày 19/9/2012 ghi nhận một 
khối  choán  chỗ  ngoài  trục  ở  vùng  trán  bên  trái 
kích thước 50 mm x 50mm, giới hạn rõ, có đậm 

độ như nhu mô não, khối này gây hủy một vùng 
rộng xương trán và đè ép nhẹ mô não bên dưới. 
Không  thấy  bất  thường  về  đậm  độ  ở  nhu  mô 
não (hình 1,2).  
Xạ  hình  xương  toàn  thân  thực  hiện  ngày 
27/9/2012 cũng cho thấy hình ảnh hủy xương bất 
thường  ở  xương  trán‐thái  dương  trái  chưa  rõ 
bản chất. Chẩn đoán trước mổ  còn nghi ngờ vì 
có hủy rộng xương sọ trán trái.  
 

 
 Hình 1: CT‐scan: Cửa sổ xương  

 

 Hình 2: Cửa sổ nhu mô 

 Hình 1,2: CT‐scan sọ não ngày 19/9/2012: Khối u gây hủy xương vùng trán trái. 
từng  lớp.  Diễn  tiến  ngày  đầu  sau  mổ:  người 
Sau khi được giải thích rõ về bệnh trạng của 
bệnh tỉnh sớm, không xuất hiện các dấu hiệu bất 
người bệnh và về chỉ định phẫu thuật, tất cả các 
thường về sinh hiệu và thần kinh, ống dẫn lưu 
người con, do lo sợ có thể là một khối u ác tính 
vết mổ cũng không ra nhiều máu.  
nên  yêu  cầu  chỉ  thực  hiện  cuộc  mổ  nhanh  và 
đơn giản – lấy khối u để thử giải phẫu bệnh và 
không tái tạo lỗ khuyết xương sọ – vì sợ những 
biến  chứng  sau  mổ.  Bác  sĩ  gây  mê  được  mời 
khám và các xét nghiệm trước mổ cho phép thực 
hiện  cuộc  mổ  với  gây  mê  toàn  thân.  Cuộc  mổ 
được thực hiện trong 2 giờ 30 phút, từ 8g10 đến 
10g40 ngày 6/10/2012: khối u nằm ngay dưới da 
đầu, kích thước 8 cm x 7 cm, mật độ chắc, có vỏ 
bao,  u  hủy  một  vùng  sọ  trán  trái  rộng,  ăn  lan 
đến màng cứng và chèn ép nhiều màng cứng ở 
vùng  này  nhưng  chưa  xâm  nhập  qua  màng 
cứng.  Toàn  bộ  khối  u  được  lấy  hết,  không  gặp 
khó  khăn  về  cầm  máu.  Màng  cứng  quanh  lỗ 
khuyết  sọ  được  treo  lên,  khâu  đính  vào  cân  cơ 
dưới  da  nhưng  không  thể  treo  màng  cứng  ở 
trung tâm vì không tái tạo vùng sọ khuyết (hình 
3,4,5,6). Dẫn lưu vùng mổ trước khi khâu vết mổ 

54


 
Hình 3: Vị trí và hình dạng khối u trước mổ 

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Cấp Cứu Trưng Vương 2013  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 

 
 Hình 4: Bóc tách và lấy khối u 

 

Nghiên cứu Y học

không thể băng ép vết mổ để làm giảm khoảng 
trống  đó  do  đó  xảy  ra  biến  chứng  tụ  máu  lớn 
dưới lớp galea. Chúng tôi cũng đã thuyết phục 
gia  đình  người  bệnh  về  việc  mổ  lần  thứ  hai  để 
giải quyết các thiếu sót trên nhưng vì sợ các biến 
chứng  sau  mổ  nên  thân  nhân  cương  quyết  xin 
tiếp  tục  các  phương  thức  nội  khoa.  Biện  pháp 
chọc hút một phần máu tụ dưới da và băng ép 
nhẹ da đầu cũng được thực hiện nhưng chỉ giúp 
giảm bớt một phần máu tụ dưới da đầu. Người 
bệnh được tiếp tục theo dõi diễn biến lâm sàng 
và  hình  ảnh  học  trong  khi  vẫn  tiếp  tục  điều  trị 
bệnh  tăng  huyết  áp  và  tim  mạch.  Tình  trạng 
người bệnh ổn định, ăn uống được, vết mổ khô, 

không  xuất  hiện  các  dấu  hiệu  trở  nặng  về  tình 
trạng tri giác và thần kinh.  

 
 
Hình 5: Màng cứng được treo lên quanh lỗ khuyết 
xương 

 
Hình 7: CT‐Scan sọ não ngày 08/10/2012: Máu tụ 
lớn dưới da đầu ngay nơi mổ khối u, có gây ép màng 
cứng. 

 
 Hình 6: Khối u được lấy ra 

 

Tuy  vậy,  CT‐scan  sọ  não  chụp  kiểm  tra  24 
giờ sau mổ cho thấy có khối máu tụ lớn dưới da 
đầu  ngay  vị  trí  đã  lấy  khối  u.  Các  xét  nghiệm 
thực  hiện  cho  thấy  chức  năng  đông  máu  bình 
thường. Người bệnh có tuổi nên da  đầu  mỏng, 
mạch  máu  dễ  vỡ,  chỗ  lấy  khối  u  để  lại  một 
khoảng trống lớn dưới da đầu nhưng vì không 
tái tạo chỗ hủy xương sọ bằng nắp sọ nhân tạo 
nên  không  thể  treo  màng  cứng  trung  tâm  và 

 
Hình 8: CT‐Scan sọ não 20/11/2012 máu tụ dưới da 

đầu giảm bớt. 

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Cấp Cứu Trưng Vương 2013 

55


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013

Kết  quả  giải  phẫu  bệnh  khối  u  ngày 
11/10/2012:  
  Giải phẫu bệnh đại thể: Mô 6 x 5 x 4 cm. 
  Giải phẫu bệnh vi thể: gồm các tế bào lớn, 
đa diện, bào tương ưa acid. Nhân tròn, hạt nhân 
rõ.  Có  các  đại  bào  nhân  quái.  Các  tế  bào  xếp 
thành đám hoặc thành bè, dầy, mô đệm có thoái 
hóa  trong  và  cầu  canxi.  Nhuộm  hóa  mô  miễn 
dịch: CK (‐), EMA (+), KI 67 (+) 30%. 
Chẩn đoán: U màng não lành, dạng hợp bào 
(Meningothelial meningioma, grade I).  

 
Hình 9: CT‐scan sọ não 15/3/2013 (5 tháng sau mổ)  

BÀN LUẬN 
Việc phân chia già trẻ theo tuổi không phản 
ảnh chính xác quá trình sinh học, chỉ có tính chất 
ước  lệ  và  có  một  giá  trị  tương  đối.  Hiện  nay 

nhiều nước sắp xếp các lứa tuổi theo cách phân 
loại của Tổ chức Y tế thế giới(8,10): 
45 tuổi đến 59 tuổi: người trung niên; 60 tuổi 
đến 74 tuổi: người có tuổi. 
75 tuổi đến 90 tuổi: người già; 90 tuổi trở đi: 
người già sống lâu. 
Người có tuổi có nhiều thay đổi về sinh lý và 
giải  phẫu  của  cơ  thể  so  với  lúc  còn  trẻ,  vì  vậy 
phải  khám  bệnh  thật  kỹ,  nếu  bệnh  có  chỉ  định 
phẫu thuật phải lượng giá thật đầy đủ tình trạng 
người  bệnh,  kể  cả  những  bệnh  kèm  theo,  cân 
nhắc  thận  trọng  các  lợi  ích  cho  người  bệnh  và 
những nguy cơ biến chứng trước khi quyết định. 
Thân  nhân  người  bệnh  cũng  phải  được  giải 

56

  Vết mổ diễn biến tốt, sau 3 tuần lễ người 
bệnh được ra viện nhưng vẫn tái khám thường 
xuyên để theo dõi. Người bệnh đi lại được, bớt 
đau  đầu,  vết  mổ  vùng  trán  trái  cũng  lõm  dần, 
tiếp tục điều trị với bác sĩ nội khoa tim mạch và 
tái khám đều đặn với chúng tôi. CT‐scan sọ não 
ngày 15/3/2013 (5 tháng sau mổ) cho thấy không 
còn máu tụ dưới da đầu nơi vết mổ, không thấy 
dấu hiệu tái phát u nhưng có dấu hiệu tràn dịch 
não  thất.  Chúng  tôi  vẫn  liên  lạc  thường  xuyên 
với gia đình người bệnh để tiếp tục theo dõi. 

 

Hình 10: Ảnh vết mổ đầu chụp ngày 07/02/2013 
thích đầy đủ về mọi tình huống có thể xảy ra để 
quyết định phương thức điều trị thích hợp.  
Trên đây là một trường hợp bệnh lý sọ não 
phức  tạp  xảy  ra  ở  một  người  có  tuổi,  thể  trạng 
gầy yếu, đang mắc thêm một số bệnh nội khoa 
khác, đến khám vì một khối u da đầu lớn ở vùng 
trán trái. CT‐scan sọ não cho thấy khối u có hủy 
xương  sọ  trán  rộng  và  có  chèn  ép  nhẹ  nhu  mô 
não.  Với  một  người  có  tuổi  thì  nhiều  loại  bệnh 
cần phải nghĩ đến trong chẩn đoán: u xương sọ 
(osteoma),  plasmacytoma,  multiple  myeloma, 
sarcoma,  u  do  di  căn  …  Riêng  u  màng  não  dù 
lành hay ác tính đều có thể xâm nhập xương sọ 
gây  ra  tăng  sinh  xương  hay  gây  hủy 
xương(1,2,3,5,6,7,8,10).  Trong  những  trường  hợp  nghi 
ngờ  thì  sinh  thiết  trong  khi  mổ  giúp  rất  nhiều 
cho việc thực hiện phương thức mổ hoàn chỉnh. 
Trong  trường  hợp  lâm  sàng  nầy,  việc  không 
thực hiện sinh thiết khối u trong khi mổ‐ dù do 
không  đủ  điều  kiện  thực  hiện  ‐  cũng  là  một 

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Cấp Cứu Trưng Vương 2013  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 
thiếu sót, vì nếu biết sớm kết quả là u lành tính 
thì  thân  nhân  người  bệnh  có  thể  dễ  chấp  nhận 
cuộc  mổ  kéo  dài  hơn  để  tái  tạo  vùng  khuyết 
xương sọ và với các tiến bộ y khoa hiện nay, các 

phương tiện vá sọ rất đa dạng, có thể thực hiện 
nhanh  và  an  toàn(4,9,10,11)..  Tuy  vậy,  chúng  ta  cần 
biết việc thực hiện và đọc bệnh phẩm sinh thiết 
ngay cũng lệ thuộc vào nhiều yếu tố: việc xử lý 
bệnh phẩm cần nhiều mẫu cắt khác nhau, trình 
độ  chuyên  môn  của  người  đọc  kết  quả  …,  và 
thông  thường  sau  khi  có  kết  quả  sớm  ban  đầu 
để giúp nhóm mổ quyết định hướng xử lý, vẫn 
phải tiếp tục thực hiện quy trình thông thường 
về  giải  phẫu  bệnh  để  tránh  những  lầm  lẫn  về 
chẩn đoán(2,7,10).  
Chỉ  định  mổ  trong  trường  hợp  nầy  đúng, 
các  bệnh  kèm  theo  cũng  được  điều  chỉnh  tốt. 
Kíp mổ bắt buộc phải chú ý đến sự lo lắng và ý 
nguyện của thân nhân người bệnh: không muốn 
thực hiện cuộc mổ lớn kéo dài nhiều giờ ở người 
có  tuổi  nhiều  bệnh,  trong  khi  chưa  thể  loại  trừ 
được  khối  u  ác  tính  với  những  biến  chứng 
không lường trước được nên yêu cầu một cuộc 
mổ  nhanh,  đơn  giản  và  chờ  đợi  kết  quả  giải 
phẫu  bệnh  sau  cùng.  Kíp  mổ  ‐  do  tôn  trọng  ý 
nguyện  này  ‐  thực  hiện  cuộc  mổ  với  phương 
thức phẫu thuật giới hạn kể trên, tuy không gặp 
khó khăn về cầm máu, cũng không lường trước 
được các biến chứng do sự thay đổi về sinh lý, 
cơ thể học ở người có tuổi, da đầu mỏng, mạch 
máu da đầu dễ vỡ, chảy máu vào khoảng trống 
sau khi lấy hết khối u, gây ra tụ máu lớn dưới da 
đầu ở vùng mổ những ngày sau mổ. May mắn 
là phương thức treo màng cứng xung quanh chỗ 

khuyết xương sọ cũng giúp khối máu tụ không 
chèn ép nhiều vào mô não bên dưới. Như vậy, ở 
người  bệnh  có  tuổi,  việc  tái  tạo  chỗ  khuyết  sọ 
lớn bằng các phương tiện vá sọ nhân tạo là yếu 
tố quan trọng giúp việc ép cầm máu sau mổ và 
treo  màng  cứng  trung  tâm  có  hiệu  quả 
hơn(1,3,4,9,10,11).  
Khi có kết quả CT‐scan sọ não sau mổ, thân 
nhân  người  bệnh,  dù  đã  được  giải  thích  và 
thuyết  phục  vẫn  không  đồng  ý  cho  thực  hiện 

Nghiên cứu Y học

phẫu thuật cầm máu  vì  thế  thời  gian  nằm  viện 
của  người  bệnh  kéo  dài.  Dù  kết  quả  giải  phẫu 
bệnh là khối u lành tính (2),chúng tôi vẫn tiếp tục 
theo dõi lâu dài người bệnh vì với người có tuổi, 
có thể có những tình huống bất ngờ do các bệnh 
đi kèm ảnh hưởng đến(1,2,5,8). 

KẾT LUẬN 
Trường  hợp  bệnh  lý  sọ  não  kể  trên  giúp 
chúng tôi có thêm kinh nghiệm ứng phó khi gặp 
những  trường  hợp  bệnh  lý  phức  tạp  về  thần 
kinh ở người có tuổi. Do những thay đổi về sinh 
lý và cơ thể ở người có tuổi khác với ở người trẻ 
tuổi,  cho  nên  cần  thực  hiện  các  phương  thức 
phẫu thuật thần kinh phù hợp với các thay đổi 
đó. Phương châm tốt nhất là hết sức thận trọng 
trong  việc  chẩn  đoán,  đánh  giá  thật  kỹ  bệnh 

trạng,  cân  nhắc  giữa  lợi  ích  cho  người  bệnh  và 
nguy  cơ  có  thể  xảy  ra,  tư  vấn  đầy  đủ  cho  thân 
nhân người bệnh về mọi tình huống có thể xảy 
ra(1,8,9,10,11)  nhưng  cũng  phải  kiên  quyết  thuyết 
phục  họ  để  thực  hiện  được  tất  cả  các  phương 
thức hoàn chỉnh của cuộc mổ để tránh các biến 
chứng  làm  kéo  dài  thời  gian  nằm  viện  hoặc  đe 
dọa đến tính mạng người bệnh. Nếu người bệnh 
có  tuổi  có  những  bệnh  kèm  theo  thì  việc  trao 
đổi, phối hợp với các chuyên khoa liên quan hết 
sức  cần  thiết  trước  khi  quyết  định  can  thiệp 
phẫu thuật (5,6,9,11).  

TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.
2.

3.

4.
5.

6.

7.

Al  –Mefty  Ossama  (1991),  Meningiomas,  Raven  Press  Ltd, 
New York. 
Drevelegas  Antonios  (Editor)  (2011),  Imaging of Brain Tumors 
with Histological Correlations, a Second edition, Springer‐Verlag 

Berlin Heidelberg. 
Greenberg  Mark  S.  (2010),  Handbook of Neurosurgery,  Ch.  21: 
Tumors, pp. 582‐768: ‐21‐2‐6: Meningiomas, pp. 613‐620; ‐ 21‐
4: Skull Tumors, 698‐701; ‐ 21‐5: Cerebral Metastases, pp.702‐
719, seventh edition, Greenberg Graphics Inc. 
Kaye  Andrew  H.  (2005),  Essential  Neurosurgery,  3rd  edition, 
Blackwell Publishing Ltd. 
Lê Điền Nhi (2000), Nhận xét qua một số u màng não ác tính và u 
màng não tái phát, Y học TP. Hồ Chí Minh, số đặc biệt chuyên 
đề ung bướu học, phụ bản số 4, tập 4, trang 385‐390. 
Lê  Xuân  Trung  và  cộng  sự  (2003),  Bệnh  học  phẫu  thuật  thần 
kinh, chương 10: U màng não, u các dây thần kinh sọ, u sàn sọ 
và  một  vài  loại  u  khác,  trang  138‐151,  Lê  Xuân  Trung,  Nhà 
Xuất bản Y học Hà Nội. 
Osborn  Anne  G.  (2004),  Diagnostic  Imaging  BRAIN,  First 
edition, AMIRSYS. 

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Cấp Cứu Trưng Vương 2013 

57


Nghiên cứu Y học 
8.
9.

10.

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013


Phạm Khuê (2000), Bệnh học tuổi già, Nhà Xuất bản Y học, Hà 
Nội. 
Schmidek  Henry  H.,  Roberts  David  W.  (2006),  Schmidek  & 
Sweet  Operative  Neurosurgical  Techniques,  Indications,  Methods, 
and  Results,  Ch.51:  Surgical  Management  of  Convexity, 
Parasagittal, and Falx Meningiomas, Bernd M. Hoffmann and 
Rudolf  Fahlbusch,  pp.  721‐738;  Fifth  edition,  Saunders 
Elsevier. 
Selman  Warren  R.,  Benzel  Edward  C.,  AANH  Publications 
Committee  (1999),  Neurosurgical  Care  of  the  Elderly, 
Neurosurgical  Topics:  Ch.6:  Malignant  Meningiomas, 
Salcman  Michael,  pp.  75‐85;  Ch.12:  Meningiomas  in  the 
Elderly and Asymptomatic Meningiomas, Rengachary Setti S. 

11.

and  Suskind  Dana  L.,  pp.  153‐159,  Library  of  Congress 
Catalog. 
Youmans  Julian  R.  (Editor‐in‐Chief)  (1996),  Neurological 
Surgery, Vol.4, Tumors, Ch. 125: Brain Metastases, Young B., 
Patchell  R.A.,  pp.  2748‐2760;  Ch.127:  Meningiomas,  Mc 
Dermott M.W, Wilson C.B., pp. 2782‐2825; Ch. 141: Tumors of 
the Scalp, Hoffman W.Y., pp. 3073‐3083; Fourth edition, W.B. 
Saunders Company. 

 
Ngày nhận bài   

 


 

 20/08/2013. 

Ngày phản biện  nhận xét bài báo 

 29/08/2013. 

Ngày bài báo được đăng: 

10/10/2013 

 

 

58

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Cấp Cứu Trưng Vương 2013  



×