Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Nghiên cứu Y học
KẾT QUẢ BƯỚC ĐẦU ĐIỀU TRỊ TEO RUỘT NON BẨM SINH
BẰNG PHẪU THUẬT NỘI SOI TRỢ GIÚP Ở SƠ SINH:
KINH NGHIỆM VỚI 25 TRƯỜNG HỢP
Bùi Đức Hậu*, Vũ Mạnh Hoàn*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Mục đích của báo cáo là nghiên cứu khả năng ứng dụng và hiệu quả phẫu thuật nội soi trợ giúp
trong điều trị bệnh teo ruột non bẩm sinh tại Bệnh viện Nhi Trung Ương Hà Nội.
Phương pháp nghiên cứu: Tất cả bệnh nhân bị teo ruột non bẩm sinh được điều trị bằng phẫu thuật nội soi
trợ giúp tại Bệnh viện Nhi Trung Ương từ tháng 2/2010 đến tháng 4/2012. Phẫu thuật được thực hiện qua: 1
trocar 10 mm (single trocar) đặt tại rốn, hoặc phẫu thuật được thực hiện qua 2 Trocar (1 Trocar 3 mm đặt sát
rốn trái và 1 Trocar 5 mm đặt ngang rốn bên phải). Áp lực CO2 8 ‐ 10 mmHg. Đoạn ruột teo đưa ra ngoài thành
bụng qua đường rạch da 2 cm tại vị trí Trocar ở rốn (nếu 1 trocar) hoặc tại vị trí Trocar ở hố chậu phải (nếu 2
trocar). Tiến hành cắt nối ruột ngoài ổ bụng, miệng nối tận ‐ tận sau khi làm nhỏ đầu trên (tapring).
Kết quả: Từ tháng 2/2010 đến tháng 4/2012, 25 bệnh nhân (14 nam, 12 nữ) bị bệnh teo ruột non bẩm sinh
đã được điều trị bằng phẫu thuật nội soi trợ giúp. Tuổi trung bình 3,3 ± 3,7 ngày. 23 trường hợp phẫu thuật nội
soi thực hiện qua 2 Trocar 3 mm ‐ 5 mm, và 2 trường hợp thực hiện qua 1 Trocar 10 mm. Thời gian mổ trung
bình 88 ± 38 phút. Không có tử vong trong mổ, có 1(4%) trường hợp tử vong ngày thứ 2 sau mổ do nhiễm
khuẩn huyết. Biến chứng sau mổ 2 (8,0%) trường hợp phải mổ lại (một bị rò miệng nối và một bị hẹp miệng
nối). Thời gian nằm viện trung bình 7,8 ± 1,6 ngày. Theo dõi sau mổ được 24 bệnh nhân. Thời gian theo dõi
được từ 3‐24 tháng. 2 (8,3%) trường hợp bị tắc ruột sau mổ (một do dính, dây chằng, và một bị vô hạch toàn bộ
đại tràng). Tất cả những trường hợp còn lại đều khỏe.
Kết luận: Phẫu thuật nội soi trợ giúp an toàn, hiệu quả có tính khả thi cao trong điều trị cho hầu hết bệnh
nhân sơ sinh bị teo ruột non bẩm sinh.
Từ khoá: Teo ruột non, phẫu thuật nội soi trợ giúp.
ABSTRACT
LAPAROSOPIC ASSISTED OPERATION IN THE MANAGEMENT
OF CONGENITAL INTESTINAL ASTRESIA IN NEWBORNS:EXPERIENCE WITH 25 CASES
Bui Duc Hau,Vu Manh Hoan * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2013: 32 ‐ 35
Objectives: The aim of this study is to investigate the feasibility and effectiveness of laparoscopic assisted
operation in the management of congenital intestinal atresia.
Methods: Medical records of all patients undergoing laparoscopic‐assisted for congenital intestinal atresia at
the National Hospital of Pediatrics, Hanoi, Vietnam, from February 2010 to April 2012 were reviewed. For
laparoscopic‐assisted, one port of 10 mm (single port) on the umbilicus or two other (3–5 mm) trocars were used.
CO2 insufflation pressure was around 8 ‐ 10 mmHg. The intestinal atresia segments was delivered out of the
abdomen through a minimally enlarged incision on the umbilicus (single trocar) or on the right lower quarter of
abdominal wall (two trocars); the intestinal atresia segments were used by the technique of resection and end to
end anastomosis after tapering the proximal dilated bowel performed extra corporally.
* Bệnh viện Nhi Trung Ương
Tác giả liên hệ: BS. Bùi Đức Hậu
Chuyên Đề Ngoại Nhi
ĐT: 0913522604
Email:
33
Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Results: From February 2010 to April 2012, 25 children (14 males, 11 females) suffering from congenital
intestinal atresia were operated on by laparoscopic–assisted, with a mean age of 3.3 ± 3.7 days. There were 23 LA
cases used two 5 mm ports and 2 laparoscopic assisted cases used single port of 10 mm. Mean operative time was
88 ± 38 minutes. There were no intraoperative deaths. One patient (4%) died on the 2nd postoperative day due to
septicemia. There were 2 (8%) cases of postoperative complications (one anastomotic leakage, and one early
postoperative intestinal obstruction due to anastomotic stenosis). Mean hospital stay after operation was 7.8 ± 1.6
days. Follow‐up was obtained in 24 cases, ranging from 3 to 24 months. There were 2 (8.3%) cases with
postoperative intestinal obstruction (1case was due to adhesion band and 1case was due to total colonic
aganglionic). All other patients remained well.
Conclusions: Laparoscopic management is safe, feasible and effective and should be the treatment of choice
for almost cases of congenital intestinal atresia in newborns.
Key words: Laparoscopic assisted, congenital intestinal atresia.
tranh cãi và cũng chưa có báo cáo nào trình bày
ĐẶT VẤN ĐỀ
kinh nghiệm và đánh giá kết quả vấn đề này,
Teo ruột non bẩm sinh (TRNBS) là nguyên
nên chúng tôi tiến hành đề tài này với mục đích
nhân gây tắc ruột khá phổ biến ở trẻ sơ sinh. Ở
nghiên cứu khả năng ứng dụng và hiệu quả
Mỹ, TRNBS gặp với tỷ lệ 1/130 trẻ mới sinh(4),
phẫu thuật nội soi trợ giúp trong điều trị bệnh
Đan Mạch gặp 1/400. TRNBS, đã được nhiều
teo ruột non bẩm sinh tại bệnh viện Nhi Trung
nhà khoa học trên thế giới nghiên cứu về
Ương Hà Nội.
nguyên nhân, sinh bệnh học, chẩn đoán, điều trị.
Mục tiêu nghiên cứu
Trong những thập kỷ trước phẫu thuật chủ yếu
Mục đích của báo cáo là nghiên cứu khả
là mổ mở, tỷ lệ tử vong còn cao. Gần hai thập kỷ
năng ứng dụng và hiệu quả phẫu thuật nội soi
trở lại đây cùng với sự bùng nổ của khoa học
trợ giúp trong điều trị bệnh teo ruột non bẩm
công nghệ và sự tiến bộ của gây mê hồi sức, tỷ lệ
sinh tại bệnh viện Nhi Trung Ương Hà Nội.
sống của bệnh đã được cải thiện đáng kể. Ở Việt
Nam, các công trình nghiên cứu về dị tật này
còn ít, tỷ lệ tử vong còn cao. Theo tác giả
Nguyễn Văn Đức, bệnh viện Việt Đức, trước
năm 1975, tỷ lệ tử vong là 80%(11); Nguyễn
Thanh Liêm năm 1990 là 59%(10); Nguyễn Kỳ
Minh năm 2002 là 13%(2). Từ năm 1995, Nguyễn
Thanh Liêm đã áp dụng kỹ thuật nối ruột tận‐
tận sau khi tạo hình nhỏ bớt đầu ruột teo phía
trên, kỹ thuật này đã đem lại kết quả điều trị
khả quan hơn. Tuy nhiên, các kỹ thuật trên đều
thực hiện bằng đường mở bụng rộng rãi gây
nên sang chấn phẫu thuật nặng nề đặc biệt với
trẻ sơ sinh(10,8). Từ đầu những năm 2000, phẫu
thuật nội soi (PTNS) được áp dụng phổ biến ở
trẻ em và trẻ sơ sinh tại Bệnh viện Nhi Trung
Ương với sự an toàn cao, trong đó bệnh TRNBS
cũng được áp dụng PTNS trợ giúp để làm giảm
thiểu được sang chấn phẫu thuật nặng nề cho
trẻ sơ sinh. Tuy vậy, việc áp dụng PTNS trợ giúp
như thế nào để đạt hiệu quả cao nhất vẫn còn
34
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Tất cả bệnh nhân bị TRNBS được điều trị
bằng PTNS trợ giúp tại Bệnh viện Nhi Trung
ương từ tháng 2/2010 đến tháng 4/2012. Phẫu
thuật được thực hiện qua: 1 trocar 10 mm (single
trocar) đặt tại rốn, đưa ốp‐tíc có 2 kênh (1 là
camera, 1 kênh làm việc) vào quan sát và dùng
“panh” nội soi cặp chỗ ruột teo đưa ra ngoài ổ
bụng bằng đường rạch da tại rốn 2 cm. Tiến
hành cắt đoạn ruột teo và nối 2 đầu ruột tận tận,
1 lớp bằng PDS 6/0 mũi rời sau khi đã làm nhỏ
(tapring đặt một ống thông Nelaton cỡ 22F dọc
theo bờ mạc treo rồi đánh dấu ba điểm cần cắt
bỏ để tạo hình nhỏ bớt đầu trên, chiều dài đoạn
ruột cần tạo hình từ 3 ‐ 5 cm) đầu ruột trên giãn
và bơm kiểm tra sự lưu thông của đoạn ruột
phía dưới.
Phẫu thuật có thể được thực hiện qua 2
Trocar (1 Trocar 3 mm đặt sát rốn trái và 1
Chuyên Đề Ngoại Nhi
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Trocar 5 mm đặt ngang rốn bên phải). Quan sát
ổ bụng qua trocar ở rốn và dùng “panh” nội soi
cặp chỗ ruột teo đưa ra ngoài ổ bụng bằng
đường rạch da 2cm tại vị trí trocar ở hố chậu
phải. Tiến hành cắt đoạn ruột teo và nối 2 đầu
ruột theo kỹ thuật mô tả trên. Áp lực CO2 ổ
bụng duy trì 8 ‐ 10 mmHg.
KẾT QUẢ
Bảng 1. Tuổi lúc mổ.
Tuổi lúc mổ
< 24 giờ
Từ 24 giờ – 48 giờ
> 48 giờ
Tổng số
Số lượng
4
4
17
25
%
16
16
68
100
Bảng 2. Vị trí teo ruột.
Vị trí teo ruột
Hỗng tràng
Hồi tràng
Tổng số
Số lượng
9
16
25
%
36
64
100
Bảng 3. Thời gian mổ.
Thời gian mổ
< 1 giờ
Từ 1 giờ – 2 giờ
> 2 giờ
Tổng số
Số lượng
2
20
3
25
%
8
80
12
100
Bảng 4. Tử vong sớm sau mổ mở của các tác giả.
Tác giả (Năm công
bố)
N.T.Liem (1993)
Chang (1995)
Ameh (2000)
N.K.Minh (2003)
N.T.Liem (2006)
B.Đ. Hậu (2012)
Nơi nghiên
cứu
Việt Nam
Đài Loan
Nigieria
Việt Nam
Việt Nam
Việt Nam
Tỉ lệ tử vong sớm
(%)
59
12,5
40,9
13
7,7
4
*Nhận xét: Từ tháng 2/2010 đến tháng
4/2012, 25 bệnh nhân (14 nam, 11 nữ) bị bệnh
TRNBS đã được điều trị bằng PTNS trợ giúp.
Tuổi khi mổ nhỏ nhất 1 ngày, lớn nhất 15 ngày,
trung bình 3,3 ± 3,7 ngày (bảng 1). 1(4%) có cân
nặng thấp lúc sinh dưới 2 kg, 96% (24 bệnh
nhân) có cân nặng lúc sinh từ 2 kg trở lên. Vị trí
teo ở hỗng tràng 9(36%) bệnh nhân, hồi tràng 16
(64%) bệnh nhân (bảng 2) Trong 25 bệnh nhân bị
TRNBS được PTNS trợ giúp (23 trường hợp đầu
PTNS thực hiện qua 2 Trocar 5 mm, 2 trường
hợp sau bắt đầu thực hiện qua 1 Trocar 10 mm).
Chuyên Đề Ngoại Nhi
Nghiên cứu Y học
Thời gian mổ trung bình 88 ± 38 phút (ngắn nhất
30 phút, dài nhất 150 phút‐ bảng 3). Không có tử
vong do phẫu thuật, nhưng có 1(4%) trường hợp
tử vong ngày thứ 2 sau mổ nguyên nhân viêm
phổi, nhiễm khuẩn huyết. Biến chứng sau mổ có
2 (8%) trường hơp phải mổ làm lại miệng nối do
một bị rò miệng nối và một bị tắc miệng nối.
Thời gian nằm viện trung bình 7,8 ± 1,6 ngày,
ngắn nhất 5 ngày, dài nhất 53 ngày. Chủ yếu là 2
trường hợp phải mổ lại vì hẹp miệng nối.
Theo dõi sau mổ được 24 bệnh nhân. Thời
gian theo dõi sau mổ từ 3 tháng đến 24 tháng.
Hai trường hợp tắc ruột sau mổ phải mổ lại (1
trường hợp do vô hạch toàn bộ đại tràng phải
mổ cắt bỏ toàn bộ đại tràng, hạ hồi tràng theo
phương pháp Duhamel. 1 trường hợp do dây
chằng gây ngẹt ruột phải mổ cắt nối ruột. Tất cả
24 bệnh nhân đều phát triển bình thường sau
phẫu thuật.
BÀN LUẬN
Kết quả nghiên cứu cho thấy trong 25 bệnh
nhân bị TRNBS trong đó có 14 (56%) nam, 11
(44%) nữ. Bảng 1 cho thấy tuổi mổ trung bình
của chúng tôi 3,3 ± 3,7 ngày. 1 (4%) có cân nặng
thấp lúc sinh dưới 2 kg, 96% (24 bệnh nhân) có
cân nặng lúc sinh từ 2 kg trở lên. Các tỉ lệ này
cũng tương tự như tỉ lệ của một số báo cáo đã
công bố của một số tác giả trong và ngoài
nước(2,4,10). Vị trí teo ruột theo Grosfeld(4) teo ruột
thường có tỉ lệ gần bằng nhau giữa hỗng tràng
(51%) và hồi tràng (49%), trong nghiên cứu của
chúng tôi (bảng 2) tỉ lệ teo ruột thường gặp hơn
cả là ở hồi tràng 64%, ngược với nghiên cứu của
Nguyễn Thanh Liêm(10,8) chiếm tỉ lệ 67,3% là ở
hỗng tràng.
Kỹ thuật mổ là yếu tố quyết định tới kết
quả điều trị, tuy nhiên muốn đạt kết quả điều
trị cao thì việc hồi sức trước, trong và sau mổ
đối với các bệnh nhân TRNBS cũng rất quan
trọng. Bệnh nhi TRNBS rất dễ hạ thân nhiệt
đặc biệt ở trẻ sơ sinh non yếu hoặc có nhiễm
khuẩn kèm theo. Hạ thân nhiệt làm suy yếu tất
cả các hệ thống cơ thể đặc biệt là hệ tim mạch
cần phải cấp cứu ngay. Trong nghiên cứu này
35
Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
không có bệnh nhân nào cho tới khi mổ bị hạ
thân nhiệt, vì chúng tôi đã chú ý ủ ấm cho
những bệnh nhi bị thân nhiệt thấp dưới 36 độ
ngay khi tới bệnh viện và theo dõi thân nhiệt
thường xuyên trước, trong và sau mổ. Ngoài
ra, cân bằng nước điện giải, cho kháng sinh
trước mổ và đặt ống thông dạ dày hút ngắt
quãng là những điều không thể thiếu. Chúng
tôi có 1(4%) trường hợp tử vong ngày thứ 2
sau mổ nguyên nhân viêm phổi, nhiễm trùng
huyết, không có bệnh nhân nào tử vong liên
quan tới miệng nối. Tỷ lệ này thấp hơn với
một số báo cáo khác mổ mở (bảng 4)(2,3,10,7). Một
số tác giả mổ có nội soi trợ giúp đã báo cáo
không có tử vong(7,6,1).
không có tử vong, không phải chuyển mổ
mở(12,6,1).
KẾT LUẬN
Qua kết quả nghiên cứu 25 bệnh nhân bị
teo ruột non bẩm sinh được phẫu thuật nội soi
trợ giúp, chúng tôi thấy phẫu thuật nội soi trợ
giúp điều trị bệnh teo ruột non có tính khả thi,
an toàn, hiệu quả cao (96% thành công). Phẫu
thuật nội soi là một phương pháp nên được
lựa chọn trong điều trị bệnh teo ruột non bẩm
sinh ở sơ sinh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Biến chứng sau mổ thường gặp nhất là biến
chứng tại miệng nối ruột tận‐tận. Trong nghiên
cứu của chúng tôi có 2 (8%) trường hợp biến
chứng sớm sau mổ phải mổ làm lại miệng nối
do rò và hẹp miệng nối (một bị rò miệng nối và
một bị tắc do hẹp miệng nối) được mổ lại lần
hai. Tỷ lệ này tương đương với tỷ lệ của một số
tác giả trong nước (7,7%) và ngoài nước, mổ
mở(2,3,4,8).
2.
Thời gian mổ trung bình của phẫu thuật có
nội soi trợ giúp 88 ± 38 phút, cũng tương đương
mổ mở. Thời gian nằm viện trung bình 7,8 ± 1,6
ngày, tương đương với một số báo cáo của các
tác giả mổ có nội soi trợ giúp(12,6,1) ngắn hơn so
với một số báo cáo của một số tác giả mổ mở (từ
8 đến > 14 ngày)(2,3,4,8).
7.
Kết quả theo dõi sau mổ với thời gian từ 3 ‐
24 tháng. Theo dõi được tất cả bệnh nhân sống
24/25 bệnh nhân (96%). Trong đó có 2 (8,3%)
trường hợp bị tắc ruột sau mổ (một do dính, dây
chằng, và một bị vô hạch toàn bộ đại tràng) đã
được mổ lại. Tất cả 24 bệnh nhân đều khỏe, chức
năng tiêu hóa bình thường. Báo cáo các tác giả
mổ có nội soi trợ giúp đã thành công 100%
Abhyankar A, Mukhtar Z (2011.) Laparoscopy‐assisted
surgery for neonatal intestinal atresia: Single‐center
experience). Asian J Endosc Surg, 4(2): pp 90‐93.
Ameth EA. (2000). Intestinal atresia and stenosis : A
retrospective analysis of presentation, morbidity and
mortality in Zaria, Nigieria. West‐ Afr‐ Med‐J, 19(1), pp 39‐42.
Chang WT, Chen HC (1995). Jejunoileal atresia in neonates,
chin med J(Taipei),56(1), pp 36‐39.
Grosfeld JL (1998). Jejunoileal atresia and stenosis. J
pediatrsurg vol II, pp. 1145‐1158.
Grosfeld JL (1998). Intestinal atresia and stenosis. A – 25 year
experience with 277 cases. Arch. Surg, 133(3), pp 797‐800.
Lima M, Ruggeri G (2009). Evolution of the surgical
management of bowel atresia in newborn: laparoscopically
assisted treatment. Pediatr Med Chir,31(5): pp 215‐219.
Nguyễn Kỳ Minh (2003). Nghiên cứu chẩn đoán và kết quả
điều trị teo ruột non bấm sinh bằng kĩ thuật nối ruột tận sau
khi tạo hình nhỏ bớt đầu trên. Luận văn Thạc sĩ Y học. Đại
học Y Hà Nội 2002.
Nguyễn Thanh Liêm (2002). Teo và hẹp ruột. Phẫu thuật tiêu
hoá trẻ em.Nhà xuất bản y học Hà Nội ‐2000,tr 128‐145.
Nguyễn Thanh Liêm (2006). Kết quả bước đầu mổ chữa teo
ruột bằng kĩ thuật nối ruột tận‐tận sau khi tạo hình nhỏ bớt
đường kính đầu trên. Y học thực hành, 327(10), tr 8‐10.
Nguyễn Thanh Liêm, Nguyễn Xuân Thụ (1993) Phân tích kết
quả phẫu thuật điều trị teo ruột sơ sinh. Y học Việt Nam,
170,(4), tr 6‐10.
Nguyễn Văn Đức (1989). Teo ruột non. Phẫu thuật bụng ở sơ
sinh và trẻ em. tập 1, tr 46‐52.
Yamataka A, Koga H (2004). Laparoscopy‐assisted surgery
for prenatally diagnosed small bowel atresia: simple, safe,
and virtually scar free. J Pediatr Surg, 39(12): pp 1815‐1818.
3.
4.
5.
6.
8.
9.
10.
11.
12.
Ngày nhận bài
05/07/2013.
Ngày phản biện nhận xét bài báo
10/07/2013.
Ngày bài báo được đăng:
15–09‐2013
36
Chuyên Đề Ngoại Nhi