Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Kết quả bước đầu điều trị teo ruột non bẩm sinh bằng phẫu thuật nội soi trợ giúp ở sơ sinh: Kinh nghiệm với 25 trường hợp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (369.41 KB, 4 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 

Nghiên cứu Y học

KẾT QUẢ BƯỚC ĐẦU ĐIỀU TRỊ TEO RUỘT NON BẨM SINH 
 BẰNG PHẪU THUẬT NỘI SOI TRỢ GIÚP Ở SƠ SINH:  
KINH NGHIỆM VỚI 25 TRƯỜNG HỢP 
 Bùi Đức Hậu*, Vũ Mạnh Hoàn* 

TÓM TẮT 
Mục tiêu: Mục đích của báo cáo là nghiên cứu khả năng ứng dụng và hiệu quả phẫu thuật nội soi trợ giúp 
trong điều trị bệnh teo ruột non bẩm sinh tại Bệnh viện Nhi Trung Ương Hà Nội. 
Phương pháp nghiên cứu: Tất cả bệnh nhân bị teo ruột non bẩm sinh được điều trị bằng phẫu thuật nội soi 
trợ giúp tại Bệnh viện Nhi Trung Ương từ tháng 2/2010 đến tháng 4/2012. Phẫu thuật được thực hiện qua: 1 
trocar 10 mm (single trocar) đặt tại rốn, hoặc phẫu thuật được thực hiện qua 2 Trocar (1 Trocar 3 mm đặt sát 
rốn trái và 1 Trocar 5 mm đặt ngang rốn bên phải). Áp lực CO2 8 ‐ 10 mmHg. Đoạn ruột teo đưa ra ngoài thành 
bụng qua đường rạch da 2 cm tại vị trí Trocar ở rốn (nếu 1 trocar) hoặc tại vị trí Trocar ở hố chậu phải (nếu 2 
trocar). Tiến hành cắt nối ruột ngoài ổ bụng, miệng nối tận ‐ tận sau khi làm nhỏ đầu trên (tapring). 
Kết quả: Từ tháng 2/2010 đến tháng 4/2012, 25 bệnh nhân (14 nam, 12 nữ) bị bệnh teo ruột non bẩm sinh 
đã được điều trị bằng phẫu thuật nội soi trợ giúp. Tuổi trung bình 3,3 ± 3,7 ngày. 23 trường hợp phẫu thuật nội 
soi thực hiện qua 2 Trocar 3 mm ‐ 5 mm, và 2 trường hợp thực hiện qua 1 Trocar 10 mm. Thời gian mổ trung 
bình 88 ± 38 phút. Không có tử vong trong mổ, có 1(4%) trường hợp tử vong ngày thứ 2 sau mổ do nhiễm 
khuẩn huyết. Biến chứng sau mổ 2 (8,0%) trường hợp phải mổ lại (một bị rò miệng nối và một bị hẹp miệng 
nối). Thời gian nằm viện trung bình 7,8 ± 1,6 ngày. Theo dõi sau mổ được 24 bệnh nhân. Thời gian theo dõi 
được từ 3‐24 tháng. 2 (8,3%) trường hợp bị tắc ruột sau mổ (một do dính, dây chằng, và một bị vô hạch toàn bộ 
đại tràng). Tất cả những trường hợp còn lại đều khỏe. 
Kết luận: Phẫu thuật nội soi trợ giúp an toàn, hiệu quả có tính khả thi cao trong điều trị cho hầu hết bệnh 
nhân sơ sinh bị teo ruột non bẩm sinh. 
Từ khoá: Teo ruột non, phẫu thuật nội soi trợ giúp. 

ABSTRACT 


LAPAROSOPIC ASSISTED OPERATION IN THE MANAGEMENT 
 OF CONGENITAL INTESTINAL ASTRESIA IN NEWBORNS:EXPERIENCE WITH 25 CASES 
 Bui Duc Hau,Vu Manh Hoan * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2013: 32 ‐ 35 
Objectives:  The aim of this study is to investigate the feasibility and effectiveness of laparoscopic assisted 
operation in the management of congenital intestinal atresia.  
Methods: Medical records of all patients undergoing laparoscopic‐assisted for congenital intestinal atresia at 
the  National  Hospital  of  Pediatrics,  Hanoi,  Vietnam,  from  February  2010  to  April  2012  were  reviewed.  For 
laparoscopic‐assisted, one port of 10 mm (single port) on the umbilicus or two other (3–5 mm) trocars were used. 
CO2 insufflation pressure was around 8 ‐  10  mmHg.  The  intestinal  atresia  segments  was  delivered  out  of  the 
abdomen through a minimally enlarged incision on the umbilicus (single trocar) or on the right lower quarter of 
abdominal wall (two trocars); the intestinal atresia segments were used by the technique of resection and end to 
end anastomosis after tapering the proximal dilated bowel performed extra corporally.  
* Bệnh viện Nhi Trung Ương 
Tác giả liên hệ: BS. Bùi Đức Hậu 

Chuyên Đề Ngoại Nhi 

ĐT: 0913522604 

 Email:  

33


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013

Results: From February 2010 to April 2012, 25 children (14 males, 11 females) suffering from congenital 
intestinal atresia were operated on by laparoscopic–assisted, with a mean age of 3.3 ± 3.7 days. There were 23 LA 

cases used two 5 mm ports and 2 laparoscopic assisted cases used single port of 10 mm. Mean operative time was 
88 ± 38 minutes. There were no intraoperative deaths. One patient (4%) died on the 2nd postoperative day due to 
septicemia.  There  were  2  (8%)  cases  of  postoperative  complications  (one  anastomotic  leakage,  and  one  early 
postoperative intestinal obstruction due to anastomotic stenosis). Mean hospital stay after operation was 7.8 ± 1.6 
days.  Follow‐up  was  obtained  in  24  cases,  ranging  from  3  to  24  months.  There  were  2  (8.3%)  cases  with 
postoperative  intestinal  obstruction  (1case  was  due  to  adhesion  band  and  1case  was  due  to  total  colonic 
aganglionic). All other patients remained well. 
Conclusions: Laparoscopic management is safe, feasible and effective and should be the treatment of choice 
for almost cases of congenital intestinal atresia in newborns. 
Key words: Laparoscopic assisted, congenital intestinal atresia. 
tranh cãi và cũng chưa có báo cáo nào trình bày 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
kinh  nghiệm  và  đánh  giá  kết  quả  vấn  đề  này, 
Teo  ruột  non  bẩm  sinh  (TRNBS)  là  nguyên 
nên chúng tôi tiến hành đề tài này với mục đích 
nhân gây tắc ruột khá phổ biến ở trẻ sơ sinh. Ở 
nghiên  cứu  khả  năng  ứng  dụng  và  hiệu  quả 
Mỹ,  TRNBS  gặp  với  tỷ  lệ  1/130  trẻ  mới  sinh(4), 
phẫu  thuật  nội  soi  trợ  giúp  trong  điều  trị  bệnh 
Đan  Mạch  gặp  1/400.  TRNBS,  đã  được  nhiều 
teo ruột non bẩm sinh tại bệnh viện Nhi Trung 
nhà  khoa  học  trên  thế  giới  nghiên  cứu  về 
Ương Hà Nội. 
nguyên nhân, sinh bệnh học, chẩn đoán, điều trị. 
Mục tiêu nghiên cứu 
Trong những thập kỷ trước phẫu thuật chủ yếu 
 Mục  đích  của  báo  cáo  là  nghiên  cứu  khả 
là mổ mở, tỷ lệ tử vong còn cao. Gần hai thập kỷ 
năng ứng dụng và hiệu quả phẫu thuật nội soi 
trở  lại  đây  cùng  với  sự  bùng  nổ  của  khoa  học 

trợ  giúp  trong  điều  trị  bệnh  teo  ruột  non  bẩm 
công nghệ và sự tiến bộ của gây mê hồi sức, tỷ lệ 
sinh tại bệnh viện Nhi Trung Ương Hà Nội. 
sống của bệnh đã được cải thiện đáng kể. Ở Việt 
Nam,  các  công  trình  nghiên  cứu  về  dị  tật  này 
còn  ít,  tỷ  lệ  tử  vong  còn  cao.  Theo  tác  giả 
Nguyễn  Văn  Đức,  bệnh  viện  Việt  Đức,  trước 
năm  1975,  tỷ  lệ  tử  vong  là  80%(11);  Nguyễn 
Thanh  Liêm  năm  1990  là  59%(10);  Nguyễn  Kỳ 
Minh năm 2002 là 13%(2). Từ năm 1995, Nguyễn 
Thanh  Liêm  đã  áp  dụng  kỹ  thuật  nối  ruột  tận‐
tận  sau  khi  tạo  hình  nhỏ  bớt  đầu  ruột  teo  phía 
trên,  kỹ  thuật  này  đã  đem  lại  kết  quả  điều  trị 
khả quan hơn. Tuy nhiên, các kỹ thuật trên đều 
thực  hiện  bằng  đường  mở  bụng  rộng  rãi  gây 
nên sang chấn phẫu thuật nặng nề đặc biệt với 
trẻ  sơ  sinh(10,8).  Từ  đầu  những  năm  2000,  phẫu 
thuật  nội  soi  (PTNS)  được  áp  dụng  phổ  biến  ở 
trẻ  em  và  trẻ  sơ  sinh  tại  Bệnh  viện  Nhi  Trung 
Ương với sự an toàn cao, trong đó bệnh TRNBS 
cũng được áp dụng PTNS trợ giúp để làm giảm 
thiểu  được  sang  chấn  phẫu  thuật  nặng  nề  cho 
trẻ sơ sinh. Tuy vậy, việc áp dụng PTNS trợ giúp 
như  thế  nào  để  đạt  hiệu  quả  cao  nhất  vẫn  còn 

34

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Tất  cả  bệnh  nhân  bị  TRNBS  được  điều  trị 
bằng  PTNS  trợ  giúp  tại  Bệnh  viện  Nhi  Trung 

ương  từ  tháng  2/2010  đến  tháng  4/2012.  Phẫu 
thuật được thực hiện qua: 1 trocar 10 mm (single 
trocar)  đặt  tại  rốn,  đưa  ốp‐tíc  có  2  kênh  (1  là 
camera, 1 kênh làm việc) vào quan sát và dùng 
“panh” nội soi cặp chỗ  ruột teo đưa  ra  ngoài  ổ 
bụng  bằng  đường  rạch  da  tại  rốn  2  cm.  Tiến 
hành cắt đoạn ruột teo và nối 2 đầu ruột tận tận, 
1 lớp bằng PDS 6/0 mũi rời sau khi đã làm nhỏ 
(tapring đặt một ống thông Nelaton cỡ 22F dọc 
theo bờ mạc treo rồi đánh dấu ba điểm cần cắt 
bỏ để tạo hình nhỏ bớt đầu trên, chiều dài đoạn 
ruột cần tạo hình từ 3 ‐ 5 cm) đầu ruột trên giãn 
và  bơm  kiểm  tra  sự  lưu  thông  của  đoạn  ruột 
phía dưới. 
 Phẫu  thuật  có  thể  được  thực  hiện  qua  2 
Trocar  (1  Trocar  3  mm  đặt  sát  rốn  trái  và  1 

Chuyên Đề Ngoại Nhi  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 
Trocar 5 mm đặt ngang rốn bên phải). Quan sát 
ổ bụng qua trocar ở rốn và dùng “panh” nội soi 
cặp  chỗ  ruột  teo  đưa  ra  ngoài  ổ  bụng  bằng 
đường  rạch  da  2cm  tại  vị  trí  trocar  ở  hố  chậu 
phải.  Tiến  hành  cắt  đoạn  ruột  teo  và  nối  2  đầu 
ruột  theo  kỹ  thuật  mô  tả  trên.  Áp  lực  CO2  ổ 
bụng duy trì 8 ‐ 10 mmHg.  

KẾT QUẢ  

Bảng 1. Tuổi lúc mổ. 
Tuổi lúc mổ
< 24 giờ
Từ 24 giờ – 48 giờ
> 48 giờ
Tổng số

Số lượng
4
4
17
25

%
16
16
68
100

Bảng 2. Vị trí teo ruột. 
Vị trí teo ruột
Hỗng tràng
Hồi tràng
Tổng số

Số lượng
9
16
25


%
36
64
100

Bảng 3. Thời gian mổ. 
Thời gian mổ
< 1 giờ
Từ 1 giờ – 2 giờ
> 2 giờ
Tổng số

Số lượng
2
20
3
25

%
8
80
12
100

Bảng 4. Tử vong sớm sau mổ mở của các tác giả. 
Tác giả (Năm công
bố)
N.T.Liem (1993)
Chang (1995)
Ameh (2000)

N.K.Minh (2003)
N.T.Liem (2006)
B.Đ. Hậu (2012)

Nơi nghiên
cứu
Việt Nam
Đài Loan
Nigieria
Việt Nam
Việt Nam
Việt Nam

Tỉ lệ tử vong sớm
(%)
59
12,5
40,9
13
7,7
4

*Nhận  xét:  Từ  tháng  2/2010  đến  tháng 
4/2012,  25  bệnh  nhân  (14  nam,  11  nữ)  bị  bệnh 
TRNBS  đã  được  điều  trị  bằng  PTNS  trợ  giúp. 
Tuổi khi mổ nhỏ nhất 1 ngày, lớn nhất 15 ngày, 
trung bình 3,3 ± 3,7 ngày (bảng 1). 1(4%) có cân 
nặng  thấp  lúc  sinh  dưới  2  kg,  96%  (24  bệnh 
nhân) có cân nặng lúc sinh từ 2 kg trở lên. Vị trí 
teo ở hỗng tràng 9(36%) bệnh nhân, hồi tràng 16 

(64%) bệnh nhân (bảng 2) Trong 25 bệnh nhân bị 
TRNBS được PTNS trợ giúp (23 trường hợp đầu 
PTNS  thực  hiện  qua  2  Trocar  5  mm,  2  trường 
hợp sau bắt đầu thực hiện qua 1 Trocar 10 mm). 

Chuyên Đề Ngoại Nhi 

Nghiên cứu Y học

Thời gian mổ trung bình 88 ± 38 phút (ngắn nhất 
30 phút, dài nhất 150 phút‐ bảng 3). Không có tử 
vong do phẫu thuật, nhưng có 1(4%) trường hợp 
tử  vong ngày thứ  2 sau  mổ  nguyên  nhân  viêm 
phổi, nhiễm khuẩn huyết. Biến chứng sau mổ có 
2 (8%) trường hơp phải mổ làm lại miệng nối do 
một  bị  rò  miệng  nối  và  một  bị  tắc  miệng  nối. 
Thời  gian  nằm  viện  trung  bình  7,8  ±  1,6  ngày, 
ngắn nhất 5 ngày, dài nhất 53 ngày. Chủ yếu là 2 
trường hợp phải mổ lại vì hẹp miệng nối. 
Theo  dõi  sau  mổ  được  24  bệnh  nhân.  Thời 
gian  theo  dõi  sau  mổ  từ  3  tháng  đến  24  tháng. 
Hai  trường  hợp  tắc  ruột  sau  mổ  phải  mổ  lại  (1 
trường  hợp  do  vô  hạch  toàn  bộ  đại  tràng  phải 
mổ  cắt  bỏ  toàn  bộ  đại  tràng,  hạ  hồi  tràng  theo 
phương  pháp  Duhamel.  1  trường  hợp  do  dây 
chằng gây ngẹt ruột phải mổ cắt nối ruột. Tất cả 
24  bệnh  nhân  đều  phát  triển  bình  thường  sau 
phẫu thuật.  

BÀN LUẬN 

Kết quả nghiên cứu cho thấy trong 25 bệnh 
nhân  bị  TRNBS  trong  đó  có  14  (56%)  nam,  11 
(44%)  nữ.  Bảng  1  cho  thấy  tuổi  mổ  trung  bình 
của chúng tôi 3,3 ± 3,7 ngày. 1 (4%) có cân nặng 
thấp lúc sinh dưới 2 kg, 96% (24 bệnh nhân) có 
cân  nặng  lúc  sinh  từ  2  kg  trở  lên.  Các  tỉ  lệ  này 
cũng  tương  tự  như  tỉ  lệ  của  một  số  báo  cáo  đã 
công  bố  của  một  số  tác  giả  trong  và  ngoài 
nước(2,4,10). Vị trí teo ruột theo Grosfeld(4) teo ruột 
thường có tỉ lệ gần bằng nhau giữa hỗng tràng 
(51%) và hồi tràng (49%), trong nghiên cứu của 
chúng tôi (bảng 2) tỉ lệ teo ruột thường gặp hơn 
cả là ở hồi tràng 64%, ngược với nghiên cứu của 
Nguyễn  Thanh  Liêm(10,8)  chiếm  tỉ  lệ  67,3%  là  ở 
hỗng tràng. 
Kỹ  thuật  mổ  là  yếu  tố  quyết  định  tới  kết 
quả điều trị, tuy nhiên muốn đạt kết quả điều 
trị cao thì việc hồi sức trước, trong và sau mổ 
đối  với  các  bệnh  nhân  TRNBS  cũng  rất  quan 
trọng.  Bệnh  nhi  TRNBS  rất  dễ  hạ  thân  nhiệt 
đặc  biệt  ở  trẻ  sơ  sinh  non  yếu  hoặc  có  nhiễm 
khuẩn kèm theo. Hạ thân nhiệt làm suy yếu tất 
cả các hệ thống cơ thể đặc biệt là hệ tim mạch 
cần phải cấp cứu ngay. Trong nghiên cứu này 

35


Nghiên cứu Y học 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013

không có bệnh nhân nào cho tới khi mổ bị hạ 
thân  nhiệt,  vì  chúng  tôi  đã  chú  ý  ủ  ấm  cho 
những bệnh nhi bị thân nhiệt thấp dưới 36 độ 
ngay  khi  tới  bệnh  viện  và  theo  dõi  thân  nhiệt 
thường  xuyên  trước,  trong  và  sau  mổ.  Ngoài 
ra,  cân  bằng  nước  điện  giải,  cho  kháng  sinh 
trước  mổ  và  đặt  ống  thông  dạ  dày  hút  ngắt 
quãng  là  những  điều  không  thể  thiếu.  Chúng 
tôi  có  1(4%)  trường  hợp  tử  vong  ngày  thứ  2 
sau  mổ  nguyên  nhân  viêm  phổi,  nhiễm  trùng 
huyết,  không  có  bệnh  nhân  nào  tử  vong  liên 
quan  tới  miệng  nối.  Tỷ  lệ  này  thấp  hơn  với 
một số báo cáo khác mổ mở (bảng 4)(2,3,10,7). Một 
số  tác  giả  mổ  có  nội  soi  trợ  giúp  đã  báo  cáo 
không có tử vong(7,6,1). 

không  có  tử  vong,  không  phải  chuyển  mổ 
mở(12,6,1). 

KẾT LUẬN 
Qua  kết  quả  nghiên  cứu  25  bệnh  nhân  bị 
teo ruột non bẩm sinh được phẫu thuật nội soi 
trợ giúp, chúng tôi thấy phẫu thuật nội soi trợ 
giúp điều trị bệnh teo ruột non có tính khả thi, 
an toàn, hiệu quả cao (96% thành công). Phẫu 
thuật  nội  soi  là  một  phương  pháp  nên  được 
lựa chọn trong điều trị bệnh teo ruột non bẩm 
sinh ở sơ sinh.  


TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.

Biến chứng sau mổ thường gặp nhất là biến 
chứng tại miệng nối ruột tận‐tận. Trong nghiên 
cứu  của  chúng  tôi  có  2  (8%)  trường  hợp  biến 
chứng  sớm  sau  mổ  phải  mổ  làm  lại  miệng  nối 
do rò và hẹp miệng nối (một bị rò miệng nối và 
một  bị  tắc  do  hẹp  miệng  nối)  được  mổ  lại  lần 
hai. Tỷ lệ này tương đương với tỷ lệ của một số 
tác  giả  trong  nước  (7,7%)  và  ngoài  nước,  mổ 
mở(2,3,4,8).  

2.

Thời gian mổ trung bình của phẫu thuật có 
nội soi trợ giúp 88 ± 38 phút, cũng tương đương 
mổ mở. Thời gian nằm viện trung bình 7,8 ± 1,6 
ngày, tương  đương  với  một  số  báo  cáo  của  các 
tác  giả  mổ  có  nội  soi  trợ  giúp(12,6,1)  ngắn  hơn  so 
với một số báo cáo của một số tác giả mổ mở (từ 
8 đến > 14 ngày)(2,3,4,8). 

7.

Kết quả theo dõi sau mổ với thời gian từ 3 ‐ 
24 tháng. Theo dõi được tất cả bệnh nhân sống 
24/25  bệnh  nhân  (96%).  Trong  đó  có  2  (8,3%) 
trường hợp bị tắc ruột sau mổ (một do dính, dây 

chằng, và một bị vô hạch toàn bộ đại tràng) đã 
được mổ lại. Tất cả 24 bệnh nhân đều khỏe, chức 
năng  tiêu  hóa  bình  thường.  Báo  cáo  các  tác  giả 
mổ  có  nội  soi  trợ  giúp  đã  thành  công  100% 

Abhyankar  A,  Mukhtar  Z  (2011.)  Laparoscopy‐assisted 
surgery  for  neonatal  intestinal  atresia:  Single‐center 
experience). Asian J Endosc Surg, 4(2): pp 90‐93. 
Ameth  EA.  (2000).  Intestinal  atresia  and  stenosis  :  A 
retrospective  analysis  of  presentation,  morbidity  and 
mortality in Zaria, Nigieria. West‐ Afr‐ Med‐J, 19(1), pp 39‐42. 
Chang  WT,  Chen  HC  (1995).  Jejunoileal  atresia  in  neonates, 
chin med J(Taipei),56(1), pp 36‐39. 
Grosfeld  JL  (1998).  Jejunoileal  atresia  and  stenosis.  J 
pediatrsurg vol II, pp. 1145‐1158. 
Grosfeld JL (1998). Intestinal atresia and stenosis. A – 25 year 
experience with 277 cases. Arch. Surg, 133(3), pp 797‐800. 
Lima  M,  Ruggeri  G  (2009).  Evolution  of  the  surgical 
management  of  bowel  atresia  in  newborn:  laparoscopically 
assisted treatment. Pediatr Med Chir,31(5): pp 215‐219. 
Nguyễn Kỳ Minh (2003). Nghiên cứu chẩn đoán và kết quả 
điều trị teo ruột non bấm sinh bằng kĩ thuật nối ruột tận sau 
khi tạo hình nhỏ bớt đầu trên. Luận văn Thạc sĩ Y  học.  Đại 
học Y Hà Nội 2002. 
Nguyễn Thanh Liêm (2002). Teo và hẹp ruột. Phẫu thuật tiêu 
hoá trẻ em.Nhà xuất bản y học Hà Nội ‐2000,tr 128‐145.  
Nguyễn Thanh Liêm (2006). Kết quả bước đầu mổ chữa teo 
ruột bằng kĩ thuật nối ruột tận‐tận sau khi tạo hình nhỏ bớt 
đường kính đầu trên. Y học thực hành, 327(10), tr 8‐10. 
Nguyễn Thanh Liêm, Nguyễn Xuân Thụ (1993) Phân tích kết 

quả  phẫu  thuật  điều  trị  teo  ruột  sơ  sinh.  Y  học  Việt  Nam, 
170,(4), tr 6‐10. 
Nguyễn Văn Đức (1989). Teo ruột non. Phẫu thuật bụng ở sơ 
sinh và trẻ em. tập 1, tr 46‐52. 
Yamataka  A,  Koga  H  (2004).  Laparoscopy‐assisted  surgery 
for  prenatally  diagnosed  small  bowel  atresia:  simple,  safe, 
and virtually scar free. J Pediatr Surg, 39(12): pp 1815‐1818. 

3.
4.
5.
6.

8.
9.

10.

11.
12.

 
Ngày nhận bài   

 

 

 05/07/2013. 


Ngày phản biện  nhận xét bài báo  

10/07/2013. 

Ngày bài báo được đăng: 

15–09‐2013 

 

 

36

Chuyên Đề Ngoại Nhi  



×