Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

So sánh tác dụng gây tê tủy sống bằng hỗn hợp Ropivacain-morphin và Ropivacain-fentanyl trong mổ nội soi tán sỏi niệu quản ngược dòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (289.28 KB, 7 trang )

T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 4-2017

SO SÁNH TÁC DỤNG GÂY TÊ TỦY SỐNG BẰNG HỖN HỢP
ROPIVACAIN-MORPHIN VÀ ROPIVACAIN-FENTANYL TRONG
MỔ NỘI SOI TÁN SỎI NIỆU QUẢN NGƯỢC DÒNG
Nguyễn Trung Kiên*
TÓM TẮT
Mục tiêu: so sánh hiệu quả vô cảm và tính an toàn của gây tê tủy sống (GTTS) bằng hỗn hợp
ropivacain-morphin và ropivacain-fentanyl trong mổ nội soi tán sỏi niệu quản (SNQ) ngược dòng.
Đối tượng và phương pháp: nghiên cứu tiến cứu 60 bệnh nhân (BN) phẫu thuật nội soi tán SNQ
ngược dòng, chia ngẫu nhiên thành hai nhóm: nhóm ropivacain-fentanyl (RF) (n = 30): GTTS
bằng 10 mg ropivacain 0,5% + 30 µg fentanyl; nhóm ropivacain-morphin (RM) (n = 30): GTTS
bằng 10 mg ropivacain 0,5% + 100 µg morphin. Kết quả: tất cả BN đều đạt mức ức chế cảm giác
đau ≥ T8 tại phút thứ 20; thời gian phục hồi vận động ngắn; thời gian giảm đau sau mổ của nhóm
RM (1.224,0 ± 121,3 phút) dài hơn nhóm RF (315,5 ± 35,5 phút); ít ảnh hưởng lên hô hấp và tuần
hoàn. Tác dụng không mong muốn gồm buồn nôn, nôn chỉ gặp ở nhóm RM: 8/30 BN (26,6%),
run (10% ở nhóm RF; 3,3% ở nhóm RM), ngứa: 1 BN (3,3%) ở nhóm RM. Kết luận: GTTS bằng
hỗn hợp RM và RF trong phẫu thuật nội soi tán SNQ ngược dòng có hiệu quả vô cảm tốt, an
toàn. Sử dụng ropivacain kết hợp với morphin có thời gian giảm đau sau mổ dài hơn kết hợp với
fentanyl, nhưng tỷ lệ buồn nôn, nôn cao hơn.
* Từ khoá: Tán sỏi niệu quản ngược dòng; Gây tê tuỷ sống; Ropivacain; Morphin.

Comparison of Effectiveness of Spinal Anesthesia with Mixture of
Ropivacaine-Morphine and Ropivacaine-Fentanyl in Retrograde
Ureteroscopic Lithotripsy
Summary
Objectives: To compare the efficacy and safety of spinal anesthesia with mixture of
ropivacaine-morphine and ropivacaine-fentanyl in retrograde ureteroscopic lithotripsy surgery.
Subjects and methods: Prospective study on 60 patients underwent retrograde endoscopic
lithotripsy, who were divided into two groups: group RF (n = 30): spinal anesthesia with 10 mg
ropivacaine 0.5% + 30 µg fentanyl; group RM (n = 30): spinal anesthesia with 10 mg of


ropivacaine 0.5% + 100 µg morphine. Results: All patients reached the level T8 of sensory block in
twentieth minute; short duration of motor recovering; duration of postoperative analgesia of RM
group (1,224.0 ± 121.3 minutes) was longer than RF group (315.5 ± 35.5 minutes); both groups
had a little effect on the respiratory system and circulatory system. Adverse effects included
nausea, vomiting only in group RM (26.6%), tremor (6.6% in the RF group; 3.3% in group RM),
pruritus (3.3%) in group RM. Conclusions: Spinal anesthesia with mixture of ropivacaine-morphine
and ropivacaine-fentanyl for retrograde ureteroscopic lithotripsy surgery provided a good anesthesia
effectiveness and safety. Combination of ropivacaine-morphine had a longer postoperative
analgesia duration than ropivacain-fentanyl, but the rate of nausea and vomiting were higher.
* Key words: Retrograde ureteroscopic lithotripsy; Spinal block; Ropivacaine; Morphine.
* Bệnh viện Quân y 103
Người phản hồi (Corresponding): Nguyễn Trung Kiên ()
Ngày nhận bài: 16/01/2017; Ngày phản biện đánh giá bài báo: 09/03/2017
Ngày bài báo được đăng: 24/03/2017

193


T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 4-2017

ĐẶT VẤN ĐỀ
Sỏi niệu quản là bệnh thường gặp ở
người Việt Nam, chiếm 40% BN tiết niệu
[1], GTTS là một trong những lựa chọn vô
cảm cho phẫu thuật tán SNQ ngược
dòng. Bupivacain, levobupivacain là các
thuốc tê thường được lựa chọn cho kỹ
thuật GTTS do hiệu quả vô cảm tốt,
nhưng hiện nay ropivacain được cho là
có nhiều ưu điểm hơn do ít ức chế vận

động. Đây là thuốc tê mới được đưa vào
thị trường Việt Nam với ưu điểm ít ức chế
tim mạch, ưu tiên ức chế cảm giác... và
chưa có nghiên cứu so sánh, đánh giá
tác dụng của GTTS bằng ropivacainfentanyl trong phẫu thuật tán SNQ ngược
dòng. Vì vậy, đề tài được tiến hành nhằm:
So sánh hiệu quả vô cảm và tính an toàn
của GTTS bằng hỗn hợp ropivacainmorphin và ropivacain-fentanyl trong mổ
nội soi tán SNQ ngược dòng.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu.
60 BN có chỉ định phẫu thuật nội soi
tán SNQ ngược dòng được vô cảm bằng
GTTS tại Khoa Gây mê, Bệnh viện Quân
y 103 từ tháng 10 - 2015 đến 4 - 2016.
* Tiêu chuẩn lựa chọn: phân loại ASA
I, III; đồng ý với phương pháp GTTS.
* Tiêu chuẩn loại trừ: BN từ chối tham
gia nghiên cứu; chống chỉ định với GTTS;
dị ứng với thuốc ropivacain, fentanyl,
morphin.
* Tiêu chuẩn đưa ra khỏi nghiên cứu:
BN tai biến, biến chứng phẫu thuật,
không thu thập đủ chỉ tiêu nghiên cứu.
194

2. Phương pháp nghiên cứu.
Nghiên cứu tiến cứu, thử nghiệm lâm
sàng ngẫu nhiên, phân nhóm có đối

chứng, chia thành hai nhóm nghiên cứu:
- Nhóm RF (n = 30): GTTS bằng
10 mg ropivacain 0,5% + 30 µg fentanyl.
- Nhóm RM (n = 30): GTTS bằng
10 mg ropivacain 0,5% + 100 µg morphin.
- Thuốc và phương tiện nghiên cứu:
thuốc ropivacain (anaropin 0,5%) ống
10 ml (Hãng Astra Zeneca, Thụy Điển);
fentanyl ống 0,1 mg/2 ml và morphin
spinal ống 2 mg/2 ml (Hãng Polfa, Ba
Lan); monior theo dõi NIHON KOHDEN
(Nhật Bản).
3. Phương pháp tiến hành.
* Trước phẫu thuật: khám tiền mê, kiểm
tra bổ sung các xét nghiệm, giải thích về
phương pháp vô cảm cho BN. Đo mạch,
huyết áp động mạch, ghi điện tim, đếm
tần số thở, SpO2. Đo chiều cao, cân nặng
của BN. Kiểm tra, đánh giá các bệnh kèm
theo, đặc biệt là bệnh tim mạch, hô hấp.
* Tại phòng mổ: đặt đường truyền tĩnh
mạch với kim luồn 18 G, truyền dung dịch
natriclorua 9% 6 ml/kg trong 10 - 15 phút
trước khi tiến hành GTTS. Theo dõi
mạch, huyết áp, SpO2, tần số thở, điện
tim, thở oxy qua mũi 3 lít/phút.
- GTTS: BN nằm nghiêng về bên tán
sỏi, cúi đầu vào ngực, lưng cong, hai
chân co gập vào bụng. Người tiến hành
kỹ thuật: đội mũ, đeo khẩu trang, rửa tay,

mặc áo, đi găng vô khuẩn. Sát khuẩn
vùng chọc kim 3 lần (1 lần cồn iod, 2 lần
cồn etylic 700). Chọc kim GTTS ở khe liên
đốt L2 - L3, đường giữa, khi có dịch não
tủy chảy ra thì tiêm hỗn hợp thuốc tê vào
khoang dưới nhện trong thời gian 30 giây;
rút kim, dán opsite vào vị trí chọc kim và
đặt BN về tư thế phẫu thuật.


T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 4-2017

- Theo dõi nhịp tim, huyết áp, tần số
thở, SpO2.

độ ức chế vận động ngay khi kết thúc
phẫu thuật, thời gian phục hồi vận động.

* Chỉ tiêu và phương pháp đánh giá:

- Tác dụng không mong muốn: buồn
nôn, nôn, run, ngứa, đau đầu, đau lưng,
máu tụ, nhiễm trùng, liệt…

- Đặc điểm chung: tuổi, giới, cân nặng,
chiều cao và thời gian phẫu thuật.
- Hiệu quả vô cảm:
+ Ức chế cảm giác đau: xác định bằng
phương pháp Pin-Prick, bao gồm: thời
gian tiềm tàng ức chế cảm giác đau tới

mức T10, mức ức chế cảm giác đau ở
phút 20 sau gây tê.
+ Mức độ vô cảm cho phẫu thuật theo
vào thang điểm Abouleizh Ezzat, được
chia ra 4 mức độ: tốt, khá, trung bình và
kém.
+ Ức chế vận động (đánh giá theo
thang điểm của Bromage), gồm: thời gian
tiềm tàng ức chế vận động mức M1, mức

* Thời điểm theo dõi: trước lúc gây tê
tương ứng giá trị t0. Sau khi gây tê: 5
phút/lần trong 30 phút đầu tương ứng với
các giá trị T5, T10, T15, T20, T25, T30.
10 phút/lần trong 60 phút tương ứng với
các giá trị T40, T50 , T60, T70, T80, T90.
Sau mổ, theo dõi giảm đau và các tác
dụng không mong muốn: 10 giờ đầu theo
dõi 2 giờ/lần, các giờ sau theo dõi
4 giờ/lần cho đến 24 giờ.
* Xử lý kết quả nghiên cứu: theo
phương pháp thống kê y học bằng phần
mềm Epi.info 7.0, khác biệt có ý nghĩa
thống kê với p < 0,05.

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN
1. Đặc điểm chung.
Bảng 1: Đặc điểm chung.
Nhóm RF (n = 30)


Nhóm RM (n = 30)

44,7 ± 11,3

49,5 ± 10,8

Chiều cao (cm)

163 ± 6,0

160 ± 6,0

Cân nặng (kg)

58,5 ± 6,0

58,7 ± 6,2

Giới nam (%)/nữ (%)

63,3/36,6

53,3/46,6

20,8 ± 4,5

24,3 ± 9,0

12 - 30


10 - 45

Đặc điểm
Tuổi (năm)

Thời gian phẫu thuật (phút)

Tuổi, giới, chiều cao, cân nặng là
những đặc điểm của BN ảnh hưởng đến
việc lựa chọn cũng như hiệu quả vô cảm
của phương pháp GTTS, sự khác biệt
giữa hai nhóm không có ý nghĩa thống
kê. Độ tuổi trung bình của 2 nhóm đều ở
độ tuổi trưởng thành, dễ hợp tác với thầy

p

> 0,05

thuốc, rất thuận lợi gây tê khu vùng nói
chung và GTTS nói riêng.
Thời gian phẫu thuật phụ thuộc vào kỹ
thuật mổ của phẫu thuật viên, đặc điểm
của SNQ cũng như trang thiết bị dụng cụ.
Thời gian phẫu thuật trung bình ở 2 nhóm
khác biệt không có ý nghĩa thống kê
195


T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 4-2017


(p > 0,05). Kết quả của chúng tôi phù hợp
với Trương Minh Hải với thời gian phẫu
thuật trung bình 23,0 ± 6,8 phút và 24,7 ±
10,5 phút [2]. Nội soi tán sỏi ngược dòng

là phẫu thuật ít xâm lấn, thời gian phẫu
thuật ngắn, việc GTTS bằng ropivacain
kết hợp với morphin, fentanyl có thể đảm
bảo cho phẫu thuật thuận lợi.

2. Hiệu quả vô cảm.
Bảng 2: Hiệu quả vô cảm.
Chỉ tiêu

Nhóm RF (n = 30)

Nhóm RM (n = 30)

2,4 ± 1,2

2,6 ± 1,4

2-4

2-5

9/20/1

7/21/2


Thời gian tiềm tàng ức chế vận động ở mức M1
(phút)

5,7 ± 1,9

5,9 ± 1,2

Mức độ ức chế vận động ngay khi kết thúc phẫu
thuật: M0/M1/M2/M3

0/12/12/6

0/13/10/7

Mức độ vô cảm trong phẫu thuật: tốt/khá/trung
bình/kém

29/1/0/0

28/2/0/0

Thời gian tiềm tàng ức chế đến mức T10 (phút)

Mức ức chế cảm giác ở phút thứ 20 (n) T8/T6/T4

Thời gian phục hồi vận động (phút)
Thời gian giảm đau sau mổ (phút)

82,6 ± 5,4


84,4 ± 6,5

315,5 ± 35,5

1224,0 ± 121,3*

250 - 366

1020 - 1420

(*p < 0,05)
- Thời gian tiềm tàng ức chế cảm giác
đau ở mức T10: là thời gian tính từ khi
GTTS đến khi ức chế cảm giác đạt tới
mức T10 (ngang rốn) cho phép đặt máy
nội soi tiến hành phẫu thuật. Sự khác biệt
giữa 2 nhóm không có ý nghĩa thống kê
(p > 0,05). Kết quả nghiên cứu này thấp
hơn của Füsun Bozkirli và CS (2007):
4,5 ± 2,5 phút [5], do dùng liều ropivacain
cao hơn (22,5 mg). Thời gian này không
quá dài, vừa đủ để tiến hành chuẩn bị tư
thế BN, sát trùng, chải săng vùng mổ.
- Mức ức chế cảm giác đau đạt được
ở phút thứ 20: để phẫu thuật nội soi tán
SNQ ngược dòng mức phong bế cảm
196

giác cần đạt tới mức T8. Trong nhiên

cứu, tất cả BN đều có mức ức chế cảm
giác đau ≥ T8 ở phút thứ 20. Trong đó
phần lớn BN đạt mức ức chế cảm giác T6
sau 20 phút: 20 BN ở nhóm RF và 21 BN
ở nhóm RM. Tương tự kết quả Bipin J.
Ganvit khi GTTS bằng ropivacain kết hợp
fentanyl trong phẫu thuật đường tiết niệu
đạt mức ức chế cảm giác trung bình T6
[6]. Như vậy, với liều thuốc sử dụng ở hai
nhóm nghiên cứu, mức ức chế cảm giác
đau cao nhất đạt được trên BN hoàn toàn
phù hợp với yêu cầu vô cảm cho phẫu
thuật nội soi tán SNQ ngược dòng.
- Thời gian giảm đau sau mổ: là chỉ
tiêu quan trọng trong vô cảm nói chung và


T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 4-2017

trong GTTS nói riêng. Trong nghiên cứu
này, thời gian giảm đau sau mổ tính từ
khi kết thúc cuộc mổ cho đến khi BN có
cảm giác đau rát, khó chịu ở niệu đạo với
VAS ≥ 4 điểm và BN có nhu cầu dùng
thuốc giảm đau. Thời gian giảm đau sau
mổ trung bình của nhóm RF là 315,5 ±
35,5 phút; nhóm RM là 1.224,0 ± 121,3
phút. Kết quả cho thấy thời gian giảm đau
sau mổ ở nhóm RM dài hơn nhóm RF, sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05).

Tương đương với nghiên cứu của
Đỗ Việt Thành [3]: thời gian giảm đau
sau mổ 1281 ± 65,4 phút khi sử dụng
levobupivacain kết hợp với fentanyl và
morphin 0,1 mg trong mổ u phì đại lành
tính tuyến tiền liệt.
Vịêc kết hợp liều nhỏ opioid với thuốc
tê vừa làm tăng cường hiệu quả giảm đau
trong mổ, vừa kéo dài thời gian giảm đau
sau mổ có ý nghĩa rất lớn đối với BN, vì
sau phẫu thuật, BN phải đặt sonde bàng
quang gây cảm giác đau rát, căng tức rất
khó chịu. Như vậy, phối hợp morphin và
fentanyl với ropivacain trong nghiên cứu
này hoàn toàn phù hợp với phẫu thuật nội
soi tán SNQ ngược dòng.
- Mức độ vô cảm trong mổ: số BN có
mức độ vô cảm tốt trong mổ ở nhóm RF
là 29 BN (96,6%), nhóm RM là 28 BN;
mức độ vô cảm khá trong mổ ở nhóm RF
1 BN (3,3%), nhóm RM 2 BN (6,6%);
không có BN nào có mức độ vô cảm
trong mổ trung bình và kém. BN của
chúng tôi đa số đạt mức vô cảm ở T6, là
mức đủ đảm bảo cho phẫu thuật. Mặc dù
ở giai đoạn đầu, mổ nội soi tán SNQ
ngược dòng khi bơm căng nước vào niệu
quản vẫn có tỷ lệ rất ít BN có cảm giác
căng tức. Do BN tỉnh táo trong quá trình


phẫu thuật nên khó tránh khỏi lo lắng, tuy
nhiên sau khi bổ sung thêm thuốc
midazolam hoặc fentanyl đều đáp ứng tốt.
- Tác dụng ức chế vận động: thời gian
tiềm tàng ức chế vận động mức M1 của
nhóm RF là 5,7 ± 1,9 phút và của nhóm
RM là 5,9 ± 1,2 phút. Sự khác biệt không
có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Kết quả
này phù hợp với nghiên cứu của Ngô
Quốc Dinh khi GTTS bằng ropivacain kết
hợp với fentanyl trong mổ u phì đại lành
tính tuyến tiền liệt là 5,2 ± 2,1 phút [4]
nhưng dài hơn kết quả của Chaudhary và
CS (2014): nhóm ropivacain 15 mg là 3,9
± 1,3 phút và nhóm ropivacain 13,5 mg
kết hợp 10 µg fentanyl là 3,5 ± 1,1 phút
[7]. Do Chaudhary và CS dùng liều
ropivacain cao hơn. Tỷ lệ BN đạt mức ức
chế vận động mức M3 (Bromage 3) ngay
khi kết thúc phẫu thuật trong nhóm RF là
6 BN (20%) và nhóm RM là 7 BN
(23,3%), sự khác nhau của hai nhóm
không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05).
- Thời gian phục hồi vận động: là thời
gian tính từ lúc BN bị ức chế vận động ở
mức Bromage 1 (M1) đến khi phục hồi
vận động hoàn toàn Bromage 0 (M0).
Thời gian phục hồi vận động của nhóm
RF là 125,6 ± 5,4 phút, nhóm RM là 126,5
± 10,5 phút (bảng 1). Kết quả của chúng

tôi phù hợp với Ngô Quốc Dinh khi GTTS
mổ nội soi u phì đại lành tính tuyến tiền
liệt là 128,5 ± 25,5 phút [4]. Như vậy, khi
sử dụng ropivacain trong GTTS có thời
gian ức chế vận động ngắn, BN phục hồi
vận động sớm, giảm các nguy cơ huyết
khối, tắc mạch sau mổ, cải thiện sự hài
lòng của BN, giúp giảm thời gian nằm
viện.
197


T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 4-2017

3. Ảnh hưởng trên tuần hoàn.

Biểu đồ 1: Thay đổi tần số tim ở các thời điểm.

Biểu đồ 2: Thay đổi huyết áp động mạch trung bình ở các thời điểm.
Ảnh hưởng trên huyết động là một yếu
tố quan trọng để đánh giá tính an toàn của
phương pháp vô cảm. Tần số tim của
nhóm RF và nhóm RM có xu hướng giảm
ở thời điểm T15 đến T20 phút sau gây tê,
sau đó ổn định từ phút thứ 30 và không
thay đổi nhiều trong suốt quá trình phẫu
thuật và không gặp BN nào trong mổ
mạch chậm dưới 60 chu kỳ/phút. Hạ huyết
áp là một trong các tác dụng phụ thường
gặp trong GTTS, ở cả 2 nhóm huyết áp

đều có xu hướng giảm do tác dụng ức chế
giao cảm của thuốc tê. Tuy nhiên, sau đó

huyết áp lại dần trở về mức bình thường
và không BN nào hạ huyết áp > 20% so
với trước GTTS. Như vậy, sử dụng liều
ropivacain 10 mg đủ bảo đảm cho phẫu
thuật và ít ảnh hưởng lên huyết động.
4. Ảnh hưởng trên hô hấp.
Tần số thở trung bình tại các thời điểm
theo dõi của nhóm RF và nhóm RM lần
lượt là 16,7 ± 2,4; 15,3 ± 3,8 nhịp/phút,
không có BN nào bị ức chế hô hấp (tần
số thở < 10 nhịp/phút). SpO2 ở cả 2 nhóm
tại các thời điểm luôn > 98%.

5. Tác dụng không mong muốn.
Bảng 3:
Tác dụng không mong muốn
Buồn nôn, nôn
Run
Ngứa
Đau đầu

198

Nhóm RF (n = 30)

Nhóm RM (n = 30)


0

8 (26,6%)

3 (10%)

1 (3,3%)

0

1 (3,3%)

1 (3,3%)

1 (3,3%)


T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 4-2017

- Run: thường gặp trong GTTS,
nguyên nhân và cơ chế của hiện tượng
run đến nay chưa rõ và còn nhiều ý kiến
khác nhau. Trong nghiên cứu của chúng
tôi, 3 BN (10%) ở nhóm RF và 1 BN
(3,3%) ở nhóm RM xuất hiện run, tuy
nhiên hiện tượng này mất đi nhanh chóng
sau khi tiêm tĩnh mạch chậm 30 - 50 mg
dolargan và nên dự phòng bằng cách
sưởi ấm bằng chăn điện cho BN, ủ ấm
dịch truyền khi thời tiết lạnh. Ngứa gặp

1 BN (3,3%) ở nhóm RM, ngứa ở vùng
mặt và vùng da trước ngực sau mổ, tuy
nhiên ngứa tự khỏi và không gây khó chịu
nhiều cho BN.
- Buồn nôn và nôn: nguyên nhân gây
buồn nôn và nôn trong GTTS chủ yếu là
tụt huyết áp và tác dụng phụ của opioid.
Nhóm RF không có BN nào buồn nôn,
nôn; nhưng nhóm RM gặp 8 BN (26,6%)
buồn nôn, nôn, những BN này được điều
trị bằng prezinton 4 - 8 mg tiêm tĩnh
mạch. Như vậy, tỷ lệ buồn nôn, nôn trong
nhóm RM cao hơn trong nhóm RF.
- Đau đầu là biến chứng khá hay gặp
với tỷ lệ thay đổi từ 1,6 - 30% và cũng là
biến chứng gây nhiều tranh cãi. Chúng tôi
gặp 1 BN mỗi nhóm. Khi tiến hành nghiên
cứu, chúng tôi không gặp các tác dụng
không mong muốn khác như máu tụ,
nhiễm trùng, đau lưng, liệt chi dưới.
KẾT LUẬN
Gây tê tủy sống bằng hỗn hợp thuốc
RF hoặc RM cho phẫu thuật nội soi tán
SNQ ngược dòng đều có hiệu quả vô
cảm tốt: tất cả BN đều đạt mức độ vô
cảm tốt và khá với mức ức chế cảm giác
đau ≥ T8 tại phút thứ 20; thời gian phục
hồi vận động ngắn; thời gian giảm đau
sau mổ kéo dài: của nhóm RM (1.224,0 ±
121,3 phút) dài hơn nhóm RF (315,5 ±


35,5 phút) (p < 0,05); ít ảnh hưởng lên hô
hấp và tuần hoàn. Tác dụng không mong
muốn gồm buồn nôn, nôn chỉ gặp ở nhóm
RM (8 BN = 26,6%), run (10% ở nhóm
RF; 3,3% ở nhóm RM), ngứa 3,3% ở
nhóm RM và đau đầu 3,3% ở mỗi nhóm.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Quán Anh. Sỏi niệu quản - Bệnh
học ngoại khoa tập II. Nhà xuất bản Y học. Hà
Nội. 2006, tr.200-205.
2. Trương Minh Hải. So sánh GTTS bằng
levobupivacain kết hợp fentanyl và bupivacain
kết hợp fentanyl trong phẫu thuật nội soi tán
SNQ ngược dòng. Luận văn Bác sỹ Chuyên
khoa Cấp II. Học viện Quân y. Hà Nội. 2014.
3. Đỗ Việt Thành. So sánh GTTS bằng
levobupivacain kết hợp fentanyl
với
levobupivacain kết hợp fentanyl và morphin
trong phẫu thuật nội soi u phì đại tuyến tiền
liệt. Luận văn Bác sỹ Chuyên khoa Cấp II.
Học viện Quân y. 2014.
4. Ngô Quốc Dinh. So sánh tác dụng
GTTS bằng bupivacain kết hợp fentanyl với
ropivacain kết hợp fentanyl trong phẫu thuật
cắt u phì đại lành tính tuyến tiền liệt nội soi.
Luận văn Tốt nghiệp Bác sỹ Chuyên khoa
Cấp II. Học viện Quân y. 2015.
5. Serap Atabekoglu, Füsun Bozkirli.

Comparison of the clinical effects of
intrathecal ropivacaine and bupivacaine in
geriatric patients undergoing transurethral
resection. Gazi Medical Journal. 2007, 18 (4),
pp.182-185.
6. Bipin J. Ganvit, Parimal H. Patel, Hitesh
R.Ahir. Comparison of intrathecal ropivacaine
with fentanyl and bupivacaine with fentanyl for
urological surgery. International Journal of
Scientific Research. 2013, 2 (12), pp.18-22.
7. Chaudhary A et al. Efficacy of spinal
ropivacaine versus ropivacaine with fentanyl
in transurethral resection operations. Saudi
Journal of Anaesthesia. 2014, 8 (1), pp.88-91.

199



×