Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Đặc điểm lâm sàng và kết quả điều trị phẫu thuật u tủy tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (313.46 KB, 5 trang )

Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014

 

ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ PHẪU THUẬT  
U TỦY TẠI BỆNH VIỆN ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI 
Nguyễn Vũ*, Kiều Đình Hùng* 

TÓM TẮT 
Mục tiêu: U tuỷ sống là những tổn thương có nguồn gốc từ tế bào thần kinh hoặc do di căn đến gây chèn ép 
rễ thần kinh và tuỷ sống. Tuỳ thuộc vào vị trí và bản chất u mà có biểu hiện lâm sàng và kết quả phẫu thuật khác 
nhau. Đề tài này nhằm mục tiêu mô tả biểu hiện lâm sàng và kết quả phẫu thuật u tuỷ tại Bệnh viện Đại học Y 
Hà Nội.  
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Mô tả tiến cứu một loạt ca bệnh, 18 bệnh nhân được phẫu thuật 
u tuỷ sống trong thời gian 4/2013‐9/2014.  
Kết quả nghiên cứu: Tỷ lệ nữ/nam là 1,57/1. Tuổi trung bình là 54,22 (24‐83), độ tuổi gặp nhiều nhất là 
60‐69. Biểu hiện lâm sàng với 61,1% chèn ép rễ, 38,9% chèn ép tuỷ, 16,7% chèn ép cả tuỷ và rễ thần kinh; với 
100% có rối loạn cảm giác, 66,7% rối loạn vận động, đặc biệt có 16,7% rối loạn cơ tròn. Vị trí u tuỷ được phân 
bố: 22,2% u vùng cổ, 33,3% u vùng ngực và 44,5% u vùng thắt lưng. Phân loại theo giải phẫu bệnh: Neurinome 
(38,9%), Ependymome (22,2%), Meningioma (27,8%), chordoma (5,55%) và U di căn (5,55%). Kết quả phẫu 
thuật chung: Tốt (55,6%), trung bình (27,8%) và xấu (16,6%), tiên lượng tốt nhất với u vùng thắt lưng cùng 
với bản chất là neurinome, tiên lượng kém với u vùng ngực hay cổ với bản chất là u di căn và ependymome.  
Kết luận: Biểu hiện lâm sàng của u tuỷ là triệu chứng của cả chèn ép rễ và chèn ép tuỷ. Điều trị phẫu thuật 
u tuỷ cho kết quả tốt đặc biệt là neurinome ở vùng thắt lưng, kết quả kém hơn khi u ở vùng cổ‐ngực với bản chất 
là u di căn hay ependymone. 
Từ khóa: U tủy. 

ABSTRACT 
CLINICAL CHARACTERISTICS AND SURGICAL TREATMENT OUTCOMES  


OF SPINAL TUMORS IN HANOI MEDICAL UNIVERSITY HOSPITAL 
Nguyen Vu, Kieu Dinh Hung * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 6‐ 2014: 86 – 90 
Objects:  Spinal  tumors  are  abnormal  lesions  that  originate  from  neurons  or  metastatic  tumors  and  can 
cause compression to the neural roots and spinal cords. Depending on the location and type of tumors, clinical 
features  and  treatment  results vary  considerably.  This study  was  aimed  to  describe  clinical  characteristics and 
surgical outcomes of spinal cord tumors in  
Materials  and  methods:  This  was  a  descriptive  and  prospective  study  of  18  consecutive  patients  who 
underwent surgical procedures for spinal cord tumors from April 2013 to September 2014.  
Results:  Sex  ratio:  Female/male:  1.57/1.  Mean  age:  54.22  years  (24‐83),  most  common  age:  60‐69  years. 
Clinical  features:  61.1%  nerve  root  compression,  38.9%  spinal  cord  compression,  16.7%  both  nerve  root  and 
spinal cord compression in these 100% with sensory disorder, 66.7% with motor dysfunction and 16.7% with 
vesicorectal  disorder.  Distribution  of  tumor  locations:  22.2%  in  cervical  region,  33.3%  in  thoracic  region  and 
44.5%  in  lumbar  region.  Histological  classification:  neurinoma  (38.9%),  ependymoma  (22.2%),  meningioma 
(27.8%), chordoma (5.55%) and metastatic origin (5.55%). General surgical outcomes: Good (55.6%), moderate 
(27.8%),  bad  (16.6%).  Prognosis  was  good  for  patients  with  tumors  in  the  lumbar  area  and  with  the  type  of 
* Bệnh viện Đại học Y Hà Nội 
Tác giả liên lạc: ThS. Nguyễn Vũ,    ĐT: 0936182005; 

86

Email:  

Chuyên Đề Phẫu Thuật Thần Kinh 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 

Nghiên cứu Y học

 

neurinoma;  prognosis  was  bad  for  those  with  tumors  in  the  cervical  or  thoracic  region  and  with  the  type  of 
ependymoma or metastatic cancer.  
Conclusions:  Clinical  features  of  spinal  tumors  were  the  symtoms  of  nerve  root  and/or  spinal  cord 
compression. Generally, surgical outcomes were efficient, especially for patients with neurinoma in the lumbar 
region and surgical results were deficient for patients with ependymoma or metastatic tumor in the cervical or 
thoracic region. 
Keyword: Spinal tumors 

ĐẶT VẤN ĐỀ 
U  tuỷ  sống  là  những  tổn  thương  tăng  sinh 
trong ống tuỷ có nguồn gốc từ tế bào thần kinh 
hoặc từ nơi khác di căn đến gây chèn ép cấu trúc 
xung quanh như rễ thần kinh hay tuỷ sống gây 
ra các biểu hiện rối loạn vậy động, cảm giác hay 
mất chức năng của tuỷ sống. Năm 1888, Horsley 
và  Gowers  báo  cáo  về  một  trường  hợp  u  trong 
màng cứng ngoài tủy được mổ thành công đầu 
tiên.  Năm  1941  Greengood  đã  mổ  thành  công 
một trường hợp lấy hết u nội tủy, bệnh nhân này 
sau đó hồi phục hoàn toàn về mặt thần kinh và 
35 năm sau vẫn chưa bị tái phát, đặc biệt sự phát 
minh  kính  hiển  vi  phẫu  thuật  bởi  Kurze  vào 
năm 1964 giúp cho việc điều trị phẫu thuật u tuỷ 
phát triển vượt bậc.  
Biểu hiện lâm sàng của u tuỷ thường là bệnh 
cảnh  chung  của  chèn  ép  rễ  ở  giai  đoạn  đầu  và 
chèn ép tuỷ‐thương tổn tuỷ ở giai đoạn tiếp theo. 
Tuy nhiên, triệu chứng thường không điển hình 
mà chủ yếu dựa vào biểu hiện lâm sàng để chẩn 
đoán  định  khu  và  chụp  cộng  hưởng  từ  là  tiêu 

chuẩn vàng để chẩn đoán xác định u tuỷ sống. 
Trong các nhóm lớn u tủy sống, thường gặp 
nhất  là  u  bao  dây  thần  kinh  (Schwannoma  và 
Neurofibroma)  chiếm  30%,  u  màng  não  tủy 
(Meningioma)  chiếm  22%,  đại  đa  số  là  u  lành 
tính  và  ngoài  tuỷ,  với  những  loại  u  này,  việc 
phẫu thuật lấy triệt để u là biện pháp điều trị lý 
tưởng  nhất   nhằm tránh tái  phát.  Ngoài  ra  u  tế 
bào màng lót ống nội tủy (Ependymoma) chiếm 
13% và ít hơn nữa là u tế bào sao (Astrocytoma). 
Đây  là  những  loại  u  thường  nội  tuỷ,  nên  ngoài 
việc  cố  gắng  lấy  u  tối  đa  thì  tạo  hình  ống  sống 
cũng  giúp  cho  việc  cải  thiện  triệu  chứng  cũng 
như  kéo  dài  thời  gian  biểu  hiện  bệnh  trở  lại… 

Phẫu Thuật Cột Sống 

Bên  cạnh  đó  còn  một  số  loại  u  tuỷ  ít  gặp  khác 
như u di căn, u mỡ, u nguyên bào mạch máu, u 
dây sống… 
Chúng  tôi  tiến  hành  nghiên  cứu  này  bước 
đầu mô tả đặc điểm lâm sàng và bước đầu đánh 
giá  kết  quả  phẫu  thuật  u  tuỷ  tại  Bệnh  viện  Đại 
học Y Hà Nội. 

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Tất  cả  18  trường  hợp  bệnh  nhân  được  chẩn 
đoán xác định, tiến hành phẫu thuật và có kết quả 
giải phẫu bệnh là u tuỷ trong thời gian từ 4/2013 

đến 9/2014 tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội. 
Không  có  các  bệnh  lý  thoái  hoá  kèm  theo 
(thoát vị đĩa đệm, trượt đốt sống, hẹp ống sống do 
phì đại xương…) làm ảnh hưởng đến chẩn đoán. 

Phương pháp nghiên cứu 
+  Mô tả tiến cứu một loạt ca bệnh 
+  Các thông tin nghiên cứu cần thu thập: 
•  Thông tin chung của người bệnh: tuổi, giới 
•  Biểu hiện lâm sàng của người bệnh 
•  Vị trí khối u, kích thước khối u 
•  Kết quả mô bệnh học 
•  Kết quả phẫu thuật và các biến chứng 
•  Đánh  giá  kết  quả  phẫu  thuật:  chúng  tôi 
dựa  vào  sự  tiến  triển  phục  hồi  của  các  triệu 
chứng lâm sàng (vận động, cảm giác, cơ tròn…) 
sau phẫu thuật khi bệnh nhân ra viện  
+  Chúng tôi phân loại kết quả sau mổ: 
•  Tốt:  Tự  đi  lại,  hoạt  động  tương  đối  bình 
thường 
•  Trung  bình:  Cần  có  sự  hỗ  trợ  một  phần 
trong đi lại, hoạt động hàng ngày 

87


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014


 
•  Xấu: Liệt hoàn toàn, tử vong 
Ngoài ra chúng tôi so sánh lâm sàng trước và 
sau mổ theo phân loại của Nurick:  
Độ
0

HC CE rễ


1



2



3



4



5




HC CE tuỷ
Đi lại
Không
Không bị ảnh
hưởng

Không bị ảnh
hưởng

Bị ảnh hưởng
ít

Bị ảnh hưởng
nhiều

Chỉ đi với trợ
giúp

Liệt giường

Việc làm
Có thể làm
được
Có thể làm
được
Có thể làm
được
Không thể
làm được
Không thể

làm được
Không thể
làm được

KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN 
Trong  17  tháng  chúng  tôi  tiến  hành  phẫu 
thuật được 18 bệnh nhân u tuỷ với các thể khác 
nhau thu được kết quả như sau: 

Tuổi và giới tính 
Tuổi trung bình trong nghiên cứu của chúng 
tôi là 54,22, với tuổi nhỏ nhất là 24, tuổi lớn nhất 
là 83, gặp nhiều nhất trong nhóm tuổi 60‐69. Các 
nghiên  cứu  của  Lương  Viết  Hoà,  Phạm  Anh 
Tuấn, Sam Safavi‐Abbasi, Piero Conti cũng thấy 
chủ yếu gặp ở người trưởng thành tuy nhiên độ 
tuổi thấp hơn nghiên cứu của chúng tôi(3,4,5,1). 
Nữ  giới  gặp  nhiều  hơn  nam  trong  nghiên 
cứu  này  với  tỷ  lệ  nữ/nam=1,57/1.  Nghiên  cứu 
của Lương Viết Hoà cũng cho kết quả tương tự, 
còn  nghiên  cứu  của  Sam  Safavi‐Abbasi,  Piero 
Conti gặp nam nhiều hơn nữ(5,1). 

Thời  gian  biểu  hiện  bệnh  và  triệu  chứng 
lâm sàng 
Đa  số  bệnh  nhân  đều  đến  viện  muộn  khi 
đã  có  cả  biểu  hiện  chèn  ép  rễ  và  chèn  ép  tuỷ, 
bệnh nhân thường lựa chọn các phương pháp 
dân  gian  để  điều  trị  trước  khi  đến  cơ  sở  y  tế 
chuyên  khoa  để  chụp  phim  chẩn  đoán.  Trong 

nghiên cứu của chúng tôi thời gian trung bình 
từ lúc biểu hiện bệnh đến lúc được chẩn đoán 
là 16,72 tháng, sớm nhất là 12 tháng và muộn 
nhất là 28 tháng. 

88

Biểu hiện triệu chứng lâm sàng khi vào viện 
là  100%  bệnh  nhân  có  chèn  ép  tuỷ  và  rễ  thần 
kinh với 61,1% chèn ép rễ đơn thuần, 38,9% chèn 
ép tuỷ đơn thuần và 16,7% có cả triệu chứng của 
chèn ép rễ và chèn ép tuỷ. 66,7% bệnh nhân có 
rối  loạn  vận  động  trong  đó  có  3  bệnh  nhân 
không  tự  đi  lại  được.  Rối  loạn  cảm  giác  chúng 
tôi gặp ở 100% bệnh nhân từ cảm giác nông đến 
cảm  giác  sâu  bao  gồm  cả  cảm  giác  dị  cảm  kiến 
bò‐tê bì của chèn ép rễ và mất cảm giác nông sâu 
của chèn ép cột sau tuỷ sống. Đặc biệt có 3 bệnh 
nhân  (16,7%)    có  biểu  hiện  rối  loạn  cơ  tròn. 
Nghiên  cứu  của  Lương  Viết  Hoà  tỷ  lệ  rối  loạn 
vận động là 66,7%, rối loạn cảm giác 77,8%(3). 

Đặc điểm của u tuỷ trong nghiên cứu 
Phân loại u tuỷ theo vị trí khối u 
Trong nghiên cứu của chúng tôi: U tuỷ có ở 
mọi vị trí, 4 bệnh nhân (22,2%) u nằm ở vùng tuỷ 
cổ; 6 bệnh nhân (33,3%) u nằm ở vùng tuỷ ngực 
và 8 bệnh nhân (44,5%) u nằm ở vùng thắt lưng 
cùng.  Nghiên  cứu  của  Piero  Conti  vùng  cổ 
(18,4%), ngực (33%), thắt lưng cùng (48,6%)(1). 

Kích thước của khối u trong nghiên cứu của 
chúng  tôi  cũng  cho  thấy  đa  số  bệnh  nhân  đến 
viện  muộn  khi  khối  u  đã  lớn,  với  55,6%  bệnh 
nhân  khối  u  >2cm,  27,8%  bệnh  nhân  khối  u  1‐
2cm và chỉ có 16,6% bệnh nhân khối u <1cm. 

Phân loại u tuỷ theo giải phẫu bệnh 
Bảng 3.1: Phân loại u tủy theo giải phẫu 
NeurinomeEpendynome Chordoma Meningioma U di
căn
N
7
4
1
5
1
%
38,9
22,2
5,55
27,8
5.55

Đa  phần  trong  nghiên  cứu  của  chúng  tôi 
gặp là u màng não tuỷ và u bao dây thần kinh, 
đặc  biệt  có  2  trường  hợp  u  vùng  chóp  tuỷ  là 
ependynome.  Nghiên  cứu  của  Herbert  H 
Engelhard 
gặp: 
meningioma 

(24,4%), 
ependymoma  (23,7%)  và  schwannoma 
(21,2%)…(2). 
Đa  phần  trong  nghiên  cứu  của  chúng  tôi 
neurinome gặp ở u vùng thắt lưng cùng, u màng 

Chuyên Đề Phẫu Thuật Thần Kinh 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 

Nghiên cứu Y học

 
não tuỷ thường gặp ở vùng cổ còn ependymome 

Ependymome  là  50%.  Nghiên  cứu  của  Piero 

gặp ở vùng tuỷ ngực. Với mỗi loại u khác nhau 

Conti tỷ lệ hồi phục của Neurinome là 60,3%(1). 

thì  mức  độ  hồi  phục  và  tiến  triển  bệnh  cũng 

KẾT LUẬN 

khác nhau. 

Đặc điểm lâm sàng của bệnh nhân u tuỷ 


Kết quả phẫu thuật 
Bảng 3.2: kết quả phẫu thuật 
GPB
Tốt Trung bình Xấu N
Cổ
Meningiome 1
1
1
4
U di căn
0
0
1
Ngực
Meningioma 1
1
0
6
Ependynome 1
2
1
Thắt lưng cùng Neurinome
6
1
0
8
Chodoma
1
0
0

N
10
5
3
18

Bệnh nhân đến viện với biểu hiện chèn ép rễ 
thần kinh và chèn ép tuỷ hoặc cả hai với các rối 
loạn vận động từ nhẹ đến nặng và rối loạn cảm 
giác  từ  tê  bì  dị  cảm  đến  rối  loạn  cảm  giác  sâu‐
bản thể. Đôi khi gặp rối loạn cơ tròn đặc biệt với 
những trường hợp u nằm trong chóp tuỷ. 
Với vị trí u gặp nhiều nhất ở vùng thắt lưng 
cùng,  sau  đó  đến  ngực  và  cổ,  giải  phẫu  bệnh 

Qua nghiên cứu cho thấy: Tỷ lệ thành công 

khối u gặp trong nghiên cứu giảm dần theo thứ 

cao nhất nằm ở nhóm u vùng thắt lưng cùng (7/8 

tự  là  neurinome,  meningiome,  ependymome, 

bệnh nhân) với giải phẫu bệnh là u bao dây thần 

chordoma và u di căn. 

kinh (6/8 bệnh nhân) và u dây sống. Nghiên cứu 

Kết quả phẫu thuật u tuỷ 


của  Sam  Safavi‐Abbasi  cho  kết  quả  tương  tự(5). 
Ependynome phẫu thuật cho kết quả khả quan ở 
25%,  50%  cho  kết  quả  chấp  nhận  được  và  25% 
cho  kết  quả  kém.  Phẫu  thuật  u  vùng  tuỷ  ngực 
cho kết quả tốt ở 33,3% số trường hợp. U vùng 
cổ cho kết quả thấp nhất do thường ảnh hưởng 
đến vận động và cảm giác tứ chi, đặc biệt là với 
trường hợp u di căn. Kết quả phẫu thuật chung: 
tốt (55,6%), trung bình (27,8%), xấu (16,6%). 
Với 3 trường hợp không tự đi lại được và rối 
loạn  cơ  tròn,  ngay  sau  mổ  bệnh  nhân  chỉ  cảm 

Kết  quả  phẫu  thuật  chung  cho  các  loại  u  là 
tốt  55,6%,  trung  bình  27,8%  và  xấu  16,6%.  Tiên 
lượng tốt với những khối u vùng thắt lưng cùng 
với  bản  chất  là neurinome, tiên  lượng  kém  dần 
nếu u ở vùng ngực với bản chất là ependymome 
và kém nhất là vùng cổ với bản chất là u di căn. 
Những trường hợp không tự đi lại được và rối 
loạn  cơ  tròn  trước  mổ  cần  có  thời  gian  dài  sau 
mổ để hồi phục nhưng kết quả không khả quan. 

TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.

Conti,  P.,  Pansini,  G.,  Mouchaty,  H., Capuano  C,  Conti  R., 
(2004).  Spinal  neurinomas:  retrospective  analysis  and 
long‐term  outcome  of  179  consecutively  operated  cases 
and review of the literature. Surgical neurology,  61(1),  p. 

34‐43. 

2.

Engelhard,  H.H.,  Villano,  J.L.,  Porter,  K.R.,  et  al.,  (2010). 
Clinical presentation, histology, and treatment in 430 patients 
with primary tumors of the spinal cord, spinal meninges, or 
cauda equina: Clinical article. Journal of Neurosurgery: Spine,  
13(1),  p. 67‐77. 

3.

Lương Viết Hoà, Trần Thị Mai Linh, and Hoàng Thế Hưng, 
(2013).  Đặc  điểm lâm  sàng  và  kết quả  điều  trị  phẫu  thuật  u 
tuỷ. Y học thực hành,  891‐892,  p. 153‐155. 

4.

Phạm Anh Tuấn, (2013). U trong màng cứng ngoài tuỷ sống.  
Phẫu thuật thần kinh.  p. 501‐508. Nhà xuất bản Y Học. 

thấy có phục hồi về mặt cảm giác, phục hồi vận 
động không rõ rệt và chưa có biến chuyển về rối 
loạn  cơ  tròn.  Sau  6  tháng  thì  hai  bệnh  nhân  có 
hồi phục về vận động và đại tiểu tiện tự chủ, 1 
bệnh  nhân  diễn  biến  bệnh  nặng  hơn.  Nghiên 
cứu của Lương Viết Hoà cũng cho kết quả tương 
tự  như  chúng  tôi.  Nghiên  cứu  của  Phạm  Anh 
Tuấn  cho  thấy  tỷ  lệ  hồi  phục  của  meningiome 
tuỷ 53‐95%, với neurinome là 80‐93,6%(4). Nghiên 

cứu  của  Võ  Văn  Nho  tỷ  lệ  hồi  phục  của 

Phẫu Thuật Cột Sống 

89


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014

 
5.

Safavi‐Abbasi  S,  Senoglu  M,  Theodore  N, Workman  RK, 
Gharabaghi  A,  Feiz‐Erfan  I,  Spetzler  RF,  Sonntag  VK.., 
(2008). 
Microsurgical 
management 
of 
spinal 
schwannomas:  evaluation  of  128  cases.  Journal  of 
Neurosurgery: Spine,  9(1),  p. 40‐47. 

Ngày nhận bài báo:  

 

 


24/10/2014 

Ngày phản biện nhận xét bài báo: 

02/11/2014 

Ngày bài báo được đăng:  

05/12/2014 

 

 
 

90

Chuyên Đề Phẫu Thuật Thần Kinh 



×