Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Kinh nghiệm điều trị phẫu thuật hẹp trên van động mạch chủ trong hội chứng williams beuren

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (415.13 KB, 5 trang )

Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013

KINH NGHIỆM ĐIỀU TRỊ PHẪU THUẬT HẸP TRÊN VAN ĐỘNG MẠCH CHỦ 
TRONG HỘI CHỨNG WILLIAMS BEUREN 
Văn Hùng Dũng*, Phan Kim Phương*

TÓM TẮT 
Mục tiêu: Đánh giá kết quả phẫu thuật về dài hạn ở các bệnh nhân mắc hội chứng Williams‐Beuren.
Phương pháp nghiên cứu: Hồi cứu các bệnh nhân mắc hội chứng Williams‐Beuren được phẫu thuật tại Viện
Tim Thành Phố Hồ Chí Minh từ 1995‐2012.
Kết quả: Có 6 bệnh nhân hẹp trên van động mạch chủ bẩm sinh mắc hội chứng Williams‐Beuren (WBS) được
phẫu thuật. Phương thức phẫu thuật bao gồm: Nới rộng động mạch chủ lên và thân động mạch phổi và hai nhánh
(4 trường hợp), nới rộng động mạch chủ lên và 2 nhánh động mạch phổi (1 trường hợp), nới rộng động mạch chủ
lên đơn thuần (1 trường hợp). 2 trường hợp có cắt mép van động mạch phổi và 1 cắt màng ngăn dưới van động
mạch chủ. Không có tử vong phẫu thuật. Theo dõi sau mổ từ 10 tháng đến 12 năm, trung bình 6 năm. Có 1 trường
hợp hẹp nhẹ động mạch phổi tái phát và một trường hợp hẹp vừa động mạch chủ tái phát. Không có tử vong muộn
và cũng chưa có bệnh nhân nào cần mổ lại.
Kết luận: Cắt bỏ mô xơ hóa và mở rộng tối đa đường kính động mạch chủ và ĐMP là phương pháp điều trị
phẫu thuật được chọn. Theo dõi lâu dài sau phẫu thuật là cần thiết với các bệnh nhân WBS.
Từ khóa: Triệu chứng Williams Beuren.

ABSTRACT 
SURGICAL EXPERIENCES WITH SUPRAVALVULAR AORTIC STENOSIS IN WILLIAMS‐BEUREN
SYNDROME
Van Hung Dung, Phan Kim Phuong  
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2013: 194 ‐ 197 
Objective: To re‐value the result of surgical treatment on long‐term for William Beuren‘s patients.
Methods: Retrospective study in WBS‘s patients underwent operations to treat congenital supravalvular aortic
and pulmonary stenosis at The Heart Institution HCMC between 1995 and 2012.


Results: We reported 6 patients with Williams‐Beuren syndrome who had operated. Surgical procedures
included patch enlargement of the aorta, pulmonary trunk and two branches (n = 4), patch enlargement of the aorta
and two pulmonary branches (n =1) and patch enlargement of the aorta only (n = 1). There was no early deaths.
Follow up ranged from 10 months to 12 years (medium 6 years). One case had mild pulmonary stenosis and another
case had moderate aortic stenosis at the time of study. No late death and no case needs to re‐operation.
Conclusions: The best surgical option are resection all of fibrotic tissue and maximal enlargement of the aorta
and pulmonary. Long term follow up is necessary for all WBS’s patients.
Key word: Williams Beuren syndrome.

194

Chuyên Đề Ngoại Nhi  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 

Nghiên cứu Y học

ĐẶT VẤN ĐỀ 
Williams‐Beuren (WBS) là một hội chứng rối 
* Viện Tim Thành Phố Hồ Chí Minh. 
Tác giả liên lạc: Bs Văn Hùng Dũng ĐT: 0917882488 

loạn  đa  cơ  quan,  rất  hiếm  gặp  chỉ  1/20.000  hay 
1/25.000 số sinh, với trai và gái bằng nhau, bệnh 
nhân  có  đủ  số  nhiễm  sắc  thể  là  23  cặp,  nhưng 
nhiễm sắc thể số 7 bị mất đi một đoạn, do đó tế 
bào  sẽ  thiếu  khoảng  26‐28  gene  trong  đó  các 
gene  CLIP2,  ELN,  GTF21,  GTF21RD1,  LIMK1. 
Trong  số  những  gene  thiếu  này  có  gene  tạo  ra 

chất elastin là protein có tính co dãn và tăng sức 
mạnh, vì vậy thành mạch máu của cơ thể thiếu 
chất elastine nên mất tính đàn hồi và trở nên hẹp 
xơ  cứng.  Hậu  quả  là  trẻ  bị  tổn  thương  về  tim 
mạch, triệu chứng khác là trẻ bị chậm phát triển 
về mặt trí tuệ. Bệnh này gặp ở mọi chủng tộc và 
các nước trên thế giới. Bệnh nhân thường có nét 
mặt  đặc  biệt  tương  tự  nhau,  tánh  tình  cởi  mở, 
thân  thiện,  ưa  trò  chuyện,  nhỏ  con  và  trí  tuệ 
kém.  Bệnh  do  bác  sĩ  J.C.P.  Wiliams ở  New 
Zealand phát hiện và báo cáo vào 1961 và ngay 
sau đó là BS Beuren báo cáo 11 trường hợp mới 
vào 1962. 

Email:  

 
Hình 2. BN Ngo Ng Truong A

Chẩn đoán xác định

 
Hình 3. Chụp mạch máu thấy hẹp trên van ĐMC.

 
Hình 1. Trẻ mắc hội chứng Williams‐Beuren

Hình 4. Vi thể mạch máu bình thường và không có
elastine.


Chuyên Đề Ngoại Nhi 

195


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013

Thử máu với kỹ thuật FISH ( Fluorescent in 
situ hybridization) hoặc real time PCR, ACGH là 
các thử nghiệm DNA để tìm locus 7q11.23 nằm 
trên  nhiễm  sắc  thể  số  7  bị  mất.  Đây  là  thử 
nghiệm định bệnh cho 98% trường hợp trẻ WBS. 
Tại  Việt  Nam,  có  thể  dùng  xét  nghiệm  MLPA 
(multiplex 
ligation‐dependent 
probe 
amplication) để chẩn đoán xác định. 

Mục tiêu nghiên cứu 
Đánh  giá  kết  quả  phẫu  thuật  về  dài  hạn  ở 
các bệnh nhân mắc hội chứng Williams‐Beuren. 

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Hồi  cứu  các  bệnh  nhân  mắc  hội  chứng 
Williams ‐ Beuren được phẫu thuật tại Viện Tim 
thành phố Hồ Chí Minh từ 1995‐2012. 

KẾT QUẢ 

Chúng  tôi  hồi  cứu  6  trường  hợp  mắc  hội 
chứng WBS với thương tổn hẹp  trên  van  ĐMC 
kết  hợp  với  hẹp  ĐMP  đã  phẫu  thuật  tại  Viện 
Tim Thành Phố Hồ Chí Minh từ 1995‐ 2012. Có 4 
trường hợp là nam giới, tuổi nhỏ nhất là 1 và lớn 
nhất 6 tuổi.  

Bảng 1. Đặc điểm phẫu thuật và theo dõi của 6 bệnh nhân WBS.
Tuổi-giới
BN 1: 1 tuổi,
Nam- 13,5kg
BN 2: 2 tuổi,
Nam-10,5kg

Tổn thương

Phẫu thuật

Theo dõi

Hẹp ĐMC dạng ống,đk 5mm, dài
6mm. Hẹp thân ĐMP+ 2 nhánh

Patch ĐMC lên + patch thân ĐMP &
10 tháng
2 nhánh

Hẹp ĐMC dạng màng,Gd 60/40.
Hẹp nhẹ thân ĐMP + van


Patch ĐMC lên + patch thân ĐMP+
cắt mép van ĐMP

12 năm

Cắt màng ngăn dưới van ĐMC+
BN 3: 2 tuổi, Nữ- Hẹp ĐMC lên dạng ống+ hẹp dưới
patch ĐMC lên. Patch thân ĐMP + 2
6,8kg
van. Hẹp nặng thân ĐMP + 2 nhánh
nhánh
Hẹp
nặng
ĐMC
lên
dạng
ống,
BN 4: 6 tuổi, NamPatch ĐMC lên dạng Y
18kg
Gd 90/60
BN 5: 3 tuổi, NữHẹp nặng ĐMC lên dạng ống, Gd Patch ĐMC lên. Patch thân ĐMP+
10kg
50/20.Hẹp van+thân ĐMP,Gd 80/47
nhánh trái+ cắt bỏ van ĐMP
BN 6: 2 tuổi
Nam- 10kg

Hẹp nặng ĐMC lên dạng ống, Gd
80/48. Hẹp 2 nhánh ĐMP, Gd 60/45


Hiện  tại,  chúng  tôi  chẩn  đoán  chủ  yếu  dựa 
vào  biểu  hiện  lâm  sàng  (nét  mặt  đặc  trưng: 
“elfin‐like  faces”,  chậm  phát  triển  trí  tuệ,  tăng 
calci  máu)  phối  hợp  với  siêu  âm  tim  (hẹp  trên 
van ĐMC, ĐMP) và XN gene karyotype loại trừ 
các  khiếm  khuyết  về  nhiễm  sắc  thể  khác  như 
Down, Klinefelter,  Turner.  Chỉ  một  trường  hợp 
được định bệnh bằng phương pháp MLPA. Bốn 
trường hợp có nhóm máu O, một nhóm máu A 
và 1 nhóm máu B. Một số đặc điểm lâm sàng và 
cận lâm sàng được liệt kê trong bảng 1. 
Như vậy chỉ có 1 trường hợp hẹp ĐMC lên 
đơn thuần, còn lại đều hẹp nặng ĐMC và ĐMP. 
Hai  trường  hợp  có  hẹp  van  ĐMP  đi  kèm.  Về 
phương diện phẫu thuật, 5 trường hợp đều cần 
miếng vá màng ngoài tim tự thân (đã xử lý bằng 
glutaraldehyte)  để  mở  rộng  tối  đa  đường  kính 
của ĐMC lên, ĐMP và 2 nhánh sau khi đã cắt bỏ 
mô  xơ.  Bệnh  nhân  còn  lại  chỉ  cần  mở  rộng  gốc 

196

Patch ĐMC lên dạng Y
Patch 2 nhánh ĐMP

Siêu âm cuối
Gd transAo:10/3
Gd transPul:40
Gd transAo:5/2
Gd transPul:8/4


7 năm

Gd transAo: 6/2
Gd transPul: 25

6 năm

Gd transAo:8/4

8 năm
2 năm

Gd transAo:10/3
Gd transPul: 50/20
Gd transAo:50/30
Gd transPul:7/2

ĐMC lên. 2 trường hợp cần cắt mép van hoặc cắt 
bỏ van ĐMP kèm theo.  
Theo dõi từ 10 tháng đến 12 năm sau mổ, có 
một  trường  hợp  tái  hẹp  ĐMC  lên  (BN  số  6)  và 
một trường hợp khác bắt đầu bị tái hẹp chỗ chia 
ĐMP (BN số 5). Nguyên nhân có thể do lớp mô 
thành mạch máu lớn của bệnh nhân WBS dường 
như không ổn định hoặc do sự co rút của miếng 
vá màng ngoài tim sau nhiều năm. Điều này cho 
thấy việc theo dõi lâu dài sau phẫu thuật là hết 
sức cần thiết.  


BÀN LUẬN 
Với các đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng 
đặc  thù,  hội  chứng  WB  không  khó  để  chẩn 
đoán.  Tuy  nhiên,  việc  điều  trị  phẫu  thuật  cho 
nhóm  bệnh  nhân  này  cũng  như  nhóm  bệnh 
nhân  bị  hẹp  trên  van  ĐMC  bẩm  sinh  thật  sự 
không dễ dàng và cần phải theo dõi tiếp tục sau 
mổ  dài  lâu.  Yuan  đã  báo  cáo  1  trường  hợp  cần 

Chuyên Đề Ngoại Nhi  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 

Nghiên cứu Y học

mổ  lại  sau  phẫu  thuật  lần  đầu  8  năm  do  hẹp 
đường thoát thất trái tái phát và BN này đã cần 
làm phẫu thuật Konno và thay van ĐMC(9). 

mở rộng hoặc cắm lại các nhánh ĐMP bị hẹp để 
tránh hẹp đường thoát thất phải tồn lưu và giảm 
tỷ lệ tử vong về dài hạn(5). 

Tỷ  lệ  WBS  trên  nhóm  bệnh  hẹp  trên  van 
ĐMC  bẩm  sinh  rất  thay  đổi  tùy  theo  báo  cáo, 
đơn cử như tác giả Brown là 14%, JAM van Son 
tăng lên đến 38,7%, trong khi đó Stamm báo cáo 
đến 61,3% và tỷ lệ của chúng tôi chỉ 10%. Ngược 
lại,  tỷ  lệ  hẹp  ĐMP  và  nhánh  đi  kèm  ở  các  BN 

WBS  lại  tương  đối  giống  nhau:  Brown:  64%, 
Stamm: 64,3%, JAM van Son: 68%, English: 64% 
và chúng tôi là 83%. 

KẾT LUẬN 

Vật  liệu  dùng  để  mở  rộng  chỗ  hẹp:  Có  rất 
nhiều loại như màng ngoài tim tự thân, Dacron 
thường,  Dacron  có  tráng  phủ  collagen 
(Haemashield),  PTFE  (Acuseal  Gore),  mô  ĐMC 
đồng  loại  (aortic  homograft  tissue).  Các  tác  giả 
Brown,Stamm  và  Minakata  ưu  tiên  sử  dụng 
Haemashield  và  PTFE  cho  kết  quả  lâu  dài  tốt. 
Chúng  tôi  và  tác  giả  JAM  van  Son  thích  dùng 
màng ngoài tim hơn các vật liệu khác vì đường 
may ít chảy máu, chi phí vật liệu không đáng kể 
và  không  bị  thuyên  tắc.  Nhìn  chung,  vật  liệu 
làm  miếng  vá  nới  rộng  ĐMC  và  ĐMP  ít  ảnh 
hưởng đến kết quả về dài hạn. 
Mức độ mở rộng: Đại đa số các tác giả đều 
yêu  cầu  mở  rộng  tối  đa  có  thể  (từ  gốc  ĐMC 
ngang  mức  xoang  Valsalva  đến  vùng  có  mô 
bình thường) với miếng vá hình thoi  (diamond 
shape) hoặc chữ Y (Doty procedure). Cần chú ý 
cắt  bỏ  các  mô  xơ  dày  hoặc  phải  lột  nội  mạc  (2,7) 
đến  tận  mô  tương  đối  bình  thường  trước  khi 
tiến hành mở rộng ĐMC lên.Đây là hai điểm rất 
quan trọng quyết định sự thành công của phẫu 
thuật cũng như làm giảm tỷ lệ tái hẹp sau mổ.  
Hẹp  van,  thân  ĐMP  và  2  nhánh  đi  kèm 

thường gặp nên cần can thiệp mở rộng, cắt mép 
van  như  phía  ĐMC.  Một  số  ít  trường  hợp  cần 
phải cắt bỏ van ĐMP và cắt mô xơ gây hẹp trong 
lòng thất phải. Với các BN nhẹ cân việc mở rộng 
thân  ĐMP  và  nhánh  sẽ  dễ  dàng  và  chính  xác 
hơn khi còn kẹp ngang ĐMC. Monge còn lưu ý 
cần phải chụp mạch máu phổi chọn lọc để chẩn 
đoán có hẹp mạch máu phổi ngoại biên và phải 

Chuyên Đề Ngoại Nhi 

Cần nghĩ đến  WBS  khi  gặp  một  bệnh  nhân 
có hẹp ĐMC lên bẩm sinh có hoặc không đi kèm 
với hẹp thân ĐMP và 2 nhánh. 
Cắt bỏ mô xơ hóa và mở rộng tối đa đường 
kính  ĐMC  và  ĐMP  là  phương  pháp  điều  trị 
phẫu thuật được chọn.  
Theo dõi lâu dài sau phẫu thuật là cần thiết 
với các bệnh nhân WBS. 

TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.

2.

3.

4.

5.


6.

7.
8.

9.

10.

11.

Albacker  TB,  Payne  DM,  Dancea  A,  Tchervenkov  C  (2009). 
Management  of  supravalvar  aortic  stenosis  and  severely 
depressed left ventricular function in a neonate with Williams 
syndrome. Euro J Cardio‐thorac Surg;35: pp 915—916. 
Brown  JW,  Ruzmetov  M,  Vijay  P,  Turrentine  MW  (2002). 
Surgical repair of congenital supravalvular  aortic  stenosis  in 
children. Eur J Cardiothorac Surg; 21: pp 50–56. 
English  RF,  Colan  SD,  Kanani  PM,  Ettedgui  JA  (2003). 
Growth  of  the  aorta  in  children  with  Williams  syndrome: 
does surgery make a difference? Pediatr Cardiol; 24:pp 566–
568. 
Eronen  M,  Peippo  M,  Hiippala  A,  Raatikka  M,  Arvio  M, 
Johansson  R,  Kähkönen  M  (2002).  Cardiovascular 
manifestations in 75 patients with Williams syndrome. J Med 
Genet;39:pp 554–558. 
Minakata  K,  Nishimura  K.,  Nomoto  S,  Matsuda  K,  Ban  T 
(1997).  Surgical  repair  for  supravalvular  aortic  stenosis: 
intermediate to long‐term follow‐up. J Card Surg; 12:pp 398–

402. 
Monge MC, Mainwaring RD, Sheikh  AY,  Reddy  M,  Hanley 
FL  (2013).  Surgical  reconstruction  of  peripheral  pulmonary 
artery stenosis in Williams and Alagille syndromes. J Thorac 
Cardiovasc Surg;145:pp 476‐81. 
Pober  BR  (2010).  Williams‐Beuren  syndrome.  N  Engl  J 
Med;362:pp 239‐52. 
Pober  BR,  Johnson  M,  Urban  Z  (2008).  Mechanisms  and 
treatment  of  cardiovascular  disease  in  Williams‐Beuren 
syndrome. J Clinical Investigation;118:pp 1606‐1615. 
Stamm C (1999). Forty‐one years of surgical experience with 
congenital supravalvular aortic stenosis. J Thorac Cardiovasc 
Surg; 118:pp 874–885. 
Van Son JA, Edwards WD, Danielson GK (1994). Pathology of 
coronary  arteries,  myocardium,  and  great  arteries  in 
supravalvular  aortic  stenosis.Report  of  five  cases  with 
implications for surgical treatment. J Thorac Cardiovasc Surg; 
108: pp 21–28. 
Wessel A, Pankau R, Kececioglu D, Ruschewski W, Bürsch JH 
(1994).  Three  decades  of  follow‐up  of  aortic  and  pulmonary 
vascular lesions in the Williams‐Beuren syndrome. Am J Med 
Genet;52: pp 297‐301. 

 

197


Nghiên cứu Y học 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013

Ngày nhận bài

20/06/2013.

Ngày phản biện nhận xét bài báo

20/07/2013.

Ngày bài báo được đăng:

15–09‐2013

 

198

Chuyên Đề Ngoại Nhi  



×