Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Nghiên cứu Y học
GIÁ TRỊ CỦA SINH THIẾT CẮT LẠNH TRONG PHẪU THUẬT
Ngô Thị Minh Hạnh*, Trịnh Tuấn Dũng*, Nguyễn Đức Vinh* Lê Thị Thanh Xuân*, Đào Anh Tuấn*
TÓM TẮT
Mục tiêu: (1) Xác định độ nhạy, độ đặc hiệu, độ chính xác, tỷ lệ âm tính giả và dương tính giả của sinh
thiết cắt lạnh (STCL) trong phẫu thuât; (2) Tìm hiểu một số yếu tố ảnh hưởng đến kết quả chẩn đoán.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang 970 trường hợp được gửi bệnh phẩm để
chẩn đoán bằng STCL và sau đó đối chiếu kết quả chẩn đoán với xét nghiệm mô bệnh học (MBH) thường quy.
Kết quả và kết luận: STCL được thực hiện trong khi phẫu thuật cho kết quả chẩn đoán nhanh, trung bình
là 19,40 ± 6,30 phút, với độ chính xác 99,14%; độ nhạy 98,39%; độ đặc hiệu 99,51% và giá trị dự báo dương
tính 99,03%. Một số yếu tố ảnh hưởng đến kết quả chẩn đoán của STCL: (1) do lấy mẫu không đúng tổn thương
hoặc không đại diện cho tổn thương, (2) thiếu các thông tin về đại thể, (3) chất lượng tiêu bản không tốt bằng
phương pháp làm tiêu bản thường quy, (4) do áp lực về thời gian nên không thể thực hiện các kỹ thuật nhuộm
đặc biệt và không có điều kiện để hội chẩn với các chuyên gia.
Từ khóa: sinh thiết cắt lạnh, phẫu thuật
ABSTRACT
THE VALUE OF FROZEN SECTION EXAMINATION IN SURGERY
Ngo Thi Minh Hanh, Trinh Tuan Dung, Nguyen Duc Vinh
Lee Thi Than Xian, Dao Anh Tuan
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2013: 101 ‐ 107
Objectives: (1) To determine the sensitivity, specificity, accuracy, false negative and positive rates of frozen
section examination in thyroid diseases; (2) To define some factors influencing to diagnostic results.
Material and Methods: A cross‐sectional study was carried out in 970 samples diagnosed by frozen
section in surgery and compared with that of routinely histopathological examination.
Results and Conclusions: The result of thyroid frozen section can be obtained in a short of time (mean =
17.17±5.45 min per patient); accuracy, sensitivity, specificity and positive predictive value were 98.99%; 97.3%;
99.5% and 98.63%, respectively. Factors affected to the result of frozen section were: (i) wrong in samples
collection; (ii) lacking information of generation; (iii) quality of specimen for frozen section were poorer than those
made in conventional process; (iv) since in a short time then specific technics could not be performed, and
pathologists could not discuss with the senior experts.
Key words: frozen section, surgery
ĐẶT VẤN ĐỀ
Ngày càng có nhiều biện pháp tối ưu hóa
việc chẩn đoán bệnh. Trong đó Giải phẫu bệnh
(GPB) cũng có những bước tiến quan trọng như
sự phát triển hóa mô miễn dịch, lai tại chỗ
nhiễm sắc thể, GPB phân tử… giúp cho việc
chẩn đoán bệnh được chính xác và rõ bản chất.
Tuy nhiên, thời gian có kết quả GPB thường mất
vài ngày. Có thể nói, kỹ thuật STCL là một bước
tiến quan trọng, cho phép chẩn đoán nhanh, qua
đó giúp phẫu thuật viên lựa chọn kịp thời biện
pháp điều trị, giảm biến chứng, giảm thời gian
và chi phí điều trị cho bệnh nhân (BN). Tuy
*Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 ‐ Hà Nội
Tác giả liên lạc: ThS. BS Ngô Thị Minh Hạnh ĐT: 0983341004
Chuyên Đề Giải Phẫu Bệnh
Email:
101
Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
nhiên, do thời gian tiến hành kỹ thuật rất ngắn
và không thể thực hiện các kỹ thuật nhuộm đặc
biệt nên việc chẩn đoán khó hơn rất nhiều so với
xét nghiệm mô bệnh học (MBH) thường quy. Để
có thêm kinh nghiệm, hoàn thiện kỹ thuật và rút
ngắn thời gian xét nghiệm với độ chính xác của
chẩn đoán ngày càng cao, chúng tôi tiến hành
nghiên cứu này nhằm 2 mục tiêu chính sau:
Xác định độ nhạy, độ đặc hiệu, độ chính xác,
tỷ lệ âm tính giả và dươg tính giả của sinh thiết
cắt lạnh.
Tìm hiểu một số yếu tố ảnh hưởng đến kết
quả chẩn đoán.
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện ở 970 trường
hợp gửi STCL tại khoa GPB ‐ Bệnh viện TƯQĐ
108 từ 7/2011 đến 12/2012.
Tiêu chuẩn lựa chọn vào nghiên cứu
Tất cả những trường hợp được làm xét
nghiệm STCL tại khoa GPB từ 7/2011 đến
12/2012, bệnh phẩm đủ để chẩn đoán và có đầy
đủ các thông tin về BN.
Mảnh bệnh phẩm được cho vào khuôn đúc
lạnh, phủ gel cắt lạnh Tissue‐tek, đặt trên giá
làm lạnh nhanh trong buồng máy cắt lạnh, chỉnh
hạ nhanh nhiệt độ xuống ‐550C trong khoảng 5
phút. Cắt mảnh với độ dày từ 3‐4μm, dàn lát cắt
lên lam kính. Cố định ngay bằng cồn tuyệt đối.
Nhuộm Diff‐Quick và/hoặc Hematoxylin‐
Eosin (HE). Đọc, phân tích kết quả và chẩn đoán
bằng kính hiển vi quang học. Trả lời kết quả về
phòng mổ.
Bệnh phẩm còn lại sau khi đã cắt lạnh
được rã đông rồi cố định trong dung dịch
formol trung tính 10%, sau đó được xử lý theo
phương pháp thông thường, nhuộm HE để đối
chiếu với kết quả STCL. Ngoài ra, còn lấy thêm
một số mảnh từ bệnh phẩm còn lại sau khi đã
lấy bệnh phẩm cắt lạnh để khẳng định chẩn
đoán (tùy từng trường hợp và kích thước bệnh
phẩm nhận được).
Các chỉ tiêu đánh giá
Chẩn đoán lâm sàng, loại bệnh phẩm, các
đặc điểm về bệnh phẩm.
Đối chiếu kết quả STCL với kết quả xét
nghiệm MBH thường quy sau cắt lạnh.
Tiêu chuẩn loại khỏi nhóm nghiên cứu
Những trường hợp không có đủ các thông
tin về BN hoặc bệnh phẩm quá nhỏ không đủ để
chẩn đoán.
Âm tính thật (ATT): STCL là lành tính và kết
quả MBH cũng là lành tính.
Phương pháp nghiên cứu
Dương tính giả (DTG): STCL là ác tính
nhưng kết quả MBH là lành tính.
Ph bệnh phẩm gửi sau phẫu
thuật là ung thư tuyến giáp trên nền viêm tuyến
giáp và 1 trường hợp nhân tuyến giáp gửi STCL
kết quả là lành tính nhưng khi nhuộm thường
quy sau phẫu thuật là ung thư tuyến giáp thể
nhú. Đa phần các bệnh phẩm gửi STCL kích
thước bệnh phẩm ≤ 0,5cm thường có kết quả
lành tính, nhưng khi bệnh phẩm chuyển thường
quy sau phẫu thuật cho kết quả ác tính.
915/970 (4,32%) thiếu thông tin về đại thể.
Đây vốn là một trong những yếu tố rất quan
trọng của chẩn đoán.
Chất lượng tiêu bản kém do tính chất đặc
biệt của mô tổn thương.
104
Về tuổi, vị trí sinh thiết, thời gian và kích
thước bệnh phẩm STCL
STCL được áp dụng chủ yếu với những
trường hợp BN có khối u không rõ lành tính hay
ác tính và lứa tuổi dễ phát sinh khối u thường ở
người trưởng thành và trung niên (cao nhất ở
lứa tuổi 40‐59 tuổi, chiếm 53,4%) (Bảng 1); tuy
nhiên độ tuổi của BN còn khác nhau tùy thuộc
vào từng loại khối u.
Bảng 2 cho thấy STCL có thể áp dụng cho tất
cả các vị trí, các mô cơ quan. Tuy nhiên, trong số
970 trường hợp được STCL tại Bệnh viện TƯQĐ
108 u tuyến giáp được sinh thiết nhiều nhất
(57,42%), tiếp đến là u của phổi và trung thất
(11,03%). Mặc dù những khối u ở vùng đầu mặt
cổ thường có liên quan nhiều tới việc tạo hình
cho BN nhưng tỉ lệ áp dụng STCL chỉ chiếm
1,75%. Kết quả của chúng tôi có khác so với kết
quả nghiên cứu của Bệnh viện K, vị trí được sinh
thiết nhiều nhất là u vú, chiếm hơn một nửa số
sinh thiết cắt lạnh (1029/1917)(6).
Tìm hiểu về ảnh hưởng của kích thước bệnh
phẩm sinh thiết gửi tới với kết quả chẩn đoán
STCL, các số liệu ở bảng 3.3 cho thấy: có tới
Chuyên Đề Giải Phẫu Bệnh
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
91,3% mẫu bệnh phẩm gửi xét nghiệm với kích
thước <0,5cm có kết quả STCL là lành tính. Lấy
mẫu bệnh phẩm là một trong những bước quan
trọng nhất để có kết quả chẩn đoán MBH chính
xác. Lấy mẫu phải đúng, đủ và đại diện cho tổn
thương. Với những bệnh phẩm có kích thước
quá nhỏ sẽ không đạt được yêu cầu(2,9). Trên
thực tế, các phẫu thuật viên thường mở nhanh,
nhỏ để lấy bệnh phẩm nhanh, gửi tức thì. Mặt
khác, do khối u chảy máu không cho phép phẫu
thuật viên mở rộng và chờ kết quả GPB. Do đó,
đôi khi các mẫu gửi tới mới chỉ thấy vỏ xơ của
khối u hay lấy vào tổn thương hoại tử. Vì vậy,
dẫn đến kết quả không đồng nhất giữa STCL và
xét nghiệm MBH thường quy sau phẫu thuật.
Thời gian chẩn đoán STCL được tính từ lúc
bệnh phẩm được chuyển tới khoa GPB cho tới
lúc có kết quả trả lời qua điện thoại về phòng
mổ, nơi bác sỹ phẫu thuật đang đợi kết quả. Kết
quả này phụ thuộc vào thời gian thực hiện kỹ
thuật cắt lạnh và thời gian phân tích kết quả. Kết
quả từ bảng 3.4 cho thấy thời gian xét nghiệm
STCL tại khoa chúng tôi trung bình là 19,4 ± 6,33
phút. Kết quả này cũng phù hợp với nghiên cứu
của hầu hết các tác giả khác, cả trong và ngoài
nước(5,6,7). Đối với những người thực hiện STCL
luôn bị áp lực về thời gian để có kết quả rất
nhanh nhưng đòi hỏi độ chính xác cao, đặc biệt
là chẩn đoán xác định là u lành hay ung thư để
giúp phẫu thuật viên lựa chọn biện pháp phẫu
thuật cho phù hợp. Một kỹ thuật viên thành
thạo thực hiện cắt nhuộm mất từ vài phút đến
khoảng 10 phút, thậm chí lâu hơn nếu phải
nhuộm nhiều phương pháp. Bác sỹ GPB đọc kết
quả từ vài giây đến khoảng 10 phút, hoặc lâu
hơn nếu là những tổn thương khó chẩn đoán.
Trong những trường hợp khó khăn, bác sĩ GPB
phải trao đổi với phẫu thuật viên về mẫu bệnh
phẩm gửi tới, có thể lấy thêm và cùng phân tích
để đưa ra một phương án tốt nhất, giảm thiểu
phẫu thuật lại hay tránh đưa ra một quyết định
sai lầm. Vì thế, các nhà phẫu thuật nên kiên
nhẫn và cùng hợp tác với bác sĩ GPB...
Chuyên Đề Giải Phẫu Bệnh
Nghiên cứu Y học
Về kết quả chẩn đoán và một số yếu tố ảnh
hưởng đến kết quả chẩn đoán STCL
Cùng với sự phát triển nhiều mặt của Y
học, ngày càng có thêm nhiều trang thiết bị
hiện đại được sử dụng để nâng cao chất lượng
chẩn đoán và điều trị. Đứng trước yêu cầu
chẩn đoán và điều trị ung thư có tính chất tàn
phá rộng thì yêu cầu đặt ra với chuyên ngành
GPB là phải chẩn đoán chính xác và nhanh
chóng. Những tiến bộ trong nghiên cứu và
điều trị ung thư gần đây đã làm thay đổi chiến
lược điều trị ung thư. Đối với những trường
hợp ung thư sớm, kích thước u nhỏ, phẫu
thuật bảo tồn còn đặt ra vấn đề cần đánh chính
xác giá diện cắt không còn mô ung thư. STCL
không chỉ là phương pháp chẩn đoán có hay
không có ung thư mà còn trả lời được câu hỏi
còn mô ung thư ở diện cắt hay không để các
nhà phẫu thuật có kế hoạch điều trị. Tuy
nhiên, độ nhạy, độ đặc hiệu và độ chính xác
với từng cơ quan và ứng dụng trong các cơ sở
y tế khác nhau còn chưa hoàn toàn đồng nhất.
Độ nhạy, độ đặc hiệu và độ chính xác của
STCL càng cao đồng nghĩa với độ tin cậy của
chẩn đoán STCL càng cao so với phương pháp
GPB thường quy. Kết quả từ bảng 3.5 cho thấy
độ chính xác của xét nghiệm STCL tại Bệnh
viện TƯQĐ 108 đạt tỷ lệ cao (99,14%). Kết quả
này cũng tương tự như các tác giả khác trong
và ngoài nước, đạt từ 95‐99,5%(3,4,5,6,7). Kết quả
nghiên cứu của chúng tôi cho thấy STCL nói
chung và giá trị STCL của từng vị trí cơ quan
có độ chính xác cao nhưng vẫn còn tỉ lệ nhỏ sai
so với chẩn đoán MBH thường quy. Có 3
trường hợp DTG, chiếm 0,32%, thấp hơn so
với nghiên cứu của Bệnh viện K (0,9%)(1). Tuy
nhiên, chúng tôi có 35/970 (3,61%) trường hợp
không chẩn đoán khẳng định được trên mẫu
bệnh phẩm STCL. Có nhiều lý giải cho sự trì
hoãn và những ảnh hưởng đến kết quả DTG
và ÂTG. Những ngày đầu mới triển khai kỹ
thuật, kỹ thuật xử lý mẫu mô, cắt, nhuộm
bệnh phẩm chưa tốt nên gây khó khăn cho
việc phân tích kết quả. Do chưa có kinh
nghiệm nên thời gian đưa ra kết luận cuối
105
Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
cùng còn kéo dài, thậm chí có trường hợp phải
trì hoãn chờ làm theo phương pháp thường
quy, với một số kỹ thuật nhuộm đặc biệt mới
khẳng định được chẩn đoán.
Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình chẩn
đoán thường gặp
Chất lượng tiêu bản kém do đặc điểm đặc
biệt của mô tổn thương làm cho.
Việc chẩn đoán gặp khó khăn. Do quá trình
kỹ thuật làm đông lạnh mô để cố định mẫu mô
nên các tinh thể đá có thể chèn ép các tế bào và
mô xung quanh làm biến dạng cấu trúc thực tế
của chúng. Hơn nữa, các tinh thể đá được hình
thành trong nhân tạo ra các nhân hình túi hoặc
rỗng, cũng như đậm độ chất nhiễm sắc của nhân
rất khác nhau do lát cắt dày hoặc phụ thuộc vào
thời gian cố định mảnh cắt (hạn chế để mẫu cắt
lạnh khô) đã khiến các nhà GPB giải thích kết
quả không chính xác(2,9).
Lấy mẫu không đúng vị trí tổn thương.
Bỏ qua phần đánh giá đại thể là một trong
những yêu cầu của chẩn đoán.
Giải thích sai lầm về cấu trúc mô và tính chất
tế bào.
Các tổn thương đặc biệt cần phải có chất
lượng tốt và các kỹ thuật nhuộm đặc biệt như
lymphôm và sarcôm...
Thiếu sự tham khảo, tư vấn của các chuyên
gia.
Một số nhận xét về các trường hợp âm tính
giả và dương tính giả
Quyết định được đưa ra sau khi xét nghiệm
STCL bằng cắt lạnh rất quan trọng, có khi làm
thay đổi hẳn chiến lược điều trị. Nếu chẩn đoán
sai sẽ dẫn đến những sai lầm khó có thể sửa
chữa được. Do vậy, các nhà GPB thường phải
tập trung cao khi phân tích kết quả và rất thận
trọng khi đưa ra kết quả cuối cùng. Với những
trường hợp khó chẩn đoán, chúng tôi chọn
phương án trì hoãn hơn là đưa ra một chẩn
đoán quá mức. Trong số 970 trường hợp được
chẩn đoán STCL, có 3 trường hợp dương tính
giả và 5 trường hợp âm tính giả.
106
Hai trường hợp gặp trong sinh thiết u thận
và đều liên quan đến 2 bệnh u xơ‐cơ‐mỡ mạch
và ung thư biểu mô tế bào sáng của thận. Một
trường hợp STCL chúng tôi chẩn đoán là u xơ‐
cơ‐mỡ‐mạch nhưng kết quả mô bệnh là ung thư
biểu mô tế bào sáng của thận. Bệnh nhân được
phẫu thuật lại sau đó. Còn 1 trường hợp chúng
tôi chẩn đoán STCL là ung thư biểu mô tế bào
sáng của thận thì kết quả mô học là u xơ‐cơ‐
mạch‐mỡ. Bệnh nhân này có khối u thận lớn nên
cũng không thể phẫu thuật bảo tồn. Phân tích lại
kết quả chúng tôi nhận thấy rằng cấu trúc mỡ
trong u xơ‐cơ‐mạch‐mỡ và hình ảnh các tế bào
sáng rất khó phân biệt, nhất là trên tiêu bản
STCL. Bản thân mô mỡ không bị đông khi làm
lạnh, ở nhiệt độ thấp chúng trở nên cứng để cắt
được nhưng dễ bị xước và tan mất trong khi cố
định bằng cồn. Bản chất các tế bào sáng của thận
cũng giàu lipid và hơn thế nữa nhân của các tế
bào sáng bị biến dạng do kỹ thuật như đã trình
bày ở trên.
Sinh thiết tuyến giáp được thực hành nhiều
nhất, có độ nhậy, độ đặc hiệu và chính xác cao,
nhưng chúng tôi cũng gặp 3 trường hợp âm tính
giả và 1 trường hợp dương tính giả. Hai trường
hợp âm tính giả đều gặp trong u tuyến thể nang.
Trên mẫu bệnh phẩm STCL rất khó đánh giá
xâm nhập mạch và xâm nhập vỏ, trong khi đây
là 2 tiêu chuẩn quan trọng để chẩn đoán ung thư
tuyến giáp thể nang. Một trường hợp dương
tính giả là viêm tuyến giáp mạn tính Hashimoto,
có những tế bào với nhân dị dạng (bizza
nuclear) trên nền mô lymphô tăng sản mạnh đã
đánh lừa các nhà GPB và dẫn đến chẩn đoán sai.
Trong phẫu thuật khối u, việc đánh giá tình
trạng di căn hạch có ý nghĩa quan trọng để đánh
giá giai đoạn bệnh, giúp các phẫu thuật viên có
chiến lược phẫu thuật triệt căn, can thiệp tối
thiểu hay dừng phẫu thuật. Chúng tôi gặp 1
trường hợp hạch âm tính giả do các đám nhỏ tế
bào biểu mô di căn nằm lẫn với các tế bào hạch
nên khó có thể nhận thấy trên tiêu bản cắt lạnh.
Những trường hợp như vậy, trong xét nghiệm
MBH thường quy, thậm chí còn phải nhuộm
Chuyên Đề Giải Phẫu Bệnh
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
hóa mô miễn dịch với marker CK và EMA mới
có thể đưa ra kết luận cuối cùng. 1 trường hợp
hạch dương tính với kết quả chẩn đoán cắt lạnh
là u lympho ác tính không Hodgkin nhưng kết
quả nhuộm HE thường quy là bệnh Castleman.
Đây là một bệnh hiếm và rất khó chẩn đoán.
Các trường hợp trì hoãn cắt lạnh phần lớn
liên quan đến u tuyến giáp (22 trường hợp) là do
các quá sản nhú bất thường cần phân biệt với
ung thư tuyến giáp thể nhú hoặc các u nang
tuyến giáp thể phôi, khó đánh giá xâm nhập
mạch và xâm nhập vỏ trên tiêu bản cắt lạnh(1,8).
KẾT LUẬN
Do áp lực về thời gian nên không thể thực
hiện các kỹ thuật nhuộm đặc biệt và không có
điều kiện để hội chẩn với các chuyên gia.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.
4.
5.
Sinh thiết cắt lạnh là phương pháp chẩn
đoán mô bệnh học nhanh, trung bình là 19,40 ±
6,33 phút, với độ chính xác 99,14%, độ nhạy
98,39% và độ đặc hiệu 99,51%.
6.
Một số yếu tố ảnh hưởng đến kết quả chẩn
đoán trong STCL
7.
Do lấy mẫu không đúng vị trí tổn thương
hoặc không đại diện cho tổn thương.
8.
Thiếu các thông tin về đại thể, một yếu tố rất
quan trọng của chẩn đoán.
Chất lượng tiêu bản không tốt bằng phương
pháp làm tiêu bản thường quy do trong quá
trình làm đông lạnh mô các tinh thể đá có thể
chèn ép các tế bào và mô xung quanh, làm biến
dạng cấu trúc thực tế của chúng.
Nghiên cứu Y học
9.
Baloch ZW, LiVoilsi VA (1999), “Post fine needle aspiration
histologic alterations of thyroid revisited”, Am.J.Clin.Pathol.,
112, pp: 311‐6
Bancroft JD, Palmer J (1998), Frozen and related section, In:
Theory and pratical of histological techinques, 4th ed,
Churchill livingstone, pp: 69‐71.
Bui MM, Smith P, Agresta SV, Cheong D, Letson GD. (2008),
“Practical issues of intraoperative frozen section diagnosis of
bone and soft tissue lesions”, J. Cancer, 15, 1, pp: 7‐10.
Callcut RA, Selvaggi SM, Mack E, Ozgul O, Warner T, Chen
H. (2004), “The utility of frozen section evaluation for folicullar
thyroid lessions”, Surgical Oncology, 11(1), pp: 94
Dalal BL, Malik AK, Datta BN (1979), “Frozen section
diagnosis: a review of 1051 cases”, Indian J. Cancer, 16, pp: 59‐
65.
Đặng Thế Căn, Nguyễn Phi Hùng, Hoàng Xuân Kháng và CS
(2001), “Giá trị của chẩn đoán sinh thiết tức thì qua nghiên cứu
1917 trường hợp tại Bệnh viện K Hà Nội”, Y học TP. Hồ Chí
Minh, tập 5, số 4, tr: 9‐13.
Howanitz PJ; Hoffman GG, Zarbo RJ (1990), “The accuracy of
frozen‐section diagnoses in 34 hospitals”, Arch. Pathol. La.b.
Med., 114, pp: 355‐9.
Loped JL, Perada E, RRodil MA, (1996), “Histological changes
mimicking papillary carcinoma following fine needle
aspiration of thy thyroid gland”, Arch.Anat.Cyto Pathol., 44: 98‐
100.
Peters SR (2010), Understanding and maintaining the cryosection,
In: A pratical guied to frozen section techique, Springer
science, pp: 1‐2.
Ngày nhận bài báo
Ngày phản biện nhận xét bài báo:
Ngày bài báo được đăng:
16‐06‐2013
20‐06‐2013
15–07‐2013
Chuyên Đề Giải Phẫu Bệnh
107