Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Giá trị của sinh thiết cắt lạnh trong phẫu thuật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (437.84 KB, 7 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 

Nghiên cứu Y học

GIÁ TRỊ CỦA SINH THIẾT CẮT LẠNH TRONG PHẪU THUẬT 
Ngô Thị Minh Hạnh*, Trịnh Tuấn Dũng*, Nguyễn Đức Vinh* Lê Thị Thanh Xuân*, Đào Anh Tuấn*  

TÓM TẮT 
Mục  tiêu: (1) Xác định độ nhạy, độ đặc hiệu, độ chính xác, tỷ lệ âm tính giả và dương tính giả của sinh 
thiết cắt lạnh (STCL) trong phẫu thuât; (2) Tìm hiểu một số yếu tố ảnh hưởng đến kết quả chẩn đoán. 
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang 970 trường hợp được gửi bệnh phẩm để 
chẩn đoán bằng STCL và sau đó đối chiếu kết quả chẩn đoán với xét nghiệm mô bệnh học (MBH) thường quy. 
Kết quả và kết luận: STCL được thực hiện trong khi phẫu thuật cho kết quả chẩn đoán nhanh, trung bình 
là 19,40 ± 6,30 phút, với độ chính xác 99,14%; độ nhạy 98,39%; độ đặc hiệu 99,51% và giá trị dự báo dương 
tính 99,03%. Một số yếu tố ảnh hưởng đến kết quả chẩn đoán của STCL: (1) do lấy mẫu không đúng tổn thương 
hoặc không đại diện cho tổn thương, (2) thiếu các thông tin về đại thể, (3) chất lượng tiêu bản không tốt bằng 
phương pháp làm tiêu bản thường quy, (4) do áp lực về thời gian nên không thể thực hiện các kỹ thuật nhuộm 
đặc biệt và không có điều kiện để hội chẩn với các chuyên gia. 
Từ khóa: sinh thiết cắt lạnh, phẫu thuật 

ABSTRACT 
THE VALUE OF FROZEN SECTION EXAMINATION IN SURGERY 
Ngo Thi Minh Hanh, Trinh Tuan Dung, Nguyen Duc Vinh 
Lee Thi Than Xian, Dao Anh Tuan  
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2013: 101 ‐ 107 
Objectives: (1) To determine the sensitivity, specificity, accuracy, false negative and positive rates of frozen 
section examination in thyroid diseases; (2) To define some factors influencing to diagnostic results. 
Material  and  Methods:  A  cross‐sectional  study  was  carried  out  in  970  samples  diagnosed  by  frozen 
section in surgery and compared with that of routinely histopathological examination. 
Results and Conclusions: The result of thyroid frozen section can be obtained in a short of time (mean = 
17.17±5.45 min per patient); accuracy, sensitivity, specificity and positive predictive value were 98.99%; 97.3%; 


99.5%  and  98.63%,  respectively.  Factors  affected  to  the  result  of  frozen  section  were:  (i)  wrong  in  samples 
collection; (ii) lacking information of generation; (iii) quality of specimen for frozen section were poorer than those 
made  in  conventional  process;  (iv)  since  in  a  short  time  then  specific  technics  could  not  be  performed,  and 
pathologists could not discuss with the senior experts. 
Key words: frozen section, surgery 

ĐẶT VẤN ĐỀ 
Ngày  càng  có  nhiều  biện  pháp  tối  ưu  hóa 
việc chẩn đoán bệnh. Trong đó Giải phẫu bệnh 
(GPB) cũng có những bước tiến quan trọng như 
sự  phát  triển  hóa  mô  miễn  dịch,  lai  tại  chỗ 
nhiễm  sắc  thể,  GPB  phân  tử…  giúp  cho  việc 

chẩn đoán bệnh được chính xác và rõ bản chất. 
Tuy nhiên, thời gian có kết quả GPB thường mất 
vài ngày. Có thể nói, kỹ thuật STCL là một bước 
tiến quan trọng, cho phép chẩn đoán nhanh, qua 
đó giúp phẫu thuật viên lựa chọn kịp thời biện 
pháp  điều  trị,  giảm  biến  chứng,  giảm  thời  gian 
và  chi  phí  điều  trị  cho  bệnh  nhân  (BN).  Tuy 

*Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 ‐ Hà Nội 
Tác giả liên lạc: ThS. BS Ngô Thị Minh Hạnh   ĐT: 0983341004 

Chuyên Đề Giải Phẫu Bệnh 

 Email:  

101



Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013

nhiên, do thời gian tiến hành kỹ thuật rất ngắn 
và không thể thực hiện các kỹ thuật nhuộm đặc 
biệt nên việc chẩn đoán khó hơn rất nhiều so với 
xét nghiệm mô bệnh học (MBH) thường quy. Để 
có thêm kinh nghiệm, hoàn thiện kỹ thuật và rút 
ngắn thời gian xét nghiệm với độ chính xác của 
chẩn  đoán  ngày  càng  cao,  chúng  tôi  tiến  hành 
nghiên cứu này nhằm 2 mục tiêu chính sau: 
Xác định độ nhạy, độ đặc hiệu, độ chính xác, 
tỷ lệ âm tính giả và dươg tính giả của sinh thiết 
cắt lạnh. 
Tìm hiểu một số  yếu tố ảnh hưởng đến kết 
quả chẩn đoán. 

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Nghiên  cứu  được  thực  hiện  ở  970  trường 
hợp gửi STCL tại khoa GPB ‐ Bệnh viện TƯQĐ 
108 từ 7/2011 đến 12/2012. 

Tiêu chuẩn lựa chọn vào nghiên cứu 
Tất  cả  những  trường  hợp  được  làm  xét 
nghiệm  STCL  tại  khoa  GPB  từ  7/2011  đến 
12/2012, bệnh phẩm đủ để chẩn đoán và có đầy 
đủ các thông tin về BN. 


Mảnh bệnh phẩm được cho vào khuôn đúc 
lạnh,  phủ  gel  cắt  lạnh  Tissue‐tek,  đặt  trên  giá 
làm lạnh nhanh trong buồng máy cắt lạnh, chỉnh 
hạ nhanh nhiệt độ xuống ‐550C trong khoảng 5 
phút. Cắt mảnh với độ dày từ 3‐4μm, dàn lát cắt 
lên lam kính. Cố định ngay bằng cồn tuyệt đối. 
Nhuộm  Diff‐Quick  và/hoặc  Hematoxylin‐
Eosin (HE). Đọc, phân tích kết quả và chẩn đoán 
bằng kính hiển vi quang học. Trả lời kết quả về 
phòng mổ. 
Bệnh  phẩm  còn  lại  sau  khi  đã  cắt  lạnh 
được  rã  đông  rồi  cố  định  trong  dung  dịch 
formol trung tính 10%, sau đó được xử lý theo 
phương pháp thông thường, nhuộm HE để đối 
chiếu với kết quả STCL. Ngoài ra, còn lấy thêm 
một số mảnh từ bệnh phẩm còn lại sau khi đã 
lấy  bệnh  phẩm  cắt  lạnh  để  khẳng  định  chẩn 
đoán (tùy từng trường hợp và kích thước bệnh 
phẩm nhận được). 

Các chỉ tiêu đánh giá 
Chẩn  đoán  lâm  sàng,  loại  bệnh  phẩm,  các 
đặc điểm về bệnh phẩm. 
Đối  chiếu  kết  quả  STCL  với  kết  quả  xét 
nghiệm MBH thường quy sau cắt lạnh. 

Tiêu chuẩn loại khỏi nhóm nghiên cứu 
Những  trường  hợp  không  có  đủ  các  thông 
tin về BN hoặc bệnh phẩm quá nhỏ không đủ để 

chẩn đoán. 

Âm tính thật (ATT): STCL là lành tính và kết 
quả MBH cũng là lành tính. 

Phương pháp nghiên cứu 

Dương  tính  giả  (DTG):  STCL  là  ác  tính 
nhưng kết quả MBH là lành tính. 

Ph bệnh  phẩm  gửi  sau  phẫu 
thuật là ung thư tuyến giáp trên nền viêm tuyến 
giáp và 1 trường hợp nhân tuyến giáp gửi STCL 
kết  quả  là  lành  tính  nhưng  khi  nhuộm  thường 
quy  sau  phẫu  thuật  là  ung  thư  tuyến  giáp  thể 
nhú.  Đa  phần  các  bệnh  phẩm  gửi  STCL  kích 
thước  bệnh  phẩm  ≤  0,5cm  thường  có  kết  quả 
lành tính, nhưng khi bệnh phẩm chuyển thường 
quy sau phẫu thuật cho kết quả ác tính. 
915/970  (4,32%)  thiếu  thông  tin  về  đại  thể. 
Đây  vốn  là  một  trong  những  yếu  tố  rất  quan 
trọng của chẩn đoán. 
Chất  lượng  tiêu  bản  kém  do  tính  chất  đặc 
biệt của mô tổn thương. 

104

Về tuổi, vị trí sinh thiết, thời gian và kích 
thước bệnh phẩm STCL 
STCL  được  áp  dụng  chủ  yếu  với  những 

trường hợp BN có khối u không rõ lành tính hay 
ác tính và lứa tuổi dễ phát sinh khối u thường ở 
người  trưởng  thành  và  trung  niên  (cao  nhất  ở 
lứa  tuổi  40‐59  tuổi,  chiếm  53,4%)  (Bảng  1);  tuy 
nhiên độ tuổi của BN còn khác nhau tùy thuộc 
vào từng loại khối u. 
Bảng 2 cho thấy STCL có thể áp dụng cho tất 
cả các vị trí, các mô cơ quan. Tuy nhiên, trong số 
970 trường hợp được STCL tại Bệnh viện TƯQĐ 
108  u  tuyến  giáp  được  sinh  thiết  nhiều  nhất 
(57,42%),  tiếp  đến  là  u  của  phổi  và  trung  thất 
(11,03%). Mặc dù những khối u ở vùng đầu mặt 
cổ  thường  có  liên  quan  nhiều  tới  việc  tạo  hình 
cho  BN  nhưng  tỉ  lệ  áp  dụng  STCL  chỉ  chiếm 
1,75%. Kết quả của chúng tôi có khác so với kết 
quả nghiên cứu của Bệnh viện K, vị trí được sinh 
thiết nhiều nhất là u vú, chiếm hơn một nửa số 
sinh thiết cắt lạnh (1029/1917)(6). 
Tìm hiểu về ảnh hưởng của kích thước bệnh 
phẩm  sinh  thiết  gửi  tới  với  kết  quả  chẩn  đoán 
STCL,  các  số  liệu  ở  bảng  3.3  cho  thấy:  có  tới 

Chuyên Đề Giải Phẫu Bệnh  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 
91,3% mẫu bệnh phẩm gửi xét nghiệm với kích 
thước <0,5cm có kết quả STCL là lành tính. Lấy 
mẫu bệnh phẩm là một trong những bước quan 
trọng nhất để có kết quả chẩn đoán MBH chính 

xác. Lấy mẫu phải đúng, đủ và đại diện cho tổn 
thương.  Với  những  bệnh  phẩm  có  kích  thước 
quá  nhỏ  sẽ  không  đạt  được  yêu  cầu(2,9).  Trên 
thực tế, các phẫu thuật viên thường mở nhanh, 
nhỏ  để  lấy  bệnh  phẩm  nhanh,  gửi  tức  thì.  Mặt 
khác, do khối u chảy máu không cho phép phẫu 
thuật viên mở rộng và chờ kết quả GPB. Do đó, 
đôi khi các mẫu gửi tới mới chỉ thấy vỏ xơ của 
khối  u  hay  lấy  vào  tổn  thương  hoại  tử.  Vì  vậy, 
dẫn đến kết quả không đồng nhất giữa STCL và 
xét nghiệm MBH thường quy sau phẫu thuật. 
Thời gian chẩn đoán STCL được tính từ lúc 
bệnh  phẩm  được  chuyển  tới  khoa  GPB  cho  tới 
lúc  có  kết  quả  trả  lời  qua  điện  thoại  về  phòng 
mổ, nơi bác sỹ phẫu thuật đang đợi kết quả. Kết 
quả  này  phụ  thuộc  vào  thời  gian  thực  hiện  kỹ 
thuật cắt lạnh và thời gian phân tích kết quả. Kết 
quả  từ  bảng  3.4  cho  thấy  thời  gian  xét  nghiệm 
STCL tại khoa chúng tôi trung bình là 19,4 ± 6,33 
phút. Kết quả này cũng phù hợp với nghiên cứu 
của  hầu  hết  các  tác  giả  khác,  cả  trong  và  ngoài 
nước(5,6,7). Đối với những  người  thực  hiện  STCL 
luôn  bị  áp  lực  về  thời  gian  để  có  kết  quả  rất 
nhanh nhưng đòi hỏi độ chính xác cao, đặc biệt 
là chẩn đoán xác định là u lành hay ung thư để 
giúp phẫu thuật viên lựa  chọn  biện  pháp  phẫu 
thuật  cho  phù  hợp.  Một  kỹ  thuật  viên  thành 
thạo  thực  hiện  cắt  nhuộm  mất  từ  vài  phút  đến 
khoảng  10  phút,  thậm  chí  lâu  hơn  nếu  phải 
nhuộm nhiều phương pháp. Bác sỹ GPB đọc kết 

quả  từ  vài  giây  đến  khoảng  10  phút,  hoặc  lâu 
hơn  nếu  là  những  tổn  thương  khó  chẩn  đoán. 
Trong những trường hợp khó khăn, bác sĩ GPB 
phải trao đổi với phẫu thuật viên về mẫu bệnh 
phẩm gửi tới, có thể lấy thêm và cùng phân tích 
để  đưa  ra  một  phương  án  tốt  nhất,  giảm  thiểu 
phẫu thuật lại hay tránh đưa ra một quyết định 
sai  lầm.  Vì  thế,  các  nhà  phẫu  thuật  nên  kiên 
nhẫn và cùng hợp tác với bác sĩ GPB... 

Chuyên Đề Giải Phẫu Bệnh 

Nghiên cứu Y học

Về kết quả chẩn đoán và một số yếu tố ảnh 
hưởng đến kết quả chẩn đoán STCL 
Cùng  với  sự  phát  triển  nhiều  mặt  của  Y 
học,  ngày  càng  có  thêm  nhiều  trang  thiết  bị 
hiện đại được sử dụng để nâng cao chất lượng 
chẩn  đoán  và  điều  trị.  Đứng  trước  yêu  cầu 
chẩn đoán và điều trị ung thư có tính chất tàn 
phá rộng thì yêu cầu đặt ra với chuyên ngành 
GPB  là  phải  chẩn  đoán  chính  xác  và  nhanh 
chóng.  Những  tiến  bộ  trong  nghiên  cứu  và 
điều trị ung thư gần đây đã làm thay đổi chiến 
lược  điều  trị  ung  thư.  Đối  với  những  trường 
hợp  ung  thư  sớm,  kích  thước  u  nhỏ,  phẫu 
thuật bảo tồn còn đặt ra vấn đề cần đánh chính 
xác giá diện cắt không còn mô ung thư. STCL 
không  chỉ  là  phương  pháp  chẩn  đoán  có  hay 

không có ung thư mà còn trả lời được câu hỏi 
còn  mô  ung  thư  ở  diện  cắt  hay  không  để  các 
nhà  phẫu  thuật  có  kế  hoạch  điều  trị.  Tuy 
nhiên,  độ  nhạy,  độ  đặc  hiệu  và  độ  chính  xác 
với từng cơ quan và ứng dụng trong các cơ sở 
y tế khác nhau còn chưa hoàn toàn đồng nhất. 
Độ  nhạy,  độ  đặc  hiệu  và  độ  chính  xác  của 
STCL  càng  cao  đồng  nghĩa  với  độ  tin  cậy  của 
chẩn đoán STCL càng cao so với phương pháp 
GPB thường quy. Kết quả từ bảng 3.5 cho thấy 
độ  chính  xác  của  xét  nghiệm  STCL  tại  Bệnh 
viện TƯQĐ 108 đạt tỷ lệ cao (99,14%). Kết quả 
này cũng tương tự như các tác giả khác trong 
và  ngoài  nước,  đạt  từ  95‐99,5%(3,4,5,6,7).  Kết  quả 
nghiên  cứu  của  chúng  tôi  cho  thấy  STCL  nói 
chung và giá trị STCL của từng vị trí cơ quan 
có độ chính xác cao nhưng vẫn còn tỉ lệ nhỏ sai 
so  với  chẩn  đoán  MBH  thường  quy.  Có  3 
trường  hợp  DTG,  chiếm  0,32%,  thấp  hơn  so 
với nghiên cứu của Bệnh viện K (0,9%)(1). Tuy 
nhiên, chúng tôi có 35/970 (3,61%) trường hợp 
không  chẩn  đoán  khẳng  định  được  trên  mẫu 
bệnh  phẩm  STCL.  Có  nhiều  lý  giải  cho  sự  trì 
hoãn  và  những  ảnh  hưởng  đến  kết  quả  DTG 
và  ÂTG.  Những  ngày  đầu  mới  triển  khai  kỹ 
thuật,  kỹ  thuật  xử  lý  mẫu  mô,  cắt,  nhuộm 
bệnh  phẩm  chưa  tốt  nên  gây  khó  khăn  cho 
việc  phân  tích  kết  quả.  Do  chưa  có  kinh 
nghiệm  nên  thời  gian  đưa  ra  kết  luận  cuối 


105


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013

cùng còn kéo dài, thậm chí có trường hợp phải 
trì  hoãn  chờ  làm  theo  phương  pháp  thường 
quy, với một số  kỹ thuật nhuộm  đặc  biệt  mới 
khẳng định được chẩn đoán. 

Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình chẩn 
đoán thường gặp 
Chất  lượng  tiêu  bản  kém  do  đặc  điểm  đặc 
biệt của mô tổn thương làm cho. 
Việc chẩn đoán gặp khó khăn. Do quá trình 
kỹ thuật làm đông lạnh mô để cố định mẫu mô 
nên các tinh thể đá có thể chèn ép các tế bào và 
mô xung quanh làm biến dạng cấu trúc thực tế 
của chúng. Hơn nữa, các tinh thể đá được hình 
thành trong nhân tạo ra các nhân hình túi hoặc 
rỗng, cũng như đậm độ chất nhiễm sắc của nhân 
rất khác nhau do lát cắt dày hoặc phụ thuộc vào 
thời gian cố định mảnh cắt (hạn chế để mẫu cắt 
lạnh  khô)  đã  khiến  các  nhà  GPB  giải  thích  kết 
quả không chính xác(2,9). 
Lấy mẫu không đúng vị trí tổn thương. 
Bỏ  qua  phần  đánh  giá  đại  thể  là  một  trong 
những yêu cầu của chẩn đoán. 

Giải thích sai lầm về cấu trúc mô và tính chất 
tế bào. 
Các  tổn  thương  đặc  biệt  cần  phải  có  chất 
lượng  tốt  và  các  kỹ  thuật  nhuộm  đặc  biệt  như 
lymphôm và sarcôm... 
Thiếu sự tham khảo, tư vấn của các chuyên 
gia. 

Một  số  nhận  xét  về  các  trường  hợp  âm  tính 
giả và dương tính giả 
Quyết định được đưa ra sau khi xét nghiệm 
STCL  bằng  cắt  lạnh  rất  quan  trọng,  có  khi  làm 
thay đổi hẳn chiến lược điều trị. Nếu chẩn đoán 
sai  sẽ  dẫn  đến  những  sai  lầm  khó  có  thể  sửa 
chữa  được.  Do  vậy,  các  nhà  GPB  thường  phải 
tập trung cao khi phân tích kết quả và rất thận 
trọng khi đưa ra kết quả cuối cùng. Với những 
trường  hợp  khó  chẩn  đoán,  chúng  tôi  chọn 
phương  án  trì  hoãn  hơn  là  đưa  ra  một  chẩn 
đoán  quá  mức.  Trong  số  970  trường  hợp  được 
chẩn  đoán  STCL,  có  3  trường  hợp  dương  tính 
giả và 5 trường hợp âm tính giả. 

106

Hai trường hợp gặp trong sinh thiết  u  thận 
và đều liên  quan  đến  2  bệnh  u  xơ‐cơ‐mỡ  mạch 
và  ung  thư  biểu  mô  tế  bào  sáng  của  thận.  Một 
trường hợp STCL chúng tôi chẩn đoán là u xơ‐
cơ‐mỡ‐mạch nhưng kết quả mô bệnh là ung thư 

biểu mô tế bào sáng của thận. Bệnh nhân được 
phẫu thuật lại sau đó. Còn 1 trường hợp chúng 
tôi  chẩn  đoán  STCL  là  ung  thư  biểu  mô  tế  bào 
sáng  của  thận  thì  kết  quả  mô  học  là  u  xơ‐cơ‐
mạch‐mỡ. Bệnh nhân này có khối u thận lớn nên 
cũng không thể phẫu thuật bảo tồn. Phân tích lại 
kết  quả  chúng  tôi  nhận  thấy  rằng  cấu  trúc  mỡ 
trong  u  xơ‐cơ‐mạch‐mỡ  và  hình  ảnh  các  tế  bào 
sáng  rất  khó  phân  biệt,  nhất  là  trên  tiêu  bản 
STCL. Bản thân mô mỡ không bị đông khi làm 
lạnh, ở nhiệt độ thấp chúng trở nên cứng để cắt 
được nhưng dễ bị xước và tan mất trong khi cố 
định bằng cồn. Bản chất các tế bào sáng của thận 
cũng giàu lipid và hơn thế nữa nhân của các tế 
bào sáng bị biến dạng do kỹ thuật như đã trình 
bày ở trên. 
Sinh thiết tuyến giáp được thực hành nhiều 
nhất, có độ nhậy, độ đặc hiệu và chính xác cao, 
nhưng chúng tôi cũng gặp 3 trường hợp âm tính 
giả và 1 trường hợp dương tính giả. Hai trường 
hợp âm tính giả đều gặp trong u tuyến thể nang. 
Trên  mẫu  bệnh  phẩm  STCL  rất  khó  đánh  giá 
xâm nhập mạch và xâm nhập vỏ, trong khi đây 
là 2 tiêu chuẩn quan trọng để chẩn đoán ung thư 
tuyến  giáp  thể  nang.  Một  trường  hợp  dương 
tính giả là viêm tuyến giáp mạn tính Hashimoto, 
có  những  tế  bào  với  nhân  dị  dạng  (bizza 
nuclear) trên nền mô lymphô tăng sản mạnh đã 
đánh lừa các nhà GPB và dẫn đến chẩn đoán sai. 
Trong phẫu thuật khối u, việc đánh giá tình 

trạng di căn hạch có ý nghĩa quan trọng để đánh 
giá giai đoạn bệnh, giúp các phẫu thuật viên có 
chiến  lược  phẫu  thuật  triệt  căn,  can  thiệp  tối 
thiểu  hay  dừng  phẫu  thuật.  Chúng  tôi  gặp  1 
trường hợp hạch âm tính giả do các đám nhỏ tế 
bào biểu mô di căn nằm lẫn với các tế bào hạch 
nên khó có thể nhận thấy trên tiêu bản cắt lạnh. 
Những  trường  hợp  như  vậy,  trong  xét  nghiệm 
MBH  thường  quy,  thậm  chí  còn  phải  nhuộm 

Chuyên Đề Giải Phẫu Bệnh  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 
hóa mô miễn dịch với marker CK và EMA mới 
có thể đưa ra kết luận cuối cùng. 1 trường hợp 
hạch dương tính với kết quả chẩn đoán cắt lạnh 
là u lympho ác tính không Hodgkin nhưng kết 
quả nhuộm HE thường quy là bệnh Castleman. 
Đây là một bệnh hiếm và rất khó chẩn đoán. 
Các  trường  hợp  trì  hoãn  cắt  lạnh  phần  lớn 
liên quan đến u tuyến giáp (22 trường hợp) là do 
các  quá  sản  nhú  bất  thường  cần  phân  biệt  với 
ung  thư  tuyến  giáp  thể  nhú  hoặc  các  u  nang 
tuyến  giáp  thể  phôi,  khó  đánh  giá  xâm  nhập 
mạch và xâm nhập vỏ trên tiêu bản cắt lạnh(1,8). 

KẾT LUẬN 

Do  áp  lực  về  thời  gian  nên  không  thể  thực 

hiện  các  kỹ  thuật  nhuộm  đặc  biệt  và  không  có 
điều kiện để hội chẩn với các chuyên gia. 

TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.

2.

3.

4.

5.

Sinh  thiết  cắt  lạnh  là  phương  pháp  chẩn 
đoán mô bệnh học nhanh, trung bình là 19,40 ± 
6,33  phút,  với  độ  chính  xác  99,14%,  độ  nhạy 
98,39% và độ đặc hiệu 99,51%. 

6.

Một số yếu tố ảnh hưởng đến kết quả chẩn 
đoán trong STCL 

7.

Do  lấy  mẫu  không  đúng  vị  trí  tổn  thương 
hoặc không đại diện cho tổn thương. 

8.


Thiếu các thông tin về đại thể, một yếu tố rất 
quan trọng của chẩn đoán. 
Chất lượng tiêu bản không tốt bằng phương 
pháp  làm  tiêu  bản  thường  quy  do  trong  quá 
trình  làm  đông  lạnh  mô  các  tinh  thể  đá  có  thể 
chèn ép các tế bào và mô xung quanh, làm biến 
dạng cấu trúc thực tế của chúng. 

Nghiên cứu Y học

9.

Baloch  ZW,  LiVoilsi  VA  (1999),  “Post  fine  needle  aspiration 
histologic  alterations  of  thyroid  revisited”,  Am.J.Clin.Pathol., 
112, pp: 311‐6 
Bancroft  JD,  Palmer  J  (1998),  Frozen  and  related  section,  In: 
Theory  and  pratical  of  histological  techinques,  4th  ed, 
Churchill livingstone, pp: 69‐71.  
Bui MM, Smith P, Agresta SV, Cheong D, Letson GD. (2008), 
“Practical issues of intraoperative frozen section diagnosis of 
bone and soft tissue lesions”, J. Cancer, 15, 1, pp: 7‐10.  
Callcut RA, Selvaggi SM, Mack E, Ozgul O, Warner T, Chen 
H. (2004), “The utility of frozen section evaluation for folicullar 
thyroid lessions”, Surgical Oncology, 11(1), pp: 94 
Dalal  BL,  Malik  AK,  Datta  BN  (1979),  “Frozen  section 
diagnosis: a review of 1051 cases”, Indian J. Cancer, 16, pp: 59‐
65. 
Đặng Thế Căn, Nguyễn Phi Hùng, Hoàng Xuân Kháng và CS 
(2001), “Giá trị của chẩn đoán sinh thiết tức thì qua nghiên cứu 

1917  trường  hợp  tại  Bệnh  viện  K  Hà  Nội”,  Y học TP. Hồ Chí 
Minh, tập 5, số 4, tr: 9‐13. 
Howanitz PJ; Hoffman GG, Zarbo RJ (1990), “The accuracy of 
frozen‐section  diagnoses  in  34  hospitals”,  Arch.  Pathol.  La.b. 
Med., 114, pp: 355‐9. 
Loped JL, Perada E, RRodil MA, (1996), “Histological changes 
mimicking  papillary  carcinoma  following  fine  needle 
aspiration of thy thyroid gland”, Arch.Anat.Cyto Pathol., 44: 98‐
100.  
Peters SR (2010), Understanding and maintaining the cryosection, 
In:  A  pratical  guied  to  frozen  section  techique,  Springer 
science, pp: 1‐2. 

 

Ngày nhận bài báo 
 
 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 
Ngày bài báo được đăng: 
 

16‐06‐2013 
20‐06‐2013 
15–07‐2013 

 

Chuyên Đề Giải Phẫu Bệnh 


107



×