Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Quan điểm lựa chọn thận và kỹ thuật mạch máu trong ghép thận từ người cho sống tại Bệnh viện Việt Đức

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (297.08 KB, 9 trang )

TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 5-2016

QUAN ĐIỂM LỰA CHỌN THẬN VÀ KỸ THUẬT MẠCH MÁU
TRONG GHÉP THẬN TỪ NGƯỜI CHO SỐNG
TẠI BỆNH VIỆN VIỆT ĐỨC

TÓM TẮT

Đoàn Quốc Hưng*; Cao Mạnh Thấu*
Nguyễn Hữu Ước*; Nguyễn Duy Thắng*; Đỗ Ngọc Sơn*

Mục tiêu: nêu quan điểm lựa chọn thận ghép và các kỹ thuật mạch máu được áp dụng trong
ghép thận người cho sống tại Bệnh viện Việt Đức. Đối tượng và phương pháp: mô tả hồi cứu
176 trường hợp ghép thận người cho sống trong thời gian 5 năm. Kết quả: sau lấy thận, tỷ lệ
bất thường giải phẫu mạch máu 80/176 trường hợp (45,45%), trong đó tỷ lệ thận ghép có bất
thường giải phẫu động mạch (ĐM) và tĩnh mạch (TM) lần lượt là 36,93% và 8,52%. Kỹ thuật
thực hiện 2 miệng nối ĐM riêng rẽ với ĐM chậu ngoài (24 trường hợp = 13.64%). 2 bệnh nhân
(BN) thận ghép có 2 ĐM được tạo hình thân chung trước khi nối với ĐM chậu ngoài. 8 BN
(4,55%) ĐM thận chia sớm được lấy nguyên ủy sát gốc bảo tồn thân chung. Áp dụng kỹ thuật
Carrel patch ĐM chủ cho 2 BN (1,11%). Kỹ thuật thắt TM chậu trong để di động TM chậu ngoài
áp dụng cho 15 BN (8,52%), 2 BN (1,11%) thực hiện lấy Carrel patch TM chủ, 9 BN (5,11%) TM thận
nối riêng rẽ 2 miệng nối với TM chậu và 1 BN (0,57%) có 3 miệng nối. Mạch máu lưu thông tốt
100%, tỷ lệ biến chứng liên quan đến mạch máu 0%. Kết luận: nắm vững biến đổi giải phẫu và
làm chủ kỹ thuật xử lý mạch máu thận ghép có vai trò hết sức quan trọng trong ghép thận.
* Từ khóa: Ghép thận người cho sống; Giải phẫu mạch máu thận; Mạch máu thận ghép.

Kidney Selection Criteria and Vascular Techniques in Living
Donor Renal Transplantation at Vietduc Hospital
Summary
Objectives: To describe the kidney selection criteria and vascular techniques in living donor
renal transplantation at Vietduc Hospital from 2010 to 2015. Patients and method: Totally, 176


living kidney transplant cases at Vietduc Hospital were retrospectively studied. Results: After
harvesting, the ratio of anatomical variations of the renal vessels was 45.45%. The ratio of renal artery
and vein varation were 36.93% and 8.54%, respectively. There were 24 cases with 2 anastomoses
between renal arteries and external artery (13.64%). There were 2 cases which 2 renal arteries
were reconstructed, form a common trunk to anastomoses with external artery. The other 8 cases
with early branching were harvested from their origins (4.55%). The Carrel patch of aorta was
performed in 2 cases (1.11%). Ligation the internal iliac vein to mobilize the external iliac vein was
performed in 15 cases (8.52%). The Carrel patch of IVC was performed in 2 cases. There were 9
cases with 2 anastomoses and 1 case with 3 anastomoses between the renal veins and iliac veins.
* Bệnh viện Việt Đức
Người phản hồi (Corresponding): Đoàn Quốc Hưng ()
Ngày nhận bài: 16/02/2016; Ngày phản biện đánh giá bài báo: 20/05/2016
Ngày bài báo được đăng: 27/05/2016

169


TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 5-2016
The good patency of the arterial and vein anastomosis was 100%, no complications related to
the vascular techniques. Conclusions: Understanding the anatomical variations and vascular
techniques plays an important role in renal transplant.
* Key words: Living kidney donor transplantation; Renal anatomy; Renal vessels in transplantation.

ĐẶT VẤN ĐỀ
Ghép thận là một lĩnh vực đã phát triển
ở Việt Nam từ hơn 10 năm gần đây, trong
đó đa số thận ghép được lấy từ người
cho sống. Để ghép thận thành công, cần
sự tham gia của rất nhiều chuyên khoa
nội - ngoại và cơ sở, như thận - tiết niệu,

miễn dịch, giải phẫu bệnh, dược; trong đó
có một khâu rất quan trọng liên quan trực
tiếp đến sự thành bại của ghép thận, đó
là “kỹ thuật khâu nối mạch máu” của thận
ghép vào hệ thống mạch máu của người
nhận thận, mà thông thường là bó mạch
chậu. Cách thức đáp ứng khâu này có
ảnh hưởng quyết định đến nhiều vấn đề
quan trọng của ghép thận như: lựa chọn
bên thận sẽ lấy để ghép từ người cho
sống, nguy cơ lấy 1 thận đối với người
cho, kết quả sớm cũng như lâu dài sau
ghép ở người nhận thận…
Mục đích cao nhất của kỹ thuật khâu
nối mạch máu là đảm bảo các mạch máu
của thận ghép được lưu thông tốt cả
trong ngắn và dài hạn. Tuy nhiên, các chi
tiết kỹ thuật xử lý cuống mạch và miệng
nối có thể khác nhau, nhất là trong các
tình huống giải phẫu bất thường, như có
nhiều ĐM thận ở thận ghép, bó mạch
chậu ở người nhận có bệnh lý, cần thay
đổi vị trí đặt thận ghép, cuống mạch thận
ghép bị ngắn. Tại Bệnh viện Việt Đức,
ngay từ những ca ghép thận đầu tiên, do
có chuyên khoa phẫu thuật mạch máu
phát triển, nên việc thực hiện “kỹ thuật
khâu nối mạch máu” luôn là phẫu thuật
viên mạch máu. Nguyên tắc chung là luôn


170

chọn thận lấy-ghép ở bên có chức năng
kém hơn; bảo tồn cuống mạch thận dài
tối đa khi lấy thận; ứng dụng mọi kỹ thuật
nối-ghép phức tạp của phẫu thuật mạch
máu vào ghép thận. Bài báo này nhằm:
Chia sẻ với các đồng nghiệp về “quan
điểm lựa chọn thận ghép từ người cho
sống theo chức năng thận” và “kỹ thuật
xử lý mạch máu” trong các tình huống bất
thường về giải phẫu.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu.
Tất cả trường hợp ghép thận người
cho sống tại Bệnh viện Việt Đức từ 2010
đến 2015.
2. Phương pháp nghiên cứu.
Mô tả hồi cứu
* Quan điểm lựa chọn thận ghép từ
người cho sống theo chức năng thận:
Có nhiều thăm dò đánh giá chức năng
thận ở người cho. Xạ hình thận là một
thăm dò quan trọng giúp phân biệt chức
năng của từng thận ở người cho, giúp
đánh giá xem chức năng thận nào chiếm
ưu thế hơn. Chụp cắt lớp đa dãy thận và
các cuống mạch cũng là một thăm dò
quan trọng giúp nhận định kích thước

thận (kích thước thận lớn hơn thường
tương ứng với chức năng ưu thế hơn) và
cấu trúc các cuống mạch của thận (số
lượng, kích thước, độ dài, phân vùng cấp
máu, nguyên ủy của ĐM và TM thận).


TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 5-2016

Sau khi có kết quả, chúng tôi luôn chủ
trương chọn bên thận có chức năng kém
ưu thế hơn để lấy và ghép cho người
nhận, tức là để lại thận có chức năng ưu
thế hơn ở người cho thận. Các yếu tố bất
thường giải phẫu không ảnh hưởng đến
việc lựa chọn bên thận ghép, mà đóng vai
trò tiên lượng - chuẩn bị cho kỹ thuật
mạch máu trong khi lấy và ghép thận.
* Kỹ thuật xử lý mạch máu khi có bất
thường giải phẫu:
- Thì lấy thận từ người cho: nguyên tắc
chung là bảo tồn cuống mạch thận dài tối
đa, tức là vị trí cắt cuống mạch luôn nằm
gần sát ĐM chủ hay TM chủ dưới. Tùy
vào các bất thường giải phẫu mà có giải
pháp xử lý như sau:
+ Cuống mạch ngắn (khi chiều dài tính
từ nguyên ủy ĐM thận đến chỗ chia các
nhánh ĐM tại rốn thận < 1,5 cm): phẫu
tích quanh ĐM chủ và TM chủ, dùng kẹp

mạch máu chữ U cặp lấn vào ĐM chủ hay
TM chủ (hoặc dùng cặp mạch máu thẳng
cặp ngang ĐM chủ hay TM chủ ở trên và
dưới cuống mạch thận), cắt cuống mạch
thận ngay chỗ nối vào ĐM chủ hay TM
chủ, thậm chí cắt lấn sâu vào ĐM chủ hay
TM chủ, đóng lại thành ĐM chủ hay TM
chủ bằng đường khâu vắt trực tiếp hoặc
bằng 1 miếng vá nhân tạo tùy theo
trường hợp.
+ Có nhiều ĐM thận (2, 3 thậm chí
4 ĐM): bảo tồn tất cả các ĐM có kích
thước ≥ 1,5 mm; chỉ thắt bỏ các cuống
ĐM kích thước < 1,5 mm hoặc diện cấp
máu nhỏ hoặc không rõ ràng. Đối với
cuống mạch được bảo tồn, có 2 giải pháp
lựa chọn tùy theo cách dự kiến ghép nối
ĐM ở thì ghép thận: nếu trước mổ dự
kiến ghép các cuống ĐM vào thành 1 ĐM
duy nhất thì sẽ lấy các cuống mạch dài tối

đa như thông thường, nhất là cuống
mạch chính; nếu dự kiến ghép thành các
cuống ĐM rời mà kích thước nhánh ĐM
khá nhỏ (≤ 2,5 mm), sẽ cắt lấn vào thành
ĐM chủ (như ở trên) để tạo 1 “khuy áo” ở
đầu ĐM thận giúp thuận lợi cho quá trình
ghép thận. Nếu chỗ xuất phát của 2 ĐM
thận nằm sát nhau (cách nhau < 10 mm),
sẽ cặp ĐM chủ ở trên - dưới ĐM thận, cắt

dạng “khuy áo” chung cho cả 2 ĐM thận
vào thành ĐM chủ, vá lại thành ĐM chủ
bằng miếng vá nhân tạo.
- Thì ghép thận ở người nhận:
+ Nếu không có bất thường về giải
phẫu, tức là có 1 ĐM và 1 TM thận, cuống
mạch đủ dài: sau khi đặt thận vào hố thận
mới và chọn tư thế thận ghép cho phù
hợp, cần thăm dò và lựa chọn (đánh dấu)
trên bó mạch chậu các vị trí sẽ ghép nối
mạch thận sao cho vùng mạch làm miệng
nối không vị xơ vữa nặng hay vôi hóa
(người nhận lớn tuổi) và thuận chiều
đường đi của dòng máu trong ĐM và TM
thận sau khi ghép nối (tránh tạo gấp góc
ở các miệng nối); tại vị trí nối mạch, sau
khi mở mạch chậu, nên dùng dụng cụ đục
mạch hoặc kéo mở rộng lỗ thủng ở mạch
chậu thành hình tròn hay ô van - tránh
hẹp miệng nối về sau này.
+ Khi có bất thường giải phẫu, tùy
từng tình huống mà cách thức xử lý như
sau:
. Trường hợp có nhiều ĐM thận: hoặc
ghép nối các ĐM thận vào 1 thân chung
trước khi nối vào ĐM chậu, thường chọn
ĐM có kích thước lớn nhất để làm thân
chung, lưu ý kiểm tra kỹ các miệng nối
ĐM đảm bảo lưu thông tốt và không bị
xoắn vặn. Hoặc ghép nối rời vào 2 vị trí

khác nhau trên ĐM chậu theo nguyên tắc
như trên.
171


TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 5-2016

. Trường hợp cuống mạch thận ghép
ngắn: việc thiếu độ dài cần thiết của ĐM
hay TM thận ghép có thể do nguyên phát
hay thứ phát (miệng nối lần đầu thất bại
phải làm lại, đoạn mạch bị tồn thương
trong quá trình lấy thận). Khi đó sẽ tùy
theo từng tình huống cụ thể mà sẽ sử
dụng đoạn mạch ghép thay thế mạch
thận bằng những vật liệu sau: đoạn ĐM
chậu ngoài, đoạn TM chậu ngoài, đoạn
TM hay ĐM Homograft, đoạn TM hiển lớn
tự thân ở đùi cùng bên, đoạn ĐM chậu
trong. Các vị trí khuyết mạch sau khi lấy
đoạn mạch ghép cho mạch thận sẽ được
thay thế bằng đoạn mạch nhân tạo hay
đoạn mạch Homograft (chỉ cần ở vị trí ĐM
và TM chậu ngoài), hoặc thắt mạch.
Chúng tôi không chủ trương ghép nối trực
tiếp ĐM thận vào ĐM chậu trong (sau khi
cắt rời đầu xa của ĐM chậu rồi quặt
ngược lại) vì nguy cơ gây gập góc và
xoắn miệng nối với ĐM thận. TM hiển
cũng là một vật liệu thay thế tốt, nhưng

cần dự kiến trước để chuẩn bị phẫu
trường lấy TM hiển nếu cần, không nên
sát trùng - mở rộng vùng mổ bổ sung để
lấy TM hiển trong khi ghép thận vì sẽ làm
tăng nguy cơ nhiễm trùng thận ghép.

Hình 1: Biến đổi giải phẫu thận ghép:
3 TM thận, 2 ĐM thận.

Hình 2: Kỹ thuật tạo thân chung ĐM thận,
thực hiện 1 miệng nối ĐM thận ĐM chậu ngoài.

Hình 3: 2 ĐM thận, ghép nối rời
các cuống mạch.

172


TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 5-2016

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Qua phân tích 176 ca ghép thận tại Bệnh viện Việt Đức từ tháng 01 - 2010 đến 05 2015, về hai vấn đề nêu trên, chúng tôi thu được kết quả như sau:
Bảng 1: Phân bố bên thận lấy ghép, xạ hình thận và kích thước thận/MS-CT ở
người cho.
Biến số
Thận lấy - ghép
Xạ hình thận ghép

Thận phải


Thận trái

Tổng

106 (60,23%)

70 (39,77%)

176 (100%)

47,9 ± 1,3%
(45 - 49,5)

48 ± 1,5%
(46 - 49,5)

48 ± 1,6%
(45 - 49,5)

Bảng 2: Vị trí đặt thận ghép - đảo cực thận ghép.
Đặc điểm

Ghép hố chậu phải

Ghép hố chậu trái

Tổng số

Thận lấy bên (phải)


105

1

106

Thận lấy bên (trái)

69

1

70

Tổng số

174

2

176

Bảng 3: Các bất thường giải phẫu ở thận lấy - ghép.
Thận phải
(n = 106)

Các bất thường giải phẫu

Thận trái
(n = 70)


Tổng
(n = 176)

n

%

n

%

n

%

Cuống ĐM thận ngắn

2

1,89

4

5,71

6

3,41


ĐM thận chia sớm

4

3,77

6

8,57

10

5,69

ĐM cực nhỏ

8

7,55

6

8,57

14

7,95

Có 2 ĐM thận


25

23,58

10

14,29

35

19,89

Cuống TM thận ngắn

4

3,77

1

1,43

5

2,84

Có 2 TM thận

5


4,72

3

4,29

8

4,55

Có 3 TM thận

1

0,94

1

1,43

2

1,11

49

46,23

32


45,71

80

45,45

Tổng số

Bảng 4: Phương pháp xử trí bất thường ĐM thận ghép (n = 60).
Biến đổi giải phẫu

Cách thức xử trí

n

Tỷ lệ (%)

ĐM thận chia sớm
(n = 10)

Carrel patch ĐM chủ

2

1,11

Bảo tồn thân chung (lấy sát nguyên ủy ĐM thận)

8


4,55

Tạo hình thân chung với ĐM thận chính

2

1,11

2 miệng nối riêng rẽ với ĐM chậu ngoài

24

13,64

1 nối với ĐM chậu ngoài - 1 với ĐM chậu gốc

9

5,11

Dạng 2 ĐM thận
(n = 35)

173


TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 5-2016
Bất thường ĐM
chậu người nhận
(n = 1)

Dạng có ĐM cực
(n = 14)

Miệng nối ĐM thận với ĐM chậu trong

1

0,57

Thắt các ĐM cực

7

3,98

Bảo tồn các ĐM cực - nối trực tiếp với ĐM chậu

6

3,41

Bảo tồn ĐM cực - tạo thân chung với ĐM thận chính

1

0,57

Bảng 5: Phương pháp xử lý bất thường TM thận ghép.
Phương pháp xử lý


Số lượng

Tỷ lệ (%)

Thắt TM chậu trong

15

8,52

Lấy patch TMC trong cuống TM thận ngắn

1

0,57

Lấy patch TMC trong trường hợp nhiều TM thận

1

0,57

Dùng Homograft tái tạo TM chậu

1

0,57

Ghép đoạn TM sinh dục


1

0,57

Nối riêng rẽ 2 miệng nối với TM chậu

9

5,11

Nối riêng rẽ 3 miệng nối với TM châu

1

0,57

* Kết quả ghép thận:
Tốt: 173 BN (98,29%); hỏng thận ghép: 3 BN (1,71%).
BÀN LUẬN
1. Quan điểm lựa chọn thận ghép.
100% BN trong nghiên cứu, xạ hình
cho thấy thận lấy nhỏ hơn hoặc bằng
thận để lại. Có nhiều quan điểm lựa chọn
thận ghép dựa trên một số yếu tố: miễn
dịch, yếu tố kỹ thuật, xạ hình chức năng
thận. Một số trung tâm ưu tiên lựa chọn
thận trái, vì thận trái thường có chiều dài
TM lớn hơn, thuận lợi hơn cho miệng nối
TM hay lựa chọn thận có ít biến đổi giải
phẫu mạch máu thận hơn [6, 8]. Tại Bệnh

viện Việt Đức, quan điểm lựa chọn thận
rất rõ ràng, ngoài các tiêu chí bắt buộc về
nhóm máu và miễn dịch, lấy thận dựa
trên nguyên tắc đảm bảo an toàn tối đa
cho người hiến thận, lấy thận có chức
năng kém hơn, để lại thận có chức năng
tốt hơn; bảo tồn cuống mạch thận dài tối

174

đa khi lấy thận; ứng dụng mọi kỹ thuật nối
- ghép phức tạp của phẫu thuật mạch
máu vào ghép thận.
2. Vị trí đặt thận ghép và đảo cực
thận ghép.
Trong 176 BN, 174 BN được ghép ở
hố chậu phải (98,86%). 2 BN ghép ở hố
chậu trái, trong đó 1 BN nhận có bệnh lý
ĐM chậu bên phải (phồng ĐM chậu gốc
phải) và 1 BN thải ghép, ghép lại hố chậu
trái. Có nhiều quan điểm liên quan đến vị
trí đặt thận ghép. Việc lựa chọn phụ thuộc
vào: (1) Bệnh lý của người nhận: tiền sử
mổ bụng cũ: viêm ruột thừa, mổ sỏi thận,
mổ đẻ, bệnh lý phần phụ..; (2) Bất thường
mạch máu của người nhận: tình trạng xơ
vữa mạch, biến đổi giải phẫu mạch máu
vùng chậu phát hiện trước mổ; (3) Kinh
nghiệm và thói quen của phẫu thuật viên.



TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 5-2016

Đặt thận ghép hố chậu phải có một số ưu
điểm sau: việc phẫu tích, bộc lộ cấu trúc
mạch máu chậu, bàng quang thuận lợi
hơn bên hố chậu trái, do hố chậu phải
không có đại tràng Sigma, TM chậu phải
có vị trí giải phẫu nông hơn TM chậu trái
nên ghép thận bên hố chậu phải thuận lợi
hơn về vị trí thực hiện miệng nối mạch
máu thận, mạch máu vùng chậu bên phải
có ít biến đổi giải phẫu hơn bên trái.
Chính vì lý do đó, thận ghép đặt hố chậu
trái khi: BN có tiền sử mổ vùng bụng phải
cũ, nguy cơ dính cao gây khó khăn cho
việc bóc tách, BN ghép thận cũ hố chậu
phải hoặc có bất thường mạch máu
người nhận vùng chậu bên phải.

* Phương pháp xử trí bất thường giải
phẫu ĐM:

có 2 ĐM thận (35 BN = 19,89%). Trong
nhóm này, 24 BN (13,64%) thực hiện
2 miệng nối riêng rẽ với ĐM chậu ngoài,
1 miệng nối với ĐM chậu ngoài - 1 miệng
nối với ĐM chậu gốc cho 9 BN (5,11%);
kỹ thuật tạo hình 2 ĐM thành 1 chân
chung rồi nối với ĐM chậu ngoài gặp

2 BN (1,11%). Nhóm ĐM thận chia sớm
(khi các nhánh ĐM cực của thận chia
nhánh sát nguyên ủy ĐM thận hoặc ngoài
rốn thận) gặp 10 BN (5,69%), trong đó
2 BN được lấy cả vạt Carrel patch ĐM
chủ để thực hiện 1 miệng nối tận-bên với
ĐM chậu ngoài, do ĐM thận chia sớm sát
gốc ĐM chủ. Còn lại 8 BN lấy sát nguyên
ủy ĐM thận, bảo tồn được thân chung.
Dạng cuống ĐM thận ngắn gặp 6 BN
(3,41%), những BN này chúng tôi không
gặp khó khăn trong thực hiện miệng nối
tận-bên với ĐM chậu ngoài. Dạng có ĐM
cực chúng tôi gặp 14 BN (7,95%). Trong
số này, 7 BN ĐM cực nhỏ < 1,5 mm
chúng tôi thắt mà không ảnh hưởng đến
chức năng thận ghép; 6 BN (3,41%), ĐM
cực được bảo tồn bằng cách nối trực tiếp
với ĐM chậu, chỉ có 1 BN (0,57%) ĐM
cực được tạo thân chung với ĐM thận
chính rồi thực hiện miệng nối tận-bên
thông thường. 1 BN (0,57%) thận có
1 ĐM, tuy nhiên do bất thường về mạch
máu chậu người nhận nên chúng tôi thực
hiện miệng nối với ĐM chậu trong.
Lê Trung Hải và CS [2] thực hiện 22 cặp
ghép thận từ năm 1992 đến tháng
6 - 2004 cho thấy, cả 22 BN (100%) ĐM
thận được nối với ĐM chậu trong của
người nhận, tất cả BN đều không có biến

chứng mạch máu sớm sau mổ.

Trong nhóm nghiên cứu của chúng tôi,
dạng biến đổi ĐM hay gặp nhất là dạng

Trong một nghiên cứu đánh giá biến
chứng liên quan đến miệng nối ĐM thận

Vấn đề đảo cực thận ghép giúp việc
đặt miệng nối ĐM, TM thận và cắm niệu
quản bàng quang thuận lợi và sinh lý
hơn. Do vị trí không gian về mặt giải phẫu
của 3 thành phần thận ghép: ĐM thận,
TM thận, niệu quản và vị trí giải phẫu của
hệ ĐM, TM chậu, đảo cực thận ghép
được đặt ra khi thận lấy cùng bên với hố
chậu (lấy thận phải ghép vào hố chậu
phải hay thận trái ghép vào hố chậu trái).
Trong nghiên cứu của chúng tôi, 70 BN
(39,77%) thận ghép được đảo cực. Đỗ
Ngọc Sơn và CS [3] gặp 67 BN (51,5%)
đảo cực thận ghép. Phạm Như Thế và
CS [7] không đảo cực thận ghép, do tất
cả ghép khác bên: 8/12 BN lấy thận bên
trái ghép vào hố chậu phải và 4/12 BN lấy
thận bên phải ghép vào hố chậu trái.
3. Kỹ thuật xử lý mạch máu thận
ghép.

175



TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 5-2016

của Bewick và CS trên 500 BN ghép thận,
384 BN thận có 1 ĐM, 96 BN thận có
2 ĐM, 19 BN thận có 3 ĐM, 1 BN thận có
4 ĐM [10]. ĐM thận được nối tận-tận với
ĐM chậu trong cho 151 BN, tận-bên với
ĐM chậu ngoài hoặc chậu gốc cho 55 BN
và tận-bên với miếng Carrel patch ĐM
chủ cho 294 BN. Tác giả nhận thấy, với
kỹ thuật Carrel patch ĐM chủ, tỷ lệ huyết
khối ĐM thận ghép thấp nhất, tuy nhiên
nguy cơ chảy máu cao hơn so với kỹ
thuật khác. Đối với thận ghép có 1 ĐM,
việc sử dụng patch ĐM chủ hay không
cho kết quả tương tự nhau, với tỷ lệ chảy
máu và huyết khối tại miệng nối của
2 nhóm này đều 4,7%. Nhưng nếu thận
ghép có ≥ 2 ĐM thận, việc sử dụng patch
ĐM chủ cho kết quả tốt hơn, nhóm có
patch ĐM chủ có tỷ lệ chảy máu và huyết
khối 1,8%, trong khi nhóm không có patch
là 11,5%. Liên quan đến kỹ thuật nối ĐM
thận với ĐM chậu, Bewick khuyến cáo
thực hiện miệng nối ĐM thận ghép tậnbên với ĐM chậu ngoài hoặc ĐM chậu
gốc. Tác giả cho rằng, kỹ thuật nối ĐM
thận tận-tận với ĐM chậu trong có nguy
cơ hẹp miệng nối ĐM thận gấp 6 lần so

với các kỹ thuật khác [10].
* Phương pháp xử trí bất thường giải
phẫu TM: trong số 15 trường hợp có biến
đổi giải phẫu TM, dạng có 2 TM thận gặp
8 BN (4,55%), dạng 3 TM thận gặp 2 BN
(1,11%). Cuống TM thận ngắn gặp 5 BN
(2,84%). Tất cả 15 BN có biến đổi giải
phẫu TM thận trong quá trình ghép thận
đều được thắt TM chậu trong để di động
tốt TM chậu ngoài, thuận lợi trong quá
trình ghép. Kỹ thuật lấy patch TM chủ
được áp dụng cho 2 BN, trong đó do TM
thận ngắn 1 BN (0,57%) và 1 BN biến đổi

176

dạng có 3 TM thận. Trong số 10 BN có
biến đổi số lượng giải phẫu TM thận,
9 BN được thực hiện 2 miệng nối riêng rẽ
với TM chậu và 1 BN thực hiện 3 miệng
nối với TM chậu. Kỹ thuật ghép đoạn TM
sinh dục thực hiện cho 1 BN (0,57%), áp
dụng trong trường hợp TM thận ghép
ngắn ở thận ghép có 2 TM. Đặc biệt, 1
BN cuống TM thận ngắn, TM chậu của
người nhận được cắt đôi, nối tận-tận với
TM thận, TM chậu còn lại được tái tạo
Homograft. Theo Lê Trung Hải và CS [2],
qua 22 trường hợp ghép thận, chỉ 1 BN
biến đổi số lượng TM thận dạng (2 TM), 2

TM này được thực hiện miệng nối riêng
rẽ (2 miệng nối) với TM chậu ngoài.
Dư Thị Ngọc Thu và CS [6] tiến hành
kỹ thuật chuyển vị mạch máu chậu - thận
ghép trong ghép thận tại Bệnh viện Chợ
Rẫy cho 195 BN ghép thận trong thời
gian 18 năm đã khuyến cáo: lựa chọn hố
chậu phải để ghép cho tất cả trường hợp;
nếu TM thận ngắn (về mặt giải phẫu học
hoặc do kỹ thuật lấy...) để tránh tạo hình
TM thận bằng TM tự thân hoặc nhân tạo,
tác giả kết hợp kỹ thuật bóc tách vùng rốn
thận, chuyển vị ĐM, TM thận ghép và
chuyển vị ĐM, TM chậu ngoài, sau đó nối
ĐM thận tận-tận với ĐM chậu trong, TM
thận tận-bên với TM chậu ngoài.
4. Kết quả sau ghép thận.
Sau ghép thận, đánh giá sớm sau
ghép, thận căng ngay sau khi thả clamps
mạch máu cho 172 BN (97,73%), 2 BN
thận căng muộn nhất sau 15 phút và
20 phút. 2 BN (1,14%) thận ghép tím khu
trú, tuy nhiên không ảnh hưởng đến chức
năng thận sau ghép. 100% miệng nối ĐM
và TM lưu thông tốt sau ghép. 2 BN
(1,14%) thải ghép, điều trị ổn định ra viện,


TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 5-2016


1 BN (0,57%) thải ghép phải mổ cắt bỏ
thận ghép, nguyên nhân do cơ chế miễn
dịch.

4. Trần Văn Sáng, Trần Ngọc Sinh, Chu
Văn Nhuận và CS. Mổ ghép thận thực nghiệm
tại Bệnh viện Chợ Rẫy. Tạp chí Y học Việt
Nam. 2001, 4, 5, 6, tr.55-59.

KẾT LUẬN

5. Thái Minh Sâm, Từ Thành Trí Dũng,
Dương Quang Vũ và CS. Nhân 16 trường
hợp rửa và bảo quản thận trong ghép thận tại
Bệnh viện Chợ Rẫy. Y học Việt Nam. 2001, 4,
5, 6, tr.67-69.

Qua 176 trường hợp ghép thận người
cho sống dược thực hiện trong 5 năm tại
Bệnh viện Việt Đức với nguyên tắc lựa
chọn thận ghép có chức năng kém hơn
để đảo bảo an toàn người cho và việc
làm chủ kỹ thuật mạch máu trong ghép.
Tỷ lệ miệng nối mạch máu lưu thông tốt
sau ghép l00% và không có biến chứng
liên quan đến kỹ thuật mạch máu.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đỗ Tất Cường, Bùi Văn Mạnh, Lê Việt
Thắng, Phạm Quốc Toản, Hoàng Trân Anh.
Nhận xét về kết quả các trường hợp ghép

thận tại Bệnh viện Quân y 103. Y học Việt
Nam. 2010, 2, tr.306-310.
2. Lê Trung Hải và CS. Một số kinh nghiệm
bước đầu qua ghép thận từ người cho sống.
Tạp chí Ngoại khoa. 2004, 54 (4), tr.11-14.
3. Đỗ Ngọc Sơn, Nguyễn Tiến Quyết, Vũ
Nguyễn Khải Ca. Kết quả phẫu thuật ghép
thận từ người cho sống tại Bệnh viện Việt
Đức. Tạp chí Y - Dược học quân sự. 2014,
39, tr.158-162.

6. Dư Thị Ngọc Thu, Chu Văn Nhuận,
Dương Quang Vũ và CS. Kỹ thuật chuyển vị
mạch máu chậu - thận ghép trong ghép thận
tại Bệnh viện Chợ Rẫy. Y học Việt Nam.
2010, 2, tr.512-515.
7. Phạm Như Thế. Đánh giá kết quả ghép
thận tại Bệnh viện Trung ương Huế. Y học
Thực hành. 2005, 4, tr.51-54
8. Kawamoto S, Fishman EK. MDCT
angiography of living laparoscopic renal donors.
Abdom imaging, 2006, 31, pp.361-373.
9. Satyapal KS, Kalideen JM, Haffejee AA,
Singh B, Robbs JV. Left renal vein variations.
Surg Radiol Anat. 1999.
10. Bewick M, OGG CS, Parsons V et al.
The arterial complications of 500 renal
transplants. British Journal of Urology. 1990,
40, pp.186-190.
11. Coen LD, Raftery AT. Anatomical variations

of the renal arteries and renal transplantation.
Clincal Anatomy. 1992, 5, pp.425-432.

.

177



×