Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Bệnh lý huyết khối tĩnh mạch hệ mạc treo cửa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.87 KB, 5 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 1 * 2004

Nghiên cứu Y học

BỆNH LÝ HUYẾT KHỐI TĨNH MẠCH HỆ MẠC TREO CỬA
Cao Văn Thònh* Văn Tần**

TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Trong các bệnh lý có huyết khối tónh mạch tạng, chẩn đoán nghẽn tónh mạch mạc treo cấp
tính thường không rõ ràng trước khi phải mở bụng. Trong khi đó, việc xác đònh tình trạng huyết khối tónh mạch
cửa tiến diễn rõ ràng hơn nhờ có sự hỗ trợ tích cực của các phương pháp thăm dò hình ảnh ít xâm lấn.
Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá việc chẩn đoán và điều trò huyết khối tónh mạch tạng.
Hương pháp nghiên cứu : Tiền cứu, cắt ngang các trường hợp lâm sàng.
Kết quả nghiên cứu: Tại Bệnh viện Bình Dân, giai đoạn từ 1996-1998, có gặp 2 trường hợp bệnh lý có
huyết khối hệ tónh mạch mạc treo cửa, trong đó một trường hợp tắc tónh mạch mạc treo ruột và một trường hợp
huyết khối tónh mạch cửa.
Bàn luận và kết luận : Về căn nguyên xuất hiện huyết khối, nếu không phải xơ gan thì rất khó xác đònh.
Các trường hợp này rất hiếm gặp, hơn nữa việc chẩn đoán, điều trò còn khó khăn và gây nhiều bàn cãi. Trong
xử trí thường chậm, tiên lượng bệnh nặng. Chính vì thế dạng bệnh lý này cần được theo dõi và nghiên cứu
thêm.

SUMMARY
THROMBOSIS OF PORTAL VEIN
Cao Van Thinh, Van Tan* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Special issue of Neurosurgery * Vol. 8 *
Supplement of No 1 * 2004: 516 - 520

Introduction: In diseases of visceral vein thrombosis, the diagnosis of acute mesenteric occlusion is always
not clear, but detection of portal vein thrombosis is more clear by the support of less invasion methods of
imagination.
Goal: Assessment of diagnosis and treatment of visceral vein thrombosis.
Method: Prospective study.


Results: At Binhdan Hospital from 1996 to 1998, we got 2 cases of thrombosis including one mesenteric
vein infarction and the rest was portal vein thrombosis.
Discussion: It is difficult to determine the etiology of this disease if it is not due to cirrhosis. The disease is
rare. Diagnosis and treatment of the disease are still controversial. Prognosis is poor, so the disease should be
studied more.
của nhiều nhà chuyên môn. Mặc dù tới nay, với sự
ĐẶT VẤN ĐỀ
phát triển không ngừng của khoa học, đặc biệt là các
Huyết khối tónh mạch hệ mạc treo cửa tương đối
phương tiện chẩn đoán.... Vẫn còn nhiều trường hợp
ít gặp và còn gặp nhiều khó khăn trong việc phát hiện
bệnh lý chưa được phát hiện và điều trò kòp thời.
bệnh sớm(1,3,5).
Trong đó có lónh vực thuộc các bệnh lý huyết khối
Trong thực hành ngoại khoa, ngoài những
tónh mạch hệ mạc treo cửa.
trường hợp thường gặp cả trong bệnh lý và chấn
Với nhồi máu tónh mạch mạc treo, theo y văn rất
thương, các thể bệnh ít gặp cũng là mối quan tâm
khó nghó tới chẩn đoán này một cách có hệ thống.
*Bộ môn Ngoại tổng quát TTĐT - Khoa lồng ngực- mạch máu BV Bình Dân TP.HCM.

516

Chuyên đề Hội nghò Khoa học Kỹ thuật BV. Bình Dân 2004


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 1 * 2004


Thông thường bệnh không được xác đònh chẩn đoán
từ trước mổ do các dấu hiệu lâm sàng không điển
hình và không tương xứng với tổn thương. Trong khi
đó các thăm dò cận lâm sàng kéo dài lại gây chậm trễ
cho phẫu thuật. Chính vì vậy, không ít các trường
hợp Bn chỉ được mổ với chẩn đoán viêm phúc mạc(5).
Bệnh lý thuyên tắc tónh mạch cửa thường gặp
nhất là huyết khối tónh mạch cửa bán khẩn. Bn có
các triệu chứng ít điển hình và dễ nhầm lẫn với
nhiều bệnh lý khác như đau bụng vùng thượng vò
có chừng mực, sốt vừa hay sốt cao, có khi kèm sốt
lạnh run .... Do đó tình trạng bệnh lý này cũng ít
được chú trọng(3).
Vấn đề đặt ra cho các Bác só lâm sàng là làm sao
phát hiện được tình trạng bệnh lý huyết khối tónh
mạch hệ mạc treo cửa sớm. Ngoài các xét nghiệm cận
lâm sàng truyền thống như xét nghiệm huyết học,
sinh hoá... Chẩn đoán hình ảnh như siêu âm Doppler,
X quang ... cần phải “cảnh giác” trên lâm sàng trước
các dấu hiệu lâm sàng mơ hồ. Đồng thời ứng dụng
thêm các thủ thuật thăm dò khác như nội soi ổ bụng
chẩn đoán.., ít nhất là sử dụng trong cấp cứu với các
bệnh nhân thuộc nhóm nguy cơ cao hay khó xác đònh
tổn thương các tạng trong khoang ổ bụng.
Việc trình bày, phân tích các trường hợp hiếm
gặp trên lâm sàng nhằm tìm hiểu thêm về các dạng
bệnh lý này và phần nào giúp nâng cao chất lượng
chẩn đoán và điều trò các bệnh lý có thể gặp trong
thực hành ngoại khoa tại các bệnh viện và trung tâm

y khoa nói chung.

TRÌNH BỆNH ÁN
Bệnh án I
Bệnh nhân (Bn) Bùi thò H, nữ, sinh năm 1920.
Nhập viện vì đau bụng âm ỉ khắp bụng từ 10 giờ trước
đó, cơn đau tăng dần. Bn khai trước nhập viện vài
ngày có bò tiêu chảy và đã được điều trò tạm ổn.
Tiền căn : có nằm điều trò “Embolie pulmonaire
droit sur phébite ilio-fémorale bilatérale” tại Cộng
Hoà Pháp.
Tình trạng Bn khi nhập viện : sốt nhẹ, ói, tiêu

chảy, nhưng không tiêu máu. Bn đau toàn bộ vùng
bụng kèm cảm ứng thành bụng. Đã tiến hành siêu
âm bụng tổng quát và chụp bụng không chuẩn bò,
nhưng không phát hiện được gì bất thường. Xét
nghiệm huyết học : Bạch cầu 12.000; tiểu cầu
72.000; fibrinogen 200mg/100ml; dự trữ kiềm
17meq/l; cholesterol 3,5g/l; triglycerit 8,2g/l...
Diễn biến bệnh sau 2 giờ nhập viện : Bn có đau
bụng dữ dội, bụng có phản ứng rõ... Bn được hội
chẩn và chỉ đònh mổ với chẩn đoán viêm phúc mạc”.
Tường trình phẫu thuật cho thấy : Có một đoạn
ruột non hoại tử cách góc Streitz 40cm và cách góc
hồi manh tràng 90cm. Đã tiến hành cắt đoạn ruột
hoại tử và nối tận tận. Gửi xét nghiệm giải phẫu bệnh
lý đoạn ruột hoại tử.
Hậu phẫu : Bn ổn dần, có được dùng kháng sinh,
Fraxiparin và duy trì nuôi dưỡng đường tónh mạch

trong 10 ngày.
Kết quả giải phẫu bệnh : Xác đònh nhồi máu ruột
do thuyên tắc tónh mạch mạc treo. Sau mổ Bn được
siêu âm Doppler kiểm tra phát hiện có hẹp động
mạch cảnh bên phải 70% và thuyên tắc các tónh
mạch nông của chân bên phải.
Theo dõi đònh kỳ sau mổ: Bn có hội chứng MalloyWeiss và tình trạng bán tắc ruột. Ngoài ra thỉnh thoảng
có đợt tiêu chảy ... nhưng được điều trò ổn.
Bệnh án II
Bn Nguyễn Thò T, nữ, sinh năm 1926. Nhập viện
vì đau bụng liên tục vùng thượng vò. Theo Bn khai, từ
1 tháng trước thỉnh thoảng Bn có đau bụng vùng
thượng vò, kèm theo có sốt nhẹ, có lúc sốt lạnh run,
kém ăn và gầy sút. Bụng Bn ta ra dần. Gần đây có
những cơn đau tức ngực nên Bn đi khám và được
nằm điều trò tại Bệnh viện Nguyễn Trãi khoảng 2
tuần, sau đó chuyển Bệnh viện Bình Dân.
Tiền căn : Có 2 đợt điều trò nhồi máu cơ tim.
Nhiều lần điều trò viêm đau khớp vai bên trái. Gần
đây xuất hiện dấu hiệu chán ăn và chậm tiêu kéo dài.
Tình trạng khi nhập viện : mệt mỏi, còn dấu hiệu
tức ngực. Không ói, không đi cầu ra máu. Khám

Chuyên đề Hội nghò Khoa học Kỹ thuật BV. Bình Dân 2004

517


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 1 * 2004
bụng thấy bụng chướng, ascite. Bn còn đau bụng

vùng thượng vò và hạ sườn phải, không có phản ứng,
lách to độ 2.
Các xét nghiệm huyết học, sinh hoá cho thấy :
bạch cầu 12.500; Hct 28%; TQ 12’’9/12; TCK 30’’/35;
SGOT 17UI/L; SGPT 20UI/L; Phosphataza kiềm
152UI/L; Bilirubin TP 3,6ml/l; LH 1,8ml/l; TD 1,8ml/l.
Amilaza máu 392UI/L...
ECG và ECHO tim thiếu máu cơ tim cục bộ, có
dấu hiệu NMCT cũ, suy tim độ II.
ECHO Doppler bụng : Huyết khối bít hoàn toàn
tónh mạch lách và tónh mạch cửa, trên nền viêm gan
mãn tiến diễn xơ gan, lách to độ 2, có ít dòch ổ bụng
và dòch màng phổi 2 bên.
Diễn biến bệnh và điều trò: Bn được theo dõi và điều
trò nội bằng Fraxiparin, Vastarei... trong 1 tuần, tình
trạng chung của Bn có khá hơn, bụng mềm bớt đau. Bn
được hội chẩn, loại trừ chỉ đònh ngoại khoa và chuyển
chuyên khoa nội tim mạch theo dõi và điều trò tiếp.

BÀN LUẬN
Về mặt sinh bệnh học
Nhồi máu tónh mạch mạc treo là hậu quả của
một trường hợp huyết khối tónh mạch mạc treo có
diễn tiến rất đáng ngại trên lâm sàng. So với nhồi
máu ruột mạch treo do nguyên nhân từ động mạch
thì ít hơn và chiếm khoảng 10%-20%(3,5). Từ sau giai
đoạn phù nề, bệnh diễn biến mặng hơn trên nền
thiếu máu. Tuy nhiên không phải tất cả các trường
hợp đều đưa đến hoại tử, thường thấy thành ruột tím
dần và mạc treo phù nề, thấm dòch. Niêm mạc có

những đốm xuất huyết. Khi đã xuất hiện hiện tượng
thấm huyết thanh ra khoang ổ bụng thì tiên lượng
bệnh xấu.
Thông thường tình trạng huyết khối tiến triển từ
các tónh mạch xung quanh cho tới khi gần như
không còn hệ tónh mạch mạch treo tràng trên. Trong
khi đó hệ tónh mạch mạch treo tràng dưới còn được
bảo vệ bởi các nhánh nối. Với trường hợp bệnh nhân
có xơ gan trước thì nơi tắc bắt đầu từ thân chính của
tónh mạch, điều này không đi đôi với tình trạng hoại

518

Nghiên cứu Y học

tử một cách hệ thống.
Chẩn đoán lâm sàng
Với nhồi máu tónh mạch mạc treo

Biểu hiện trên lâm sàng khá trầm trọng. Bệnh
nhân đau bụng lan tỏa hoặc khu trú ở một số vùng
bụng. Đau từ từ, ít khi gặp đau bụng đột ngột dữ dội.
Cơn đau tăng từng đợt và không nhất thiết phải có sốc.
Trước giai đoạn cấp, thường bệnh nhân có các triệu
chứng gợi ý nhưng không rõ ràng và không có hệ
thống. Hơn nữa các dấu hiệu lâm sàng thường không
tương xứng với tổn thương giải phẫu như được mô tả
khi phẫu thuật. Chính sự mơ hồ về các triệu chứng
lâm sàng dẫn đến việc thực hiện các xét nghiệm cận
lâm sàng chậm, ảnh hưởng đến kết quả điều trò.

Tắc tónh mạch cửa
Thường gặp các trường hợp huyết khối tónh
mạch của bán cấp. Bệnh nhân đau bụng không dữ
dội nhưng có kèm theo sốt vừa hay sốt cao, lạnh run.
Trường hợp huyết khối ở sâu, xác đònh bệnh khó hơn
và ít được để ý hơn(1,3,4). Việc điều trò cũng dễ gặp biến
chứng sau mổ.
Với các trường hợp có huyết khối tiến
triển

Trên lâm sàng biểu hiện hội chứng tăng áp lực
tónh mạch cửa(1,4). Khi có tổn thương ở các tầng khác
nhau của hệ cửa hay hệ tónh mạch mạch treo – cửa,
có thể xuất hiện dấu hiệu xuất huyết tiêu hoá (XHTH)
trên như giãn vỡ tónh mạch thực quản hay vùng tâm
vò, tỉ lệ gặp chừng 50% -70% của các trường hợp tắc
tónh mạch cửa(3). Hiếm thấy XHTH vùng đại trực
tràng hơn so với một trường hợp tắc tónh mạch mạc
treo ruột. Ngoài ra, một số tác giả(1,3), có thể thấy lách
to (chiếm 75%), bụng chướng có dòch báng (ascite)
chiếm 20%-25%, do giãn tónh mạch thực quản không
có triệu chứng hay dấu hiệu sinh học của quá trình
tăng năng lách.

Các xét nghiệm cận lâm sàng kèm theo
Với sự phát triển của kỹ thuật chẩn đoán hình ảnh
đã cho phép khai thác tốt các dấu hiệu chủ yếu của
huyết khối tónh mạch của hay tóng mạch mạc treo

Chuyên đề Hội nghò Khoa học Kỹ thuật BV. Bình Dân 2004



Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 1 * 2004

ruột(1,2,3,4).
Chụp bụng không chuẩn bò : ít có giá tri. Tuy
nhiên có thể cung cấp hình ảnh mức nước hay hình
ảnh ổ bụng mờ, lan tỏa như trường hợp nhồi máu
mạc treo có biến chứng, và có tác dụng chẩn đoán
phân biệt trong các trường hợp cấp cứu bụng như vết
thương thủng tạng, tắc ruột ....
Siêu âm bụng tổng quát: Xác đònh đậm độ ECHO
trong tónh mạch (2), bình thường hệ tónh mạch cửa
khó quan sát, nhưng khi có các hình ảnh ống xoắn
tương đương với các hốc, sẽ mang tính chất gợi ý. Sự
kết hợp hai hình ảnh huyết khối và hình hốc trên siêu
âm đôi khi thấy được hệ tónh mạch cửa.
Siêu âm Doppler: Được coi là phương tiện tốt để xác
đònh huyết khối tónh mạch của, nhất là ở thành mạch.
Tuy nhiên khi gặp huyết khối ở thượng nguồn (tónh
mạch mạc treo hay tónh mạch lách) khó đánh giá vì có sự
cản trở của khí hiện diện trong đường tiêu hoá(2,3).
Chụp CT scanner: Về nguyên tắc, đậm độ ECHO
tại tónh mạch của và tónh mạch mạc treo cửa thấp
hơn nhiều so với động mạch chủ, nhưng đậm độ này
sẽ không thay đổi khi sử dụng thuốc cản quang. Khi
có huyết khối, đường kính tónh mạch cửa và tónh
mạch mạc treo tăng lên. Đậm độ ECHO sẽ cao khi có

huyết khối mới và thấp khi huyết khối cũ, trong
trường hợp này cần tìm thêm hình ảnh các hốc và
cấu trúc hình ống. Ngoài ra còn thấy thời gian thuốc
cản quang lưu ở tónh mạch cửa tăng. Người ta cho
rằng CT scan ít nhậy hơn siêu âm trong chẩn đoán
huyết khối từng phần(3,5).
IRM: đánh giá tình trạng huyết khối qua âm vang
từ tính, nhất là ở tư thế cắt phía trước hay đứng dọc.
Trong trường hợp độ thấm ở thân tónh mạch cửa
bình thường thường không cần tìm dấu hiệu chỉ dẫn.
Trái lại có dấu hiệu chỉ dẫn cũng không phải luôn
luôn là dấu hiệu có huyết khối thực sự hay giảm dòng
chảy của tónh mạch cửa.
Chụp mạch máu khảo sát các tạng ở bụng : Thấy
được hình ảnh phụt lại chất cản quang vào động mạch
chủ. Khi bơm thuốc vào nhánh động mạch mạc treo
ruột thường thấy hình ảnh co thắt động mạch trong

trường hợp thiếu máu, đây là hình ảnh gợi ý có tình
trạng huyết khối. Cũng cần lưu ý, kết quả thấm máu ở
tónh mạch lách và tónh mạch mạc treo tràng trên rất
quan trọng cho chỉ đònh phẫu thuật.
ECHO endoscopie: thường được trang bò ở các
trung tâm lớn, máy cho phép tiếp cận khá rõ cấu trúc
mạch máu tầng bụng phía trên. Có khả năng phát hiện
những dấu hiệu sớm của tình trạng tăng áp lực tónh
mạch cửa, huyết khối lách, huyết khối tónh mạch mạc
treo như trong trường hợp nhiễm trùng hay u tụy(3).
Coelioscopie: là phương tiện được sử dụng trong
lónh vực tiêu hóa khi có những khó khăn nhất đònh

trong chẩn đoán và trong cấp cứu.
Để xác đònh huyết khối tónh mạch hệ mạc treocửa, việc sử dụng các phương tiện cận lâm sàng trên
còn tùy thuộc vào trường hợp cấp cứu hay không.
Trong cấp cứu: thường sử dụng chụp bụng
không chuẩn bò, xét nghiệm huyết học xác đònh thiếu
máu hay máu c ô đặc ... và ECHO Doppler là rất cần
thiết thực hiện. Hiện nay coelioscopie được đề nghò
rộng rãi hơn trong cấp cứu (trừ các trường hợp chống
chỉ đònh). Ngoài ra thủ thuật mở bụng thăm dò trong
cấp cứu cũng được bàn tới nhiều hơn.
Trong hoản cảnh không cấp cứu : thường tiến
hành làm siêu âm bụng tổng quát và siêu âm
Doppler. Với các trường hợp đã có xác đònh huyết khối
tónh mạch cửa, ne7n kết hợp soi dạ dày để xác đònh
tình trạng giãn tónh mạch thực quản hay vùng tâm
vò. Khi siêu âm khó đánh giá, có thể sử dụng chụp CT
scan, IRM hay chụp động mạch.
Tìm hiểu căn nguyên: Huyết khối tónh mạch
cửa hay tónh mạch mạc treo ruột được chia thành 2
nhóm là huyết khối ở bệnh nhân có tăng áp lực tónh
mạch cửa trước đó hay ở bệnh nhân có gan tốt. Một
số nghiên cứu cho rằng huyết khối tónh mạch sâu ở
vùng bụng thường đi kèm với các bệnh lý khác.
Huyết khối tónh mạch cửa ở bệnh nhân có tăng áp
lực tónh mạch cửa từ trước : sơ gan là nguyên nhân
thường gặp nhất, chiếm 25%- 30% các trường hợp.
Trong phẫu thuật tử thi tỉ lệ gặp tới 50%(3). Cần chú ý
kiểm tra loại trừ K gan khi gặp huyết khối tónh mạch

Chuyên đề Hội nghò Khoa học Kỹ thuật BV. Bình Dân 2004


519


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 1 * 2004
sâu trên nền sơ gan. Cũng không nên xác đònh cục
máu đông huyết khối dễ dàng từ u bướu huyết khối.
Người ta cho rằng khi các nhánh mạch có huyết khối
thì tiên lượng bệnh nặng. Và chính động tác chích sơ
cũng có thể gây huyết khối tónh mạch cửa(3). Ngoài ra
một số bệnh lý hiếm gặp ở gan như sự tăng sản, xơ
gan cửa, tắc tónh mạch, ban xuất huyết ở gan...
Huyết khối tónh mạch cửa trên nền viêm gan :
thường thứ phát sau nhiễm trùng, chấn thương, có sự
chèn ép ở thân tónh mạch cửa. Ở trường hợp nhiễm
trùng, từ các vi trùng tự do, gay nhiễm độc, làm tởn
thương lớp nội mô của thành mạch và cấu thành
huyết khối. Trong thường hợp có phẫu thuật ổ bụng
như mổ tụy, mổ ung thư ... hay viêm tụy cấp, viêm
tụy mãn ... hoặc rối loạn đông máu... cũng có thể đưa
tới huyết khối hệ tónh mạch lách-cửa.
Mặc dù vậy cũng còn 10%-15% huyết khối hệ
tónh mạch lách cửa không rõ nguyên nhân(1,3).
Điều trò huyết khối hệ tónh mạch mạc
treo-cửa
Được chia tùy theo tình trạng cấp cứu hay trì hoãn.
Trong cấp cứu: hồi sức nội khoa (sử dụng
Heparin hay, phẫu thuật loại trừ tình trạng ruột hoại
tử. Trái lại việc tiến hành phẫu thuật lấy cục máu
đông, nhìn chung ít hiệu qủa, khả năng tái phát cao

và phải kiểm soát được quá trình đông máu. Hiện nay
các trường hợp giãn vỡ tónh mạch thực quản được nội
soi chích cầm máu khá hiệu quả, hoặc dùng sonde có
bóng chèn để cẩm máu... Việc tạo shunt đường cổ
chống chỉ đònh trong trường hợp nào...

Nghiên cứu Y học

sử dụng Fibrinolytique. Phòng ngữa huyết khối bằng
antivitamim K với trường hợp có huyết khối mãn. Trong
vòng 15-20 năm nay, phẫu thuật điều trò tăng áp lực tónh
mạch cửa ít thành công. Song việc sử dụng Bétabloquant
và nội soi chích xơ trong giãn tónh mạch cửa tỏ ra khá
hiệu quả, ngay cả khi xuất huyết tái phát.

KẾT LUẬN
Huyết khối hệ tónh mạch mạc treo cửa hiếm gặp
và thường khó xác đònh, dẫn đến việc xử trí muộn và
tiên lượng nặng. Vấn đề này đặt ra cho các Bác só lâm
sàng phải nghó tới và tìm cách phát hiện được tình
trạng huyết khối hệ tónh mạch mạc treo - cửa ngay ở
giai đoạn bán cấp.
Vai trò quan trọng của các phương tiện thăm dò
không xâm lấn, giúp chẩn đoán, đã có tác dụng tốt
cải thiện tiên lượng bệnh. Kết quả điều trò với các
trường hợp không cấp cứu ngày càng tốt hơn, không
nhất thiết phải phẫu thuật. Những nghiên cứu về căn
nguyên gây bệnh càng làm phong phú thêm khả
năng chẩn đoán và điều trò bệnh.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.

3.

4.
5.

HENRI BOCCALON (1997), Thromboses veineuses
d’organe, Maladies Vasculaire, pp 219-221.
LAROCHE J.P., DAUZAT M., MULLER G., JANBON
C.H., (1993), Le Doppler couleur veineux avantages,
Actualités Vasculaires, Octobre N5, pp 15-17.
MOREAY M. (1995), Thromboses veineuses du système
mésentérico-porte,
Maladie
Thrombo-embolique
veineuse, pp 211-216.
WAYFLYE M., CALLERY M.P. (1995), Portal
hypertension, Vascular Surgery, pp 1621-1663.
CAO VĂN THỊNH, VĂN TẦN (1998), Nhồi máu ruột
mạc treo, Ngoại khoa, tập XXXI, Tr 34-39.

Ngoài tình trạng cấp cứu: điều trò theo nguyên nhân,
với huyết khối mới tạo thường điều trò có hiệu qủa, có khi

520

Chuyên đề Hội nghò Khoa học Kỹ thuật BV. Bình Dân 2004




×