Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Những yếu tố ảnh hưởng đến việc đi khám thai trong ba tháng đầu thai kì của thai phụ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (374.59 KB, 6 trang )

Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 5 * 2014

NHỮNG YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN VIỆC ĐI KHÁM THAI  
TRONG BA THÁNG ĐẦU THAI KÌ CỦA THAI PHỤ 
Nguyễn Thị Nhẫn*, Wannee Deoisres**, Siriwan Sangin**, Triệu Thị Ngọc Thu*, Vũ Thị Mai* 

TÓM TẮT 
Đặt vấn đề : Khám thai đã được chứng minh là có hiệu quả trong việc phát hiện sớm và quản lý các biến 
chứng khi mang thai. Tuy nhiên, thông tin về việc đi khám thai của phụ nữ ở Việt Nam còn hạn chế, đặc biệt là 
các nghiên cứu về các yếu tố liên quan đến việc đi khám thai của phụ nữ trong ba tháng đầu của thai kỳ vẫn còn 
chưa phổ biến. 
Mục tiêu nghiên cứu : Nhận biết số lần đi khám thai trong thai kỳ của thai phụ và những yếu tố ảnh 
hưởng đến số lần đi khám thai trong ba tháng đầu của thai kỳ.  
Phương  pháp  nghiên  cứu :  Nghiên cứu cắt ngang được xây dựng tại khoa hậu sản và hậu phẫu của 
Bệnh viện Từ Dũ với cỡ mẫu là 316 sản phụ. Dữ liệu được thu thập bằng cách sử dụng bộ câu hỏi tự điền 
được phát triển bởi nhà nghiên cứu với 5 phần.  
Kết quả : 72,8% người tham gia nghiên cứu có đi khám thai ít nhất là một lần trong ba tháng đầu thai 
kỳ. Sản phụ đã kết hôn thì đi khám thai ít nhất là một lần trong ba tháng đầu thai kỳ nhiều hơn sản phụ 
chưa kết hôn gấp 2,10 lần (95% CI, 1,01 – 4,42). Với mỗi một điểm tăng lên trong tổng điểm của thái độ, 
kiến thức về số lần đi khám thai thì số lần đi khám thai trong ba tháng đầu thai kỳ sẽ tăng lên 1,05 lần và 
1,15 lần.  
Kết luận: Nhân viên y tế, hệ thống chăm sóc sức khỏe nên đặc biệt quan tâm chú ý đến nhóm đối tượng 
thai phụ chưa kết hôn để kịp thời phổ biến những lợi ích của việc đi khám thai sớm trong ba tháng đầu thai 
kỳ. Chương trình giáo dục sức khỏe về tầm quan trọng của việc đi khám thai cũng nên được phổ biến đến tất 
cả thai phụ để góp phần nâng cao nhận thức cũng như thái độ của thai phụ về việc đi khám thai trong ba 
tháng đầu của thai kỳ. 
Từ khóa: khám thai, ba tháng đầu thai kỳ, sản phụ, bệnh viện Từ Dũ 

ABSTRACT 


FACTORS RELATED TO ANTENATAL CARE UTILIZATION 
 IN THE FIRST TRIMESTER AMONG PREGNANT WOMEN. 
Nguyen Thi Nhan, Wannee Deoisres, Siriwan Sangin, Trieu Thi Ngoc Thu, Vu Thi Mai 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 5‐ 2014: 84 ‐ 89 
Background:  Antenatal  care  has  been  proven  to  be  effective  in  early  detection  and  management  the 
complications when the women have pregnancy. However, the information about antenatal care among pregnant 
women in Vietnam is still little, especially the studies to identify the factors related to antenatal care in the first 
trimester. 
Purposes:  This study aims to determine the utilization of antenatal care in the first trimester and factors 
predicting antenatal care utilization in the first trimester among postpartum women.  
Methods: Predictive correlation study was conducted in two postpartum wards at Tu Du hospital with the 
sample size was 316 postpartum women. Data were collected by using the self‐report questionnaire developed by 
researcher with 5 sections.  
Results: The results showed that 72.8% of respondents had antenatal care utilization in the first trimester. 
* Đại học Y Dược Tp. Hồ Chí Minh.  
** Đại học Burapha, Thái Lan 
Tác giả liên lạc: Ths ĐD.Nguyễn Thị Nhẫn,   ĐT: 0907307358,   Email:  

84

Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 5 * 2014 

Nghiên cứu Y học

Women  were  married  2.10  times  got  the  antenatal  care  utilization  ≥  1  times  compared  to  women  who  were 
unmarried (95% CI, 1.01 – 4.42). For each one point increase on the attitude, knowledge toward antenatal care 
utilization there were 1.05 times and 1.15 times (95% CI, 1.02 – 1.12; 95% CI, 1.10 – 2.18, respectively) the 

respondents would get antenatal care utilization ≥ 1 times.  
Conclusions:  These  finding  indicated  that  health  care  provider,  health  care  system  should  pay  more 
attention to women who were unmarried to increase the antenatal care utilization in this group. Besides, health 
education  about  importance  of  antenatal  care  should  be  provided  to  improve  the  attitude  of  women  toward 
antenatal care in order to increase the antenatal care utilization among Vietnamese women.  
Keywords: antenatal care, the first trimester, postpartum women, Tu Du hospital. 

ĐẶT VẤN ĐỀ 
Mỗi  năm  trên  toàn  thế  giới  có  hơn  500.000 
phụ  nữ  và  trẻ  em  gái  phải  chịu  tử  vong  do 
những  biến  chứng  liên  quan  đến  mang  thai  và 
sinh nở. Tỷ lệ tử vong bà mẹ và trẻ sơ sinh ở Việt 
Nam  đã  giảm  trong  vài  năm  qua  nhưng  hiện 
vẫn còn cao với số lượng trẻ sơ sinh tử vong là 
16 trẻ trong số 1000 trẻ sinh sống, tỷ lệ tử vong 
mẹ là 69 trên tổng số 100,000 ca sinh sống năm 
20091314.  
Khám  thai  đã  được  chứng  minh  là  có  hiệu 
quả  trong  việc  cải  thiện  kết  quả  thai  kỳ  thông 
qua  việc  phát  hiện  sớm  và  quản  lý  các  biến 
chứng  khi  mang  thai317.  Ở  Việt  Nam,  theo  đề 
nghị từ Bộ Y tế, phụ nữ mang thai nên đến thăm 
khám  thai  ít  nhất  ba  lần  trong  thời  gian  mang 
thai của họ, một lần cho mỗi tam cá nguyệt9. Tuy 
nhiên,  một  số  lượng  lớn  phụ  nữ  Việt  Nam 
không đi khám thai đầy đủ7, thông tin về việc đi 
khám thai của phụ nữ ở Việt Nam còn hạn chế, 
đặc biệt là các nghiên cứu về các yếu tố liên quan 
đến  việc  đi  khám  thai  trong  ba  tháng  đầu  của 
thai kỳ.  


PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Thiết kế nghiên cứu 
Phương pháp cắt ngang mô tả.  

Đối tượng nghiên cứu 
Sản phụ sau khi sanh nằm tại khoa hậu sản 
và hậu phẫu của bệnh viện Từ Dũ trong khoảng 
thời gian thu thập số liệu. 

Cỡ mẫu 

Z2 / 2 p(1  p ) (1.96) 2 x0.71x0.29
N

 316  
(0.05) 2
d2
Chọn α = 0,05 => zα/2 = 1.96 (độ tin cậy 95%) 
p = 0,71 tỷ lệ đi khám thai theo nghiên cứu của Lieu. (2007) 
d = 5% 

  Cỡ mẫu tính được là 316 sản phụ 

Tiêu chuẩn chọn mẫu 
  Phụ  nữ  sau  khi  sanh  xong  được  nằm  tại 
khoa hậu sản và hậu ph ba
Cấp ba
Cao đẳng Đại học
Nội trợ

Công nhân viên chức

Khám thai
Không khám (n = 86)
≥ 1 lần (n = 230)
N
%
n
%
10
58,8
7
41,2
69
24,7
210
75,3
7
35,0
13
65,0
69
25,1
206
74,9
17
41,5
24
58,5
31

34,4
59
65,6
14
35
32
54

Dân tộc Kinh
77
Các dân tộc khác
9
Thái độ về việc đi khám thai**
Kiến thức về việc đi khám thai **
< 1,000,000 VND
2
1,000,000 – 2,000,000 VND
25

21,5
21,7
36,4
23,7

51
126
56
174

78,5

78,3
63,6
76,3

26,4
37,5

215
15

73,6
62,5

33,3

4

66,7

48,1

27

51,9

2

p

7,05


,06

4,83

,03

5,15

,07

4,75

,02

1,38

,17

5,13

<,001
,02
,09

<,001

> 2,000,000 VND

59


22,9

199

77,1

Không có bảo hiểm
Có bảo hiểm

37

41,6

52

58,4 12,89

49

21,6

178

78,4

Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 5 * 2014 


Nghiên cứu Y học

Khám thai
Không khám (n = 86)
≥ 1 lần (n = 230)
N
%
n
%
62
25,1
185
74,9
24
34,8
45
65,2

Yếu tố

2

p

5,05

,08

Số lần sinh *


< 2 lần
≥ 2 lần

Tiền sử sản khoa
nguy cơ*


Không

60
26

29,3
23,4

145
85

70,7
76,6

1,24

,16

Nguy cơ cao trong
thời kỳ mang thai*

Không



58
28

27,4
26,9

154
76

72,6
73,1

0,01

,52

* giá trị p được tính bởi Pearson Chi‐square 

** giá trị p được tính bởi Point Biserial 

Bảng 4. Độ mạnh của mối liên quan giữa biến độc lập 
và số lần khám thai trong ba tháng đầu thai kỳ 
OR hiệu
chỉnh
Tình trạng hôn nhân
Chưa kết hôn
1,00
Đã kết hôn

2,10
Nghề nghiệp
Nội trợ
1,00
Công nhân viên chức
1,28
Thái độ về việc đi khám thai
1,05
Kiến thức về khám thai
1,15
Bảo hiểm
Không có bảo hiểm
1,00
Có bảo hiểm
1,02
Biến số

95% CI

p

1,01 – 4,42 0,04

0,65 – 2,72 0,48
1,02 – 1,12 0,03
1,10 – 2,18 0,02
0,53 – 2,05 0,96

BÀN LUẬN 
Hầu  hết  phụ  nữ  trong  nghiên  cứu  này  đi 

khám thai trong tam cá nguyệt đầu ít nhất một 
lần  với  tỷ  lệ  72,8%.  Con  số  này  cao  hơn  khi  so 
sánh  với  69,1%  trong  nghiên  cứu  khác  ở  Việt 
Nam12và 39,9% trong nghiên cứu của tác giả Ye 
vào năm 201016. Đi khám thai sớm đóng vai trò 
quan trọng trong việc cải thiện kết quả của thai 
kỳ  như  là  giảm  tỉ  lệ  của  chuyển  dạ  sanh  non10, 
giảm  tỷ  lệ  sanh  con  nhẹ  cân10,11,  và  giảm  tỷ  lệ 
chết chu sinh8. Nguyên nhân giải thích cho tỷ lệ 
phụ  nữ  đi  khám  thai  sớm  trong  tam  cá  nguyệt 
đầu có thể là do ngày nay phụ nữ quan tâm đến 
thai  kỳ  của  họ  nhiều  hơn,  họ  nhận  thức  được 
tầm quan trọng của việc đi khám thai thông qua 
giáo dục từ nhân viên y tế hoặc từ báo, tạp chí, 
chương  trình  truyền  hình.  Một  nguyên  nhân 
quan trọng nữa là do phụ nữ chấp hành đề nghị 
từ Chính phủ là mỗi gia đình chỉ nên có từ một 
đến hai con nên họ đặc biệt cẩn thận khi mang 

Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học

thai, họ sẽ đi khám thai sớm nhất có thể khi biết 
mình mang thai. 
Kết quả cũng cho thấy rằng phụ nữ tham gia 
nghiên cứu này chủ yếu là lập gia đình (87,0%), 
và chỉ ra rằng tình trạng hôn nhân của người trả 
lời  có  liên  quan  với  việc  khám  thai  trong  ba 
tháng đầu tiên (p = 0,03). Những phụ nữ đã kết 
hôn khám thai trong ba tháng đầu thai kỳ nhiều 
gấp  2,10  lần  so  với  phụ  nữ  chưa  lập  gia  đình. 

Nghiên cứu này là phù hợp với các nghiên cứu 
khác(4,5,7),  những  nghiên  cứu  đó  cũng  xác  nhận 
rằng việc đi khám thai và tình trạng hôn nhân có 
mối  quan  hệ  với  nhau.  Tuy  nhiên,  khi  so  sánh 
với  nghiên  cứu  của  Beeckman2  thì  có  sự  khác 
biệt.  Nghiên  cứu  này  cho  thấy  tình  trạng  hôn 
nhân  có  liên  quan  không  đáng  kể  với  việc  đi 
khám thai2. Một lý do có thể giải thích cho việc 
phụ nữ đã kết hôn đi khám thai nhiều hơn là họ 
đã có sự hỗ trợ từ chồng của họ từ hỗ trợ về kinh 
tế, tinh thần, do đó họ đi thăm khám thai thường 
xuyên hơn. 
Liên quan đến thái độ đối với việc khám thai 
của phụ nữ sau khi sinh, nghiên cứu chỉ ra rằng 
có  mối  liên  quan  có  ý  nghĩa  thống  kê  giữa  thái 
độ  đối  với  việc  khám  thai  và  việc  đi  khám thai 
trong  khi  mang  thai  (p  <  0,001  )  và  tỉ  số  chênh 
bằng  1,05.  Phát  hiện  này  cho  thấy  rằng  đối  với 
mỗi một  điểm  gia tăng trên tổng  điểm  của  thái 
độ đối với việc khám thai thì phụ nữ sẽ đi khám 
thai ít nhất một lần trong ba tháng đầu của thai 
kỳ  nhiều hơn gấp  1,05  lần.  Kết  quả nghiên  cứu 
này phù hợp với nghiên cứu của Effendi6, trong 
đó tiết lộ rằng bà mẹ sau sinh có thái độ tiêu cực 
đối với việc đi khám thai thì có nhiều khả năng 
không thường xuyên khám thai lần so với các bà 

87



Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 5 * 2014

mẹ có thái độ tích cực. Phát hiện này cũng phù 
hợp  với  nghiên  cứu  của  Ye16,  trong  đó  chỉ  ra 
rằng  những  phụ  nữ  có  thái  độ  tích  cực  đối  với 
việc  đi  khám  thai  đã  có  một  tỷ  lệ  cao  hơn  của 
thăm khám thai với tỷ số chênh bằng 3,0 so với 
những  người  có  thái  độ  tiêu  cực.  Dựa  trên  mô 
hình hành vi của việc sử dụng dịch vụ y tế của 
Andersen  và  Neuman  (1973)  thì  những  gì  một 
người phụ nữ nghĩ về dịch vụ chăm sóc thai sản 
có  thể  ảnh  hưởng  đến  việc  đi  khám  thai1.  Gần 
một  nửa  số  người  được  hỏi  trong  nghiên  cứu 
này  đồng  ý  rằng  thời  gian  chờ  đợi  trong  quá 
trình  khám  thai  là  quá  dài  cho  họ.  Vì  vậy,  một 
trong những chiến lược để tăng điểm số của thái 
độ  đối  với  việc  khám thai  là  cải  thiện  thời  gian 
để  nhận  được  dịch  vụ  chăm  sóc  thai  sản.  Bằng 
cách này phụ nữ sẽ có động lực đủ để đi khám 
thai thường xuyên hơn. Việc thay đổi thái độ và 
hành  vi  là  những  nhiệm  vụ  khó  khăn  nhất  cho 
nhân viên y tế nhưng đây lại là phương pháp ít 
tốn kém nhất. Vì vậy, chiến dịch giáo dục thích 
hợp và phổ biến tầm quan trọng của khám thai, 
mở  rộng  nguồn  thông  tin  về  lợi  ích  của  việc 
khám thai là đầu tư lâu dài để góp phần tăng tỷ 
lệ đi khám thai trong ba tháng đầu cho thai phụ. 
Nghiên  cứu  cũng  chỉ  ra  rằng  có  mối  liên 

quan có ý nghĩa thống kê giữa kiến thức đối với 
việc  khám  thai  và  việc  đi  khám  thai  trong  khi 
mang  thai  (p  =  0,02)  và  tỉ  số  chênh  bằng  1,15. 
Phát  hiện  này  cho  thấy  rằng  đối  với  mỗi  một 
điểm gia tăng trên tổng điểm của kiến thức đối 
với việc khám thai thì phụ nữ sẽ đi khám thai ít 
nhất  một  lần  trong  ba  tháng  đầu  của  thai  kỳ 
nhiều hơn gấp 1,15 lần. Phát hiện này phù hợp 
với nghiên cứu của Effendi (2008), trong đó tiết 
lộ rằng bà mẹ sau sinh người có kiến thức thấp 
về  chăm  sóc  thai  sản  có  nhiều  khả  năng  khám 
thai không thường xuyên so với những bà mẹ có 
kiến thức cao với tỷ số chênh bằng 3,536. Ngoài 
ra,  kết  quả  này  cũng  tương  tự  như  nghiên  cứu 
của Ye và cộng sự, trong đó tiết lộ rằng phụ nữ 
có kiến thức tốt thì đi khám thai nhiều hơn phụ 
nữ không có kiến thức đùng đắn về lợi ích của 
việc  đi  khám  thai  là  6,5  lần16.  Vì  vậy,  kiến  thức 

88

của mỗi người đóng một vai trò rất quan trọng 
trong  việc  khám  thai  của  chính  bản  thân  họ 
trong suốt thai kỳ. Nâng cao kiến thức về lợi ích 
của việc đi khám thai cho phụ nữ mang thai là 
một  yếu  tố  quan  trọng  để  tăng  số  lần  đi  khám 
thai ở phụ nữ. Hơn nữa, một khi họ có kiến thức 
về chăm sóc thai sản, họ sẽ chăm sóc tốt hơn cho 
sức khỏe của họ. 


KẾT LUẬN 
Tỷ  lệ  phụ  nữ  đi  khám  thai  ít  nhất  một  lần 
trong tam cá nguyệt đầu là 72,8%, phụ nữ đã kết 
hôn,  có  thái  độ  tích  cực,  có  kiến  thức  về  khám 
thai thì sẽ đi khám thai thường xuyên hơn so với 
những  người  phụ  nữ  chưa  kết  hôn,  có  thái  độ 
tiêu cực về khám thai và có kiến thức hạn chế về 
tầm quan trọng, cũng như lợi ích của việc khám 
thai. Vì vậy, nhân viên y tế, hệ thống chăm sóc 
sức khỏe nên đặc biệt quan tâm chú ý đến nhóm 
đối tượng thai phụ chưa kết hôn để kịp thời phổ 
biến  những  lợi  ích  của  việc  đi  khám  thai  sớm 
trong  ba  tháng  đầu  thai  kỳ.  Chương  trình  giáo 
dục  sức  khỏe  về  tầm  quan  trọng  của  việc  đi 
khám  thai  cũng  nên  được  phổ  biến  đến  tất  cả 
thai phụ để góp phần nâng cao nhận thức cũng 
như  thái  độ  của  thai  phụ  về  việc  đi  khám  thai 
trong ba tháng đầu của thai kỳ. 

TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.

2.

3.

4.

5.


6.

7.

Andersen  R  &  Neuman  J  (1973).  Societal  and  individual 
determinants of medical care utilization in the United States. 
The Milbank Quarterly 83(4): 1‐28. 
Beeckman K, Louckx F, & Putman K (2010). Determinants of 
the number of antenatal care visits in a metropolitan region. 
BMC Public Health 10: 527‐535.  
Brown  C,  Sohani  S,  Khan  K,  Lilford  R,  &  Mukhwana  W 
(2008).  Antenatal  care  and  perinatal  outcomes  in  Kwale 
district, Kenya. BMC Pregnancy and Childbirth 8: 2‐11. 
Chen  C,  Liu  T,  &  Chen  L  (2003).  National  health  insurance 
and the antenatal care use: a case in Taiwan. Health Policy 64: 
99‐112. 
Dairo  M  &  Owoyokun  K  (2010).  Factors  affecting  the 
utilization of antenatal care services in Ibadan, Nigeria. Benin 
Journal of Postgraduate Medicine 12(1): 3‐13. 
Effendi  R  (2008).  Factors  related  to  regular  utilization  of 
antenatal  care  service  among  postpartum  mothers  in  Pasar 
Rebo  general  hospital,  Jakarta,  Indonesia.  Unpublished 
Master’s  thesis,  Faculty  of  Graduate  Studies,  Mahidol 
University. 
Lieu T, Dibley M, & Byles J (2007). Determinants of antenatal 
care utilization in three rural areas of Vietnam. Public Health 
Nursing 24: 300‐310 

Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 



Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 5 * 2014 
8.

9.

10.

11.

12.

McCaw Binns A, Greenwood R, Ashley D, & Golding J (1994). 
Antenatal  and  Perinatal‐Care  in  Jamaica  ‐  do  They  Reduce 
Perinatal  Death  Rates?  Pediatric  &  Perinatal  Epidemiology 
8(1): 86‐97. 
Ministry of Health [MOH] (2003). National safe Motherhood 
plan  in  Vietnam  2003‐2010.  Volume  5792/2003/QD‐BYT 
medical Publishing House, Hanoi; 2003. 
Orvos H, Hoffmann I, Frank I, Katona M, Pal A, & Kovacs L 
(2002). The perinatal outcome of pregnancy without prenatal 
care  ‐  A  retrospective  study  in  Szeged,  Hungary.  European 
Journal  of  Obstetrics  &  Gynecology  and  Reproductive 
Biology 100: 171‐173. 
Petrou  S,  Kupek  E,  Vause  S,  &  Maresh  M  (2003).  Antenatal 
visits  and  adverse  perinatal  outcomes  results  from  a  British 
population‐  based  study.  European  Journal  of  Obstetrics  & 
Gynecology and Reproductive Biology 106(1): 40‐49. 
Tran T, Nguyen C, Nguyen H, Eriksson B, Bonjers G, Gottvall 
K,  &  Petzold  M  (2011).  Urban‐rural  disparities  in  antenatal 

care utilization: A study of two cohorts of pregnant women in 
Vietnam. BMC Health Services Research 11(1): 120‐129. 

13.

14.

15.

16.

17.

Nghiên cứu Y học

United  Nation  [UN]  (2010a).  Achieving  the  MDGs  with 
Equity  MDGs  4.  Retrieved  on  September  29,  2012  from 
/>United  Nation  [UN]  (2010b).  Achieving  the  MDGs  with 
Equity  MDGs  5.  Retrieved  on  September  29,  2012  from 
/>UNICEF (2010). At a glance: Viet Nam. Retrieved on June 10, 
2012 
from 
/>Ye  Y,  Yoshida  Y,  Rashid  H,  &  Sakamoto  J  (2010).  Factors 
affecting  the  utilization  of  antenatal  care  services  among 
women in Kham district, Xiengkhouang province, Lao PDR. 
Nagoya Journal of Medical Science 72: 23‐33. 
Zanconato G, Msolomba R, Guarenti L, & Franchi M (2006). 
Antenatal care in developing countries: the need for a tailored 
model. Seminars in Fetal & Neonatal Medicine 11(1): 15‐20.  


 
Ngày nhận bài báo 

 

 

Ngày phản biện nhận xét bài báo 
Ngày bài báo được đăng: 

 

09/9/2014 

 

29/9/1014 
20/10/2014 

 

 

 

Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học

89




×