Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Đánh giá hiệu quả, sự hài lòng của gây tê tủy sống và gây mê toàn diện sử dụng mặt nạ thanh quản trong phẫu thuật vô sinh nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (372.19 KB, 8 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012

Nghiên cứu Y học

ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ, SỰ HÀI LÒNG CỦA GÂY TÊ TỦY SỐNG
VÀ GÂY MÊ TOÀN DIỆN SỬ DỤNG MẶT NẠ THANH QUẢN
TRONG PHẪU THUẬT VÔ SINH NAM
Trần Đỗ Anh Vũ*, Trần Thị Ngọc Phượng**, Nguyễn Thị Túy Phượng*, Nguyễn Văn Chinh*,
Nguyễn Văn Chừng*

TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Trong các trường hợp phẫu thuật điều trị vô sinh nam, đa số các bệnh nhân có tâm lý ngượng
ngùng, phần lớn yêu cầu được gây mê. Phương pháp vô cảm thông dụng hiện nay là gây tê tủy sống, có nhiều
bất lợi về mặt tâm lý người bệnh khi nằm trên bàn mổ để phẫu thuật trên vùng nhạy cảm.
Với những ưu điểm về ổn định huyết động khi đặt và rút MNTQ, giảm được những biến chứng sau mổ
cũng như đặt MNTQ không cần dãn cơ, chúng tôi tiến hành nghiên cứu sử dụng mặt nạ thanh quản trong điều
trị vô sinh nam bệnh nhân phẫu thuật vùng bìu.
Mục tiêu: Xác định hiệu quả thông khí, tính ổn định huyết động và sự hài lòng của bệnh nhân gây mê toàn
diện sử dụng mặt nạ thanh quản so với phương pháp gây tê tủy sống trong gây mê phẫu thuật vô sinh nam.
Phương pháp nghiên cứu: Tiền cứu, so sánh - kiểm chứng lâm sàng. 72 bệnh nhân bị vô sinh nam có ASA
1, 2, 3 được mổ chương trình để điều trị tình trạng vô sinh nam, chia thành hai nhóm: gây mê toàn diện sử dụng
mặt nạ thanh quản (MNTQ) và gây tê tủy sống một cách ngẫu nhiên, chọn cỡ MNTQ số 3 hoặc 4; gây tê tủy
sống với Bupivacaine heavy 0,5% 10 - 12 mg. Thu thập các số liệu: mạch, huyết áp tâm thu (HATT), huyết áp
tâm trương (HATTr), áp lực đường thở, SpO2 và ETCO2, biến chứng trong và sau gây mê, gây tê.
Kết quả: Các thông số về thông khí và huyết động trong gây mê giữa MNTQ và gây tê tủy sống: SpO2
99,06 ± 0,71 % và 99,02 ± 0,39 %, (riêng nhóm MNTQ: ETCO2 35,45 ± 1,52 mmHg, áp lực đường thở 15,53 ±
2,13 cmH2O); mạch và huyết áp ổn định trong cả 2 nhóm.
Kết luận: Gây mê toàn diện với mặt nạ thanh quản, gây tê tủy sống với Bupivacaine; cả hai phương pháp
vô cảm đều hiệu quả và an toàn trong gây mê - phẫu thuật điều trị vô sinh nam, gây mê toàn diện ít ảnh hưởng
huyết động, giảm được sự lo âu sợ hãi khi phẫu thuật và đa số bệnh nhân rất hài lòng với phương pháp vô cảm
này, gây tê tủy sống thích hợp cho những trường hợp cần sự tỉnh táo trong khi phẫu thuật.


Từ khóa: mặt nạ thanh quản, gây tê tủy sống, phẫu thuật vô sinh nam.

ABSTRACT
THE EFFECT, SATISFACTION OF SPINAL ANESTHESIA AND GENERAL ANESTHESIA WITH
LARYNGEAL MASK AIRWAY FOR SURGERY OF MALE INFERTILITY
Tran Do Anh Vu, Tran Thi Ngoc Phuong, Nguyen Thi Tuy Phuong, Nguyen Van Chinh,
Nguyen Van Chung * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 1 - 2012: 383 - 390
Background: In the case of surgical treatment of male infertility, the majority of patients with psychological
embarrassment, most require general anesthesia. Method of anesthesia is now commonly used spinal anesthesia,
there are many disadvantages in terms of psychological patient lying on the operating table for surgery on
* Đại Học Y Dược TP. Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: ThS.BS. Trần Đỗ Anh Vũ

** Bệnh viện Bình Dân, Tp. HCM
ĐT: 0903 181 976
Email:

Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2012

383


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012

sensitive areas. With the advantages of hemodynamic stability when placing and withdrawal LMA, reduce
postoperative complica
± 12,25 giây, điều này phù hợp với nghiên cứu
của Keller C, Malby(7,8). So với nhóm gây tê tủy

sống thì thời gian thực hiện đặt MNTQ nhanh
hơn có ý nghĩa thống kê (P < 0,05). Do đặc điểm
dễ thực hiện, thao tác nhanh, MNTQ cũng là ưu
tiên hàng đầu của chúng tôi trong lúc phải
chuyển phương pháp vô cảm khi thất bại với gây
tê tủy sống. Thời gian đặt và thời gian rút của
MNTQ tương đối nhanh rất có ý nghĩa đối với
bệnh nhân tăng huyết áp hoặc có bệnh tim mạch
như nhồi máu cơ tim cũ, thiểu năng vành vì thời
gian đặt và rút nhanh kèm theo kỹ thuật đặt ít
xâm lấn nên ít gây rối loạn huyết động và ít gây
tăng nhu cầu oxy cho cơ tim do đó giảm được
những biến chứng tim mạch chu phẫu.

Kỹ thuật đặt mặt nạ thanh quản
Chọn kích cỡ mặt nạ thanh quản
Chọn kích cỡ mặt nạ thanh quản một vấn
đề quan trọng vì cỡ mặt nạ thanh quản đúng sẽ
dễ đặt, độ kín mặt nạ tốt, ít chèn ép lên mao
mạch vùng hầu họng, giảm biến chứng sau mổ
và thông khí với mặt nạ thanh quản an toàn,
hiệu quả(1,2,3).
Trong nhóm nghiên cứu chúng tôi kết hợp
giữa giới, cân nặng và đánh giá cấu trúc vùng
hầu họng để chọn mặt nạ thanh quản phù hợp, đa
số bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng tôi
dùng MNTQ số 4, chỉ có 5/36 trường hợp dùng

Nghiên cứu Y học


MNTQ số 3. Tất cả các bệnh nhân trong nhóm
đặt MNTQ đều được sử dụng MNTQ cổ điển.
Tỷ lệ đặt thành công MNTQ: tùy thuộc vào
các yếu tố:
Cấu trúc giải phẫu vùng hầu họng bình
thường.
Chọn cỡ MNTQ phù hợp
Kỹ thuật đặt thành thạo và chọn thời điểm mê
thích hợp.
Trong nghiên cứu ở nhóm đặt MNTQ, chỉ có
2/36 trường hợp chúng tôi phải đặt lại do chọn
sai cỡ MNTQ, tỷ lệ thành công chung là 100%.
Nghiên cứu sử dụng MNTQ trong phẫu thuật
trong ngày của Đỗ Thanh Huy và Nguyễn Văn
Chừng(4,10) có tỷ lệ thành công chung là 100%.
Thông khí: Thông khí được đánh giá là
hiệu quả sau khi đặt mặt nạ thanh quản: SpO2
≥ 95%, áp lực thông khí ≤ 35 cmH2O, ETCO2
duy trì 35 - 45 mmHg, lồng ngực dãn nở cân
xứng, không nghe rò khí qua miệng, không
bơm hơi vào dạ dày.
Áp lực thông khí: Trong nghiên cứu của
chúng tôi áp lực thông khí của nhóm đặt
MNTQ 15,53 ± 2,13 cmH2O, tương tự nghiên
cứu của Brimacombe và Maltby(7,9) (18 ± 5
cmH2O và 20 ± 5 cmH2O).
SpO2 (độ bão hòa oxy qua mạch nảy):
Nghiên cứu của chúng tôi, SpO2 của nhóm
MNTQ: 99,06 ± 0,71%, so với nhóm TTS: 99,02 ±
0,39 %, SpO2 luôn luôn dao động từ 98% - 100%.

Sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê; kết quả
của chúng tôi tương đương với nghiên cứu của
Roger Maltby và cs(8); Ocker H(11).
ETCO2: Biến đổi ETCO2 trong nghiên cứu
của chúng tôi nằm trong giới hạn cho phép 35,45
± 1,52 mmHg (28 – 44 mmHg).
Điều này cho thấy cả 2 phương pháp vô cảm
đều đảm bảo an toàn thông khí cho bệnh nhân.
Huyết động: Trong cả 2 nhóm, những thay
đổi về huyết động học trong tất cả các giai đoạn
của quá trình phẫu thuật và sau phẫu thuật hầu
như không đáng kể. Trong khoảng 15 phút đầu
sau khi gây tê, HA có giảm hơn ở nhóm GTTS,

Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2012

387


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012

có ý nghĩa về mặt thống kê so với nhóm MNTQ,
tuy nhiên mức giảm HA này chưa có ý nghĩa về
mặt lâm sàng. Theo y văn ảnh hưởng lên huyết
động của mặt nạ thanh quản không đáng kể và
thay đổi ít hơn đặt NKQ(9,14); đặc biệt là khi so
sánh với gây tê tủy sống. Wolfgang Oczenski(12)
nhận thấy ảnh hưởng lên huyết động của nhóm

NKQ ở giai đoạn trước và sau đặt cao gấp 2 lần
nhóm đặt mặt nạ thanh quản. Montarazi(9) thấy
HA, mạch của nhóm MNTQ ở giai đoạn trước và
sau đặt 1 phút và 5 phút không có khác biệt. Sự
tăng huyết áp nhiều ở nhóm đặt NKQ được cho
là khi kích thích đường hô hấp trên trong quá
trình đặt NKQ gây nên đáp ứng của hệ thần kinh
giao cảm – tuyến thượng thận thông qua các ổ
thụ cảm thể ở vùng thanh quản, khí quản gây ra
tăng huyết áp, tăng mạch, tăng nồng độ
catecholamine huyết thanh. Khi phân tích đáp
ứng của huyết động trong từng thời kỳ đặt,
Singh(15) thấy lúc đưa đèn soi thanh quản vào thì
tác động lên HA nhiều hơn lúc đưa ống NKQ
vào. Đó cũng là những lý do chúng tôi chọn lựa
MNTQ thay vì sử dụng NKQ khi chọn phương
pháp vô cảm là gây mê toàn diện cho phẫu thuật
điều trị vô sinh nam.

Tai biến, biến chứng
Biến chứng trào ngược và hít sặc dịch vị
Biến chứng trào ngược và hít sặc là một biến
chứng rất quan trọng, có thể đe dọa tính mạng
người bệnh, biến chứng này có thể xảy ra khi
thông khí với mặt nạ thanh quản. Tuy nhiên
theo các nghiên cứu trước đây thì tỷ lệ này thấp(5).
Có nhiều yếu tố gây ra như: chọn bệnh nhân
không tuân thủ chỉ định và chống chỉ định của
MNTQ, tư thế bệnh nhân trong phẫu thuật: nằm
đầu thấp, nằm nghiêng, nằm sấp.

Trong nghiên cứu của chúng tôi không có
trường hợp nào trào ngược và hít sặc, vì tất cả các
bệnh nhân đều được phẫu thuật chương trình, và
không có các yếu tố nguy cơ trào ngược khác.

Co thắt thanh quản, tổn thương niêm mạc dính
máu MNTQ
Trong nghiên cứu này, chúng tôi không gặp
trường hợp nào bị co thắt thanh quản khi đặt

388

MNTQ. Maltby, Neilson(7) gặp ở nhóm MNTQ
cổ điển là 1/49 (2,04%). Maltby(8) gặp trong nhóm
MNTQ - Proseal là 2/50 (4%).
Trong nhóm MNTQ có 2/36 (5,55%) trường
hợp tổn thương niêm mạc hầu họng, gây chảy
máu dính MNTQ. 2 trường hợp này xảy ra trên
bệnh nhân đặt mặt nạ thanh quản lại lần thứ 2.
Tuy nhiên sự tổn thương này không ảnh hưởng
đến quá trình thông khí và tổn thương này chỉ
gây chảy máu ít, tự cầm, không cần phải xử trí.
Trong nghiên cứu của Brimacombe và Kihara(6)
tỷ lệ tổn thương niêm mạc từ 3 - 28% (trung bình
là 10,2%). Điều này cũng phù hợp với nghiên cứu
của chúng tôi.

Kích thích vùng vẫy lúc rút
Trong nghiên cứu của chúng tôi, bệnh nhân
kích thích vùng vẫy lúc rút mặt nạ thanh quản

chiếm tỷ lệ 2/36 (5,55%) trường hợp, rất ít nếu như
so sánh với những trường hợp gây mê toàn diện
có sử dụng ống NKQ. Kích thích vùng vẫy là yếu
tố gây tăng huyết áp lúc rút, rất có hại ở những
bệnh nhân có bệnh tim mạch kèm theo.
Ho sau gây mê và phẫu thuật
Khi so sánh giữa MNTQ cổ điển và NKQ,
Maltby(7) thấy tỷ lệ ho giữa các nhóm MNTQ là
8/49 (16,32%), nhóm NKQ là 38/48 (79,16%). Như
vậy tỷ lệ ho bao giờ cũng gặp nhiều ở những
bệnh nhân có đặt NKQ bởi vì nó kích thích trực
tiếp lên các thụ thể tại chỗ của đường hô hấp.
Trong nghiên cứu của chúng tôi chỉ có 4/36
(11,1%) trường hợp bị ho sau rút MNTQ.
Đau họng và khàn tiếng
Biến chứng gây đau họng của MNTQ trong
nghiên cứu của chúng tôi là 5/36 (13,8%)
trường hợp. Đa số bệnh nhân đau họng mức độ
vừa và nhẹ, hết đau sau 24 giờ. Theo nghiên
cứu của Radu.A.D(13), tỷ lệ đau họng trong
nhóm NKQ cao hơn nhóm MNTQ một cách có
ý nghĩa 6 giờ sau mổ (74% so với 27%, P =
0,0003) và 24 giờ sau mổ (27% so với 0%, P =
0,004), tỷ lệ khàn tiếng ở nhóm NKQ cũng cao
hơn nhóm MNTQ vào thời điểm 6 giờ sau mổ
(40% so với 15%) nhưng không quá 24 giờ.

Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2012



Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Trong nghiên cứu của chúng tôi nhóm đặt
MNTQ không có trường hợp nào khàn tiếng.

Khảo sát mức độ hài lòng của bệnh nhân
Phương pháp vô cảm thông dụng hiện nay
để tiến hành phẫu thuật trên bệnh nhân vô
sinh nam là gây tê tủy sống. Ngoài những
phiền nạn và tai biến của bản thân phương
pháp gây tê tủy sống vẫn thường gặp như đau
lưng, nhức đầu, bí tiểu… (tương ứng 16,67%,
9,26%, 14,81%..., trong nghiên cứu này), vẫn
chấp nhận được vì hầu hết các rối loạn đều
thoáng qua, không làm kéo dài thời gian nằm
viện cũng như chăm sóc đặc biệt. Tuy nhiên,
một vấn đề chúng ta thường ít quan tâm là tâm
lý bệnh nhân vô sinh nam trên bàn mổ, đôi lúc
để lại hậu quả tâm lý rất lớn. Đó cũng là lý do
chúng tôi chọn phương pháp gây mê để thay
cho phương pháp gây tê tủy sống như hiện
nay.
Điều khác biệt cơ bản đối với gây mê và gây
tê là vấn đề tri giác: gây tê chỉ làm giảm hay mất
cảm giác, trong khi phẫu thuật bệnh nhân vẫn
còn tỉnh táo, nghe thấy, cảm nhận được những
vấn đề xảy ra chung quanh đối với họ và để lại ấn
tượng vô cùng sâu đậm ăn sâu vào tiềm thức,
không thể nào quên được một cách dễ dàng. Trái
lại gây mê, vô cảm toàn thể, ngoài làm giảm hay
mất cảm giác, phương pháp này còn làm mất ý

thức, bệnh nhân không còn biết đến những vấn
đề xảy ra chung quanh họ, ngay cả cảm giác đau
đớn nếu chẳng may còn sót lại, bệnh nhân cũng
không còn nhớ lại được gì cả bởi vì ngày nay, với
những thuốc an thần nhóm Benzodizepine, đặc
biệt thuốc Midazolam có tác dụng giúp bệnh
nhân không nhớ được những gì xảy ra trong lúc
gây mê – phẫu thuật. Vấn đề này đặc biệt quan
trọng, bởi vì bệnh lý gây ra vô sinh ở người nam
là vấn đề rất nhạy cảm, thêm vào đó trong lúc
phẫu thuật thường bàn luận, những điều này
càng làm tổn thương cho bệnh nhân.
Vì những lý do đã được đề cập trên, chúng tôi
nhận thấy gây mê toàn thể với mặt nạ thanh
quản là phương pháp vô cảm thích hợp nhất cho
phẫu thuật điều trị vô sinh nam.

Nghiên cứu Y học

KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu 72 trường hợp được phẫu
thuật điều trị vô sinh nam với phương pháp vô
cảm: gây mê toàn diện với mặt nạ thanh quản
hay gây tê tủy sống với Bupivacaine tăng trọng,
chúng tôi rút ra một số kết luận:
Phương pháp gây mê toàn diện với thông
khí bằng mặt nạ thanh quản là một phương
pháp đơn giản, an toàn, ít ảnh hưởng huyết
động khi đặt và rút.
Kiểm soát tốt thông khí trong gây mê và

phẫu thuật, duy trì tốt SpO2 và ETCO2.
MNTQ duy trì áp lực thông khí nằm trong
giới hạn cho phép, không có trường hợp nào xảy
ra trào ngược và hít sặc dịch vị.
Sử dụng mặt nạ thanh quản trong gây mê phẫu thuật để điều trị vô sinh nam đặc biệt thích
hợp vì người bệnh hoàn toàn không biết, không
nhớ gì trong lúc mổ, mà thường những người
trong phòng mổ hay bàn luận về bệnh lý của họ,
một vấn đề rất nhạy cảm thường để lại ấn tượng
thường làm thương tổn về tâm tư, tình cảm của
người bệnh.
Qua khảo sát đa số bệnh nhân rất hài lòng
với phương pháp gây mê toàn diện sử dụng mặt
nạ thanh quản trong gây mê – phẫu thuật để điều
trị vô sinh nam.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

2.
3.

4.

5.

6.

Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2012


Brain A.I.J, Verghese C, Strube P J (2000). The LMA ProSeal – a
laryngeal mask with an oesophageal vent. B J Anaesth, 84: 650654.
Brain AIJ, Verghese C (2002). Mode d’emploi LMA-ProSeal. The
laryngeal mask company limited: 1 - 29.
Brimacombe J and Keller C (1999). Laryngeal mask airway size
selection in males and in females: ease of insertion, orophryngeal
leak pressure, pharyngeal mucosal pressure and anatomical
position. British Journal of Anesthesia; 82: 703 - 707.
Đỗ Thanh Huy, Nguyễn Văn Chừng (2010). Nghiên cứu sử dụng
mặt nạ thanh quản Proseal với thuốc mê tĩnh mạch Propofol khởi
mê trong gây mê phẫu thuật trong ngày. Tạp chí Y Học Thành
Phố Hồ Chí Minh, tập 14 (1): 217 - 222.
Han Th, Brimacombe J and al (2001). The laryngeal mask airway
is effective and probably safe in selected healthy parturients for
elective cesarean section: A prospective study of 1067 cases.
Canada Journal of Anesthesia; 48 (11): 1117 - 1121.
Kihara, Brimacombe J, et al (2003). Sex-Based Proseal Laryngeal
Mask Airway size selection: A randomised crossover study of
health, anesthetised, paralysed male and female adult patients.
Anesth Analg, 97: 340 - 343.

389


Nghiên cứu Y học
7.

8.

9.


10.

11.

390

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012

Maltby R.J and al (2003). LMA-classic and LMA-ProSeal are
effective alternatives to endotracheal intubation for
gynenecologic laparoscopy. Canadian Journal of Anesthesia;
50(1): 71-77.
Maltby R.J, Beriault M.T (2002). The laryngeal mask airwayProseal is an effective alternative to tracheal intubation for
laparoscopic cholecystectomy. Canadian Journal of Anesthesia;
49 (8): 857 - 862.
Montazari K, Naghibi Kh and Hashemi Sj (2004). Comparison of
hemodynamic changes after Insertion of Laryngeal Mask
Airway, Facemask and endotracheal intubation. Acta Medica
Iranica; 42 (6): 437 - 440.
Nguyễn Văn Chừng, Lê Hữu Bình, Trần Đỗ Anh Vũ, Nguyễn
Văn Chinh (2010). Nghiên cứu sử dụng mặt nạ thanh quản
Proseal trong gây mê phẫu thuật nội soi cắt ruột thừa. Tạp chí Y
Học Thành Phố Hồ Chí Minh, tập 14 (1): 290 - 297.
Ocker H, Wenzel V and al (2002). A comparison of laryngeal
tube with the laryngeal mask airway during routine surgical

12.

13.


14.

15.

procedures. Anesth Analg; 95: 1094 - 1097.
Oczenski W, Krenn H, Dahaba AA, Binder M, El-SchahawiKienzl I, Jellinek H, Schwarz S, Fitzgerald RD. (1999).
Hemodynamic and Catecholamine stress responses to insertion
of the Combitube, Laryngeal Mask Airway or Tracheal
Intubation. Anesth Analg; 88: 1389 - 1394.
Radu A.D, Miled F, Marret E, Vigneau A, Bonnet F (2008).
Pharyngo-laryngeal discomfort after breast surgery: Comparison
between orotracheal intubation and laryngeal mask. The Breast,
17 (6): 407 - 411.
Shiji T, Taro M, Masayuki M, Hidenori T (2002). Hemodynamic
responses to tracheal intubation with laryngoscopy versus
lightwand intubating device in adults with normal airway.
Anesth Analg; 95: 480 - 484.
Singh S and Smith J.E (2003). Cardiovascular changes after the
three stages of nasotracheal intubation. B J Anaesthesia; 91 (5):
667 - 671.

Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2012



×