Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

PHƯƠNG PHÁP ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG TÀI SẢN LƯU ĐỘNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (209.54 KB, 31 trang )

PHƯƠNG PHÁP ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG TÀI SẢN LƯU
ĐỘNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP
*********
1. Khái niệm và kết cấu tài sản lưu động của doanh nghiệp:
1.1. Tổng quan về doanh nghiệp:
Doanh nghiệp là chủ thể kinh tế độc lập, có tư cách pháp nhân, hoạt động
kinh doanh trên thị trường nhằm làm tăng giá trị của chủ sở hữu. Theo Luật
doanh nghiệp của Việt Nam thì doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế có tên riêng,
có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định
của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh, tức là thực
hiện một, một số hay tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư từ sản xuất đến
tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng các dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh
lợi.
Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp bao gồm các chủ thể
kinh doanh sau: kinh doanh cá thể, kinh doanh góp vốn, công ty. Các doanh
nghiệp ở Việt Nam bao gồm: Doanh nghiệp Nhà nước, công ty cổ phần, công ty
trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh, công ty liên doanh, doanh nghiệp tư
nhân.
Các doanh nghiệp khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh đều hướng
tới mục tiêu là tối đa hoá giá trị tài sản của chủ sở hữu. Tuy nhiên để đạt được
mục đích này thì không phải là dễ, đặc biệt là trong nền kinh tế thị trường hiện
nay. Mỗi doanh nghiệp đều phải chịu sự tác động của hàng loạt các yếu tố như:
sự phát triển của công nghệ tạo ra các phương thức sản xuất, phương thức quản
lý mới; chịu sự ràng buộc của hệ thống pháp luật bao gồm luật, các văn bản quy
phạm pháp luật, cơ chế quản lý tài chính để đảm bảo sự quản lý của Nhà nước
đối với các doanh nghiệp; chịu sức ép của thị trường cạnh tranh. Quá trình hoạt
động cũng như phương thức quản lý của mỗi doanh nghiệp khác nhau là khác
nhau. Vì vậy mỗi doanh nghiệp phải tự điều chỉnh hướng đi của riêng mình, đặc
biệt muốn phát triển bền vững, các doanh nghiệp phải làm chủ và dự đoán trước
được sự thay đổi của môi trường để sẵn sàng thích nghi với nó. Có như vậy thì
mới có thể ra được những quyết định quản lý đúng đắn, kịp thời và đạt được


mục tiêu của doanh nghiệp mình.
Điều quan trọng trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của mỗi
doanh nghiệp là hoạt động quản lý tài chính. Tài chính doanh nghiệp được hiểu
là những quan hệ giá trị giữa doanh nghiệp với các chủ thể trong nền kinh tế bao
gồm quan hệ giữa doanh nghiệp với Nhà nước, với thị trường tài chính và các
thị trường khác, quan hệ trong nội bộ doanh nghiệp. Một trong những nội dung
quan trọng của quản lý tài chính là các doanh nghiệp phải biết xác định một cơ
cấu vốn và tài sản một cách phù hợp, từ đó có thể tiếp tục hoạt động để sử dụng
tài sản của mình nhằm bảo toàn và phát triển vốn của doanh nghiệp một cách
hiệu quả nhất trên cơ sở phân tích về doanh thu và chi phí. Quản lý tài chính tốt
sẽ giúp cho doanh nghiệp có thể đứng vững trên thị trường và đem lại lợi nhuận
cao cho doanh nghiệp và lợi ích cho toàn bộ nền kinh tế.
1.2. Khái niệm TSLĐ và sự cần thiết phải quản lý TSLĐ:
Bất cứ một doanh nghiệp nào khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh
đều cần phải trả lời ba câu hỏi: sản xuất cái gì, sản xuất cho ai và sản xuất như
thế nào. Trong nền kinh tế thị trường, dưới áp lực của sự cạnh tranh gay gắt,
cùng với sự tham gia của nhiều loại hình doanh nghiệp, nhiều thành phần kinh
tế, các doanh nghiệp đều nhằm tìm ra lời giải đáp trên với mục đích thu được lợi
ích tối đa. Để làm được điều này trước hết doanh nghiệp phải có vốn. Nó là yếu
tố không thể thiếu được của mọi quá trình sản xuất kinh doanh.
Vốn là biểu hiện bằng tiền, là giá trị của tài sản mà doanh nghiệp đang nắm
giữ. Tài sản và vốn là hai mặt hiện vật và giá trị của một bộ phận nguồn lực sản
xuất mà doanh nghiệp huy động vào quá trình sản xuất kinh doanh. Do vậy quản
lý vốn và tài sản trở thành một trong những nội dung quan trọng của quản trị tài
chính. Mục tiêu quan trọng nhất của quản lý vốn và tài sản là đảm bảo cho quá
trình sản xuất kinh doanh tiến hành bình thường với hiệu quả kinh tế cao nhất. Tài
sản trong doanh nghiệp bao gồm tài sản cố định và tài sản lưu động, trong đó giá
trị các tài sản lưu động của các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh thường chiếm
một tỷ trọng lớn trong tổng giá trị tài sản của chúng.
Đối với tài sản lưu động chúng ta có thể hiểu đó là những tài sản sử dụng cho

quá trình sản xuất kinh doanh tại doanh nghiệp, có thời gian sử dụng, luân chuyển,
thu hồi trong một năm hoặc một chu kỳ kinh doanh. Tài sản lưu động liên tục vận
động, chu chuyển trong chu kỳ kinh doanh nên nó tồn tại ở tất cả các khâu, các lĩnh
vực trong quá trình tái sản xuất của một doanh nghiệp. Quản lý và sử dụng hợp lý các
loại tài sản lưu động (TSLĐ) có ảnh hưởng rất quan trọng đối với việc hoàn thành
nhiệm vụ chung của doanh nghiệp đó.
Các doanh nghiệp cần phải quản lý tốt và có hiệu quả TSLĐ vì:
- TSLĐ có thời gian luân chuyển ngắn, thường xuyên biến đổi, nhạy cảm với
những biến đổi của thị trường, của doanh nghiệp.
- Hiệu quả sử dụng TSLĐ có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp. Quản lý tốt TSLĐ sẽ góp phần giảm chi phí giá thành sản
phẩm và tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường.
- Xác định nhu cầu tài sản lưu động hợp lý trong mối tương quan với nhu cầu
tài sản cố định, từ đó tránh được tình trạng dư thừa hay thiếu hụt TSLĐ; sử dụng
TSLĐ một cách hợp lý, tiết kiệm đáp ứng yêu cầu sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp được bình thường và liên tục.
- Việc quản lý TSLĐ giúp doanh nghiệp nắm bắt được tình hình về việc sử
dụng TSLĐ tại doanh nghiệp, từ đó dự báo và đề ra các kế hoạch về TSLĐ cũng
như việc xác định nguồn tài trợ hợp lý cho TSLĐ của doanh nghiệp trong kỳ kinh
doanh.
1.3. Kết cấu tài sản lưu động:
 Theo lĩnh vực tham gia luân chuyển:
- TSLĐ sản xuất: gồm tài sản dự trữ cho quá trình sản xuất (nguyên, nhiên vật
liệu, công cụ, dụng cụ,…đang dự trữ trong kho) và tài sản trong sản xuất (giá trị
sản phẩm dở dang).
- TSLĐ lưu thông: gồm tài sản dự trữ cho quá trình lưu thông (thành phẩm,
hàng hóa dự trữ trong kho hay đang gửi bán) và tài sản trong quá trình lưu thông
(tiền, các khoản phải thu).
- TSLĐ tài chính: là các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn với các mục đích
kiếm lời (đầu tư liên doanh, đầu tư chứng khoán,…).

 Theo các khoản mục trên bảng cân đối kế toán:
- Ngân quỹ: bao gồm tiền mặt tại két, tiền gửi ngân hàng, tiền đang chuyển.
- Đầu tư ngắn hạn: đầu tư chứng khoán ngắn hạn và đầu tư ngắn hạn khác.
- Các khoản phải thu: phải thu của khách hàng, phải thu nội bộ, phải thu khác,
thuế giá trị gia tăng được khấu trừ, tạm ứng, chi phí trả trước.
- Dự trữ, tồn kho: gồm nguyên, nhiên vật liệu, công cụ, dụng cụ phục vụ cho
quá trình sản xuất kinh doanh; sản phẩm dở dang và thành phẩm.
- TSLĐ khác: bao gồm các khoản tạm ứng chưa thanh toán, chi phí trả trước,
chi phí chờ kết chuyển, tài sản thiếu chờ xử lý và các khoản thế chấp, ký cược, ký
quỹ ngắn hạn.
Trong phạm vi nghiên cứu của chuyên đề này tập trung vào ngân quỹ, các
khoản phải thu và hàng tồn kho, dự trữ.
1.4. Vai trò của TSLĐ đối với hoạt động sản xuất kinh doanh:
TSLĐ là điều kiện vật chất không thể thiếu được của quá trình sản xuất.
Trong cùng một lúc, TSLĐ của doanh nghiệp được phân bổ trên khắp các giai
đoạn luân chuyển. Muốn cho quá trình tái sản xuất được liên tục doanh nghiệp
cần phải đảm bảo đủ về nhu cầu TSLĐ. Nếu không quá trình sản xuất sẽ bị gián
đoạn, gặp nhiều trở ngại, tăng chi phí hoạt động và dẫn tới kết quả kinh doanh
không tối ưu.
Trong quá trình theo dõi sự vận động của TSLĐ, doanh nghiệp quản lý gần
như được toàn bộ các hoạt động diễn ra trong chu kỳ sản xuất kinh doanh. Vì
vậy mà TSLĐ có ảnh hưởng lớn đến việc thiết lập chiến lược sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp.
Quy mô TSLĐ có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất. Với một quy
mô TSLĐ hợp lý sẽ giúp cho doanh nghiệp giảm được chi phí, tăng hiệu quả
hoạt động, từ đó tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường.
Ngoài ra cơ cấu TSLĐ còn thể hiện phần nào tình hình tài chính hiện tại
của doanh nghiệp. Cụ thể: khả năng sinh lời của các khoản đầu tư ngắn hạn, tính
an toàn cao hay thấp của các khoản phải thu, mức độ phụ thuộc của doanh
nghiệp đối với sự biến động của thị trường (nguyên, nhiên vật liệu, hàng hoá,

…).
1.5. Nguồn tài trợ TSLĐ của doanh nghiệp:
Để tài trợ cho TSLĐ người ta có thể sử dụng nhiều nguồn khác nhau. Điều
quan trọng là xác định hợp lý từng nguồn để có thể kiểm soát và sử dụng một
cách có hiệu quả. Sự hiệu quả được thể hiện ở việc giảm chi phí tài trợ, tạo sự
phù hợp giữa chu kỳ của TSLĐ và kỳ hạn nguồn tài trợ. Có hai nguồn tài trợ
chính cho TSLĐ của một doanh nghiệp là:
Nguồn tài trợ ngắn hạn: bao gồm vay ngắn hạn ngân hàng, tạo vốn bằng
cách bán nợ, chiết khấu thương phiếu và các khoản vốn chiếm dụng của các đối
tượng khác như các khoản thuế phải nộp nhưng chưa nộp, các khoản phải trả cán
bộ công nhân viên nhưng chưa đến hạn trả, các khoản đặt cọc của khách hàng,
mua chịu hàng hoá.
Nguồn tài trợ dài hạn: bao gồm nguồn vốn chủ sở hữu (vốn góp ban đầu,
vốn huy động thêm bằng cách phát hành thêm cổ phiếu, lợi nhuận giữ lại) và
vay dài hạn.
Mỗi nguồn tài trợ trên đều có ưu điểm và nhược điểm riêng. Nếu sử dụng
toàn bộ là nguồn tài trợ dài hạn thì doanh nghiệp sẽ ít phải chịu rủi ro về khả
năng thanh toán, không phải chịu rủi ro về lãi suất huy động. Tuy nhiên huy
động nguồn tài trợ dài hạn doanh nghiệp phải chịu phí tổn cao vì chi phí huy
động của nguồn dài hạn thường cao hơn nguồn ngắn hạn và có thể dẫn tới hiện
tượng lãng phí vốn khi chưa tài trợ cho nhu cầu TSLĐ mới.
Ngược lại nếu sử dụng nguồn ngắn hạn để tài trợ cho TSLĐ thì chi phí huy
động thấp hơn và tránh được những lãng phí khi không có nhu cầu mới. Nhưng sử
dụng nguồn này doanh nghiệp lại phải đối mặt với những rủi ro về thanh khoản, rủi
ro biến động lãi suất. Do vậy các doanh nghiệp thường sử dụng kết hợp cả hai
nguồn trên để tài trợ cho nhu cầu TSLĐ. Tuy nhiên cũng cần thấy rằng thông
thường các doanh nghiệp không chọn duy nhất một mô hình nào mà tuỳ từng thời
kỳ doanh nghiệp sẽ có sự lựa chọn phù hợp.
2. Phương pháp đánh giá và các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng TSLĐ:
2.1. Hiệu quả sử dụng TSLĐ:

Hiệu quả sử dụng TSLĐ là một phạm trù kinh tế phản ánh tình hình sử dụng
TSLĐ của doanh nghiệp để đạt được hiệu quả cao nhất trong kinh doanh với tổng
chi phí thấp nhất. Hiệu quả TSLĐ được biểu hiện tập trung ở các mặt sau:
Khả năng sử dụng tiết kiệm, hợp lý TSLĐ của doanh nghiệp càng cao và càng
tăng so với mức sử dụng chung của ngành và so với kỳ trước đó. Việc sử dụng tiết
kiệm TSLĐ chỉ là một chỉ tiêu cần được xem xét khi tính hiệu quả sử dụng TSLĐ.
Bởi nó giúp doanh nghiệp giảm chi phí, không phải tài trợ thêm cho TSLĐ khi mở
rộng quy mô, từ đó tăng lợi nhuận và đáp ứng đầy đủ, thuận lợi cho quá trình sản
xuất kinh doanh.
Tốc độ luân chuyển cao của TSLĐ trong quá trình sản xuất. Đây cũng là
biểu hiện của hiệu quả sử dụng TSLĐ vì khi TSLĐ có tốc độ luân chuyển cao thì
khả năng thu hồi vốn cao và nhanh, tiếp tục tái đầu tư cho kỳ sản xuất tiếp theo,
chớp được cơ hội kinh doanh và tăng khả năng cạnh tranh.
Mặt biểu hiện nữa là khả năng sinh lời và khả năng sản xuất của TSLĐ phải
cao, không ngừng tăng so với ngành và giữa các thời kỳ. Điều này có nghĩa là một
đồng giá trị TSLĐ phải đem lại một khoản doanh thu cao (thể hiện khả năng sản
xuất) và một khoản lợi nhuận cao (thể hiện khả năng sinh lời).
Ngoài ra hiệu quả sử dụng TSLĐ của doanh nghiệp còn là việc doanh
nghiệp có một kết cấu tài sản hợp lý cùng với một kết cấu tối ưu của TSLĐ.
2.2 . Phương pháp đánh giá:
.2.1. Phương pháp so sánh:
Ngoài việc quan sát, thu thập, thống kê số liệu, tài liệu liên quan thì để
phân tích và đánh giá được hiệu quả sử dụng TSLĐ có nhiều phương pháp trong
đó có thể sử dụng hai phương pháp là phương pháp so sánh và phương pháp tỷ
số.
Phương pháp so sánh là phương pháp được sử dụng phổ biến trong phân tích
hoạt động kinh doanh. Khi sử dụng phương pháp này thì chúng ta phải lựa chọn
tiêu chuẩn để so sánh. Tiêu chuẩn so sánh là chỉ tiêu của một kỳ được lựa chọn làm
căn cứ để so sánh, được gọi là gốc so sánh. Tuỳ theo mục đích của nghiên cứu mà
lựa chọn gốc so sánh thích hợp. Các gốc so sánh có thể là:

- Tài liệu của năm trước (kỳ trước) nhằm đánh giá xu hướng phát triển của
các chỉ tiêu.
- Các mục tiêu đã dự kiến (kế hoạch, dự toán, định mức) nhằm đánh giá tình
hình thực hiện so với kế hoạch, dự toán, định mức.
- Các chỉ tiêu trung bình ngành, khu vực kinh doanh, nhu cầu đơn đặt hàng,…nhằm
khẳng định vị trí của doanh nghiệp và khả năng đáp ứng nhu cầu,…
Các chỉ tiêu của kỳ được so sánh với kỳ gốc lựa chọn được gọi là chỉ tiêu kỳ
thực hiện và là kết quả mà doanh nghiệp đã đạt được.
Để phép so sánh có ý nghĩa thì điều kiện tiên quyết là các chỉ tiêu được sử
dụng phải đồng nhất. Trong thực tế thường điều kiện có thể so sánh được giữa các
chỉ tiêu kinh tế cần được quan tâm cả về mặt thời gian và không gian. Về mặt thời
gian thì các chỉ tiêu được tính trong cùng một khoảng thời gian hạch toán phải
thống nhất trên ba mặt: phải cùng phản ánh nội dung kinh tế, phải cùng một
phương pháp tính toán và phải cùng một đơn vị đo lường. Về mặt không gian thì
các chỉ tiêu cần phải được quy đổi về cùng quy mô và điều kiện kinh doanh tương
tự nhau.
Thông thường, người ta sử dụng các kỹ thuật so sánh sau:
- So sánh bằng số tuyệt đối: là kết quả của phép trừ giữa trị số của kỳ phân
tích so với kỳ gốc của các chỉ tiêu kinh tế, kết quả so sánh biểu hiện khối lượng
quy mô của các hiện tượng kinh tế.
- So sánh bằng số tuyệt đối: là kết quả của phép chia giữa trị số của kỳ phân tích
so với kỳ gốc của các chỉ tiêu kinh tế, kết quả so sánh biểu hiện kết cấu, mối quan hệ,
tốc độ phát triển, mức phổ biến của các hiện tượng kinh tế.
- So sánh bằng số bình quân: số bình quân là dạng đặc biệt của số tuyệt đối,
biểu hiện của tính chất đặc trưng chung về mặt số lượng, nhằm phản ánh đặc điểm
chung của một đơn vị, một bộ phận hay một tổng thể chung có cùng một tính chất.
Tuỳ theo mục đích và yêu cầu của phân tích, tính chất và nội dung của các chỉ tiêu
kinh tế mà người ta sử dụng kỹ thuật so sánh thích hợp.
Quá trình phân tích theo kỹ thuật của phương pháp so sánh có thể thực hiện
theo ba hình thức:

- So sánh theo chiều dọc: là quá trình so sánh nhằm xác định tỷ lệ quan hệ
tương quan giữa các giữa các chỉ tiêu từng kỳ của các báo cáo kế toán tài chính, nó
còn được gọi là phân tích theo chiều dọc.
- So sánh theo chiều ngang: là quá trình so sánh nhằm xác định các tỷ lệ và
chiều hướng biến động giữa các kỳ trên báo cáo kế toán tài chính.
- So sánh xác định xu hướng và tính liên hệ của các chỉ tiêu: các chỉ tiêu riêng
biệt hay các chỉ tiêu tổng cộng trên báo cáo được xem xét trong mối quan hệ với
các chỉ tiêu phản ánh quy mô chung và chúng có thể được xem xét nhiều kỳ để cho
ta thấy rõ hơn xu hướng phát triển của các hiện tượng nghiên cứu.
Các hình thức sử dụng kỹ thuật so sánh trên thường được phân tích trong các
báo cáo kế toán tài chính, nhất là bảng báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, bảng
cân đối kế toán và bảng lưu chuyển tiền tệ là các báo cáo tài chính định kỳ quan
trọng của doanh nghiệp.
Trong chuyên đề này, việc sử dụng phương pháp so sánh để nghiên cứu
được áp dụng cả sử dụng cả so sánh bằng số tuyệt đối, tương đối với số liệu
được thu thập trong ba năm 2000, 2001, 2002; hình thức so sánh là so sánh
theo chiều ngang, so sánh kết quả năm sau so với năm trước để thấy được tình
hình hoạt động của doanh nghiệp cũng như xu hướng phát triển của nó và so
sánh theo chiều dọc để thấy được tỷ trọng, kết cấu của các thành phần trong
TSLĐ.
2.2.2. Phương pháp tỷ số:
Phương pháp tỷ số là phương pháp trong đó các tỷ số được sử dụng để
phân tích. Đó là các tỷ số đơn được thiết lập bởi chỉ tiêu này so với chỉ tiêu
khác. Đây là phương pháp có tính hiện thực cao với các điều kiện áp dụng ngày
càng được bổ sung và hoàn thiện do nguồn thông tin kế toán - tài chính được cải
tiến và được cung cấp đầy đủ hơn làm cơ sở để hình thành những tỷ lệ tham
chiếu tin cậy cho việc đánh giá một tỷ số của một doanh nghiệp hay một nhóm
doanh nghiệp; việc áp dụng công nghệ tin học ngày càng rộng rãi với nhiều chức
năng và công dụng mới cho phép tích luỹ dữ liệu và thúc đẩy nhanh quá trình
tính toán hàng loạt các tỷ số; đồng thời phương pháp này giúp nhà phân tích

khai thác có hiệu quả những số liệu và phân tích một cách hệ thống hàng loạt tỷ
số theo chuỗi thời gian liên tục theo từng giai đoạn.
Để đánh giá hiệu quả sử dụng TSLĐ, người ta sử dụng các tỷ số sau:
- Vòng quay TSLĐ:
Vòng quay TSLĐ

=

Doanh thu
TSLĐ bình quân
Chỉ tiêu này cho biết TSLĐ luân chuyển được mấy vòng trong kỳ. Nếu số
vòng quay tăng chứng TSLĐ luân chuyển với tốc độ cao, một điều rất có lợi cho
hoạt động sản xuất kinh doanh. Như vậy vòng quay TSLĐ càng tăng thì hiệu
quả sử dụng TSLĐ càng tăng và ngược lại.
- Kỳ luân chuyển TSLĐ: là số ngày bình quân cần thiết để TSLĐ thực hiện
một vòng quay trong kỳ.
Kỳ luân chuyển TSLĐ

=

Thời gian của kỳ phân tích
Số vòng quay của TSLĐ trong kỳ
Với thời gian của kỳ phân tích được quy ước là 1 năm tương ứng với 360
ngày; 1 quý tương ứng với 90 ngày; 1 tháng tương ứng với 30 ngày. Thời gian
của một vòng luân chuyển càng nhỏ thì tốc độ luân chuyển càng lớn, hiệu quả sử
dụng TSLĐ càng cao. Chỉ tiêu này phản ánh sự phát triển của trình độ kinh
doanh, công tác quản lý và tình hình tài chính của doanh nghiệp.
- Khả năng sinh lời TSLĐ:

Khả năng sinh lời



=

LNST
TSLĐ

TSLĐ sử dụng bình quân trong kỳ
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lợi của TSLĐ. Nó cho biết mỗi đơn vị
TSLĐ có trong kỳ đem lại bao nhiêu đơn vị lợi nhuận sau thuế.
- Tỷ số khả năng thanh toán hiện hành:

Khả năng thanh toán


=

TSLĐ
hiện hành Nợ ngắn hạn
TSLĐ ở đây thông thường bao gồm tiền, các chứng khoán ngắn hạn dễ
chuyển nhượng (tương đương tiền), các khoản phải thu và dự trữ (tồn kho); còn
nợ ngắn hạn thường bao gồm các khoản vay ngắn hạn ngân hàng thương mại và
các tổ chức tín dụng khác, các khoản phải trả nhà cung cấp, các khoản phải trả,
phải nộp khác,… Cả TSLĐ và nợ ngắn hạn đều có thời gian nhất định, tới một
năm. Tỷ số này là thước đo khả năng thanh toán ngắn hạn của doanh nghiệp, nó
cho biết mức độ các khoản nợ của các chủ nợ ngắn hạn được trang trải bằng các
tài sản có thể chuyển thành tiền trong một giai đoạn tương đương với thời hạn
của khoản nợ đó.
- Tỷ số khả năng thanh toán nhanh:


Khả năng thanh toán


=

TSLĐ - dự trữ
nhanh Nợ ngắn hạn
Đây là tỷ số giữa các tài sản quay vòng nhanh với nợ ngắn hạn. Tài sản quay
vòng nhanh là những tài sản có thể nhanh chóng chuyển đổi thành tiền bao gồm tiền,
chứng khoán ngắn hạn và các khoản phải thu. Tài sản dự trữ (tồn kho) là các tài sản
khó chuyển thành tiền hơn trong tổng TSLĐ và dễ bị lỗ nhất nếu được bán. Do vậy tỷ
số khả năng thanh toán nhanh cho biết khả năng hoàn trả các khoản nợ ngắn hạn
không phụ thuộc vào việc bán tài sản dự trữ (tồn kho).
- Vòng quay tiền:
Vòng quay tiền


=

Doanh thu
Tiền + chứng khoán dễ chuyển nhượng
Tỷ số này được xác định bằng cách chia doanh thu trong năm cho tổng số
tiền và các loại tài sản tương đương tiền bình quân (chứng khoán ngắn hạn dễ
chuyển nhượng). Tỷ số này cho biết số vòng quay của tiền trong một năm. Nếu tỷ
số này càng lớn chứng tỏ trong một năm TSLĐ của doanh nghiệp quay được
nhiều vòng hơn và doanh nghiệp sử dụng TSLĐ có hiệu quả hơn.
- Thời gian vòng quay tiền:

Thời
gian vòng



=

Số ngày trong kỳ
quay tiền Số vòng quay tiền

×