Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Đặc điểm lâm sàng và điện sinh lý của hội chứng ống cổ tay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (405.34 KB, 5 trang )

Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013

ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ ĐIỆN SINH LÝ  
CỦA HỘI CHỨNG ỐNG CỔ TAY 
Phan Xuân Nam*, Nguyễn Thị Phương Nga* 

TÓM TẮT 
Mục tiêu: khảo sát đặc điểm lâm sàng và điện sinh lý của hội chứng ống cổ tay. 
Phương pháp nghiên cứu: cắt ngang mô tả. 67 bệnh nhân được chẩn đoán xác định hội chứng ống cổ tay 
được đưa vào nghiên cứu. 
Kết quả: Hội chứng ống cổ tay thường gặp ở tuổi trung niên, nữ mắc bệnh nhiều hơn nam, và thường bị cả 
hai bàn tay. Các triệu chứng lâm sàng thường gặp nhất là rối loạn cảm giác bao gồm tê (100%), tê ban đêm 
(94,0%), tê khi chạy xe (76,1%), đau bàn tay (70,1%). Hiệu số thời gian tiềm cảm giác của dây giữa so với dây 
trụ (dương tính 95,7%) và hiệu số thời gian tiềm vận động ngoại biên của dây giữa so với dây trụ (dương tính 
94,0%) là các thông số điện sinh lý nhạy cảm nhất. 
Kết luận: Dị cảm da theo vùng phân bố của thần kinh giữa là các triệu chứng nhạy cảm nhất giúp nghĩ đến 
hội chứng ống cổ tay. Việc khảo sát đầy đủ các thông số của chẩn đoán điện của thần kinh giữa và thần kinh trụ 
là cần thiết để có được chẩn đoán sớm. 
Từ khóa: hội chứng ống cổ tay, điện sinh lý 

ABSTRACT 
CLINICAL AND ELECTROPHYSIOLOGIC FEATURES OF CARPAL TUNNEL SYNDROME 
Phan Xuan Nam, Nguyen Thi Phuong Nga 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 3‐ 2013: 80 ‐ 84 
Objective: The aim of this study was to evaluate clinical and electrophysiologic features of carpal tunnel 
syndrome (CTS). 
Methods: 67 patients with a diagnosis of CTS were included in the study. All patients underwent clinical 
interview, physical examination and electrodiagnostic examination  to  determine  clinical  and  electrophysiologic 
features of CTS. 


Results: CTS was a condition of middle‐aged individuals, affects females more often than males. Both hands 
were usually involved (74.6% patients). The most common symptoms were sensory disorders in the distribution 
of median nerve distal to wrist such as paraesthesia (100%), noctural paraesthesia (94.0%), driving paraesthesia 
(76.1%), burning pain (70.1%). Two most sensitive electrodiagnostic parameters were the difference between the 
median and ulnar sensory  latencies  (95.7%)  and  the  difference  between  the  median  and  ulnar  motor  latencies 
(94.0%). 
Conclusion: CTS should be suspected in any patient with paraesthesia in the distribution of median nerve 
distal  to  wrist.  Nerve  conduction  studies  should  include  sufficient  measurements  of  median  and  ulnar 
conductions to get early diagnosis. 
Key words: carpal tunnel syndrome, electrophysiologic features 

* Bệnh viện Thống Nhất TP Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: BSCKII Nguyễn Thị Phương Nga, ĐT: 0908190633, Email:   

80

Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2013 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Hội  chứng  ống  cổ  tay  (Carpal  tunnel 
syndrome)  là  một  trong  những  bệnh  lý  thần 
kinh  do  chèn  ép  thường  gặp  nhất  ở  chi  trên, 
chiếm  90%  các  bệnh  thần  kinh  do  chèn  ép. 
Nguyên nhân là do dây thần kinh giữa bị chèn 
ép trong đường hầm (ống) cổ tay. Triệu chứng 
kinh điển gồm đau về đêm kèm tê vùng phân 
bố  của  thần  kinh  giữa  ở  bàn  tay.  Tiêu  chuẩn 
vàng để chẩn đoán là các khảo sát dẫn truyền 

thần kinh(2). 
Sự phát triển của kỹ thuật chẩn đoán điện 
sinh  lý  thần  kinh  cơ  (điện  cơ)  làm  cho  việc 
chẩn đoán dễ dàng và chính xác. Tuy nhiên, có 
rất ít nghiên cứu trong nước về hội chứng này 
về  đặc  điểm  lâm  sàng,  điện  sinh  lý.  Do  đó 
chúng tôi thực hiện nghiên cứu này nhằm các 
mục tiêu sau: 
1. Đặc điểm lâm sàng của hội chứng OCT. 
2. Đặc điểm điện sinh lý của hội chứng OCT. 

Nghiên cứu Y học

BV  Thống  Nhất  từ  tháng  3/2012  đến  tháng 
9/2012. Tổng cộng 67 trường hợp. 

Thu thập dữ liệu 
Hội chứng ống cổ tay được chẩn đoán khi 
có ít nhất 1 triệu chứng lâm sàng kết hợp với 1 
triệu  chứng  điện  sinh  lý  bất  thường  theo  tiêu 
chuẩn của Hội điện cơ Hoa kỳ 1997 (American 
Association  of  Electrodiagnostic  Medicine). 
Các  thông  số  dẫn  truyền  thần  kinh  giữa  bất 
thường khi vượt quá ngưỡng 95% giá trị bình 
thường theo thống kê của tác giả Nguyễn Hữu 
Công 1997(10). 
Các biến số khác: tuổi, giới, triệu chứng lâm 
sàng, đặc điểm điện sinh lý, mức độ nặng (tiêu 
chuẩn của Hội điện cơ Hoa kỳ 1997)(9). 


Xử lý và phân tích dữ liệu 
Dữ liệu được xử lý và phân tích bằng phần 
mềm  SPSS  11.5.  Mức  p  có  ý  nghĩa  là  <  0,05. 
Khoảng  tin  cậy  95%  được  xem  là  có  ý  nghĩa 
thống kê khi không chứa 1. 

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 

KẾT QUẢ 

Đối tượng nghiên cứu 

Mẫu nghiên cứu gồm 67 bệnh nhân. Một số 
bệnh nhân có biểu hiện bệnh lý ở cả hai tay nên 
được khảo sát cả hai tay. Tổng cộng có 124 bàn 
tay  được  khảo  sát,  trong  đó  có  64  bàn  tay  phải 
và 60 bàn tay trái. Số bàn tay mắc hội chứng ống 
cổ tay là 117 bàn tay. 

Tiêu chuẩn chọn bệnh 
Các bệnh nhân được chẩn đoán xác định hội 
chứng ống cổ tay dựa vào lâm sàng và dấu hiệu 
điện sinh lý bất thường phù hợp. 
Tiêu chuẩn loại trừ 
Những bàn tay không khảo sát được đầy đủ 
các thông số cần thiết. 
Có tổn thương dây thần kinh giữa ngoài khu 
vực ống cổ tay. 
Có biểu hiện tổn thương dây thần kinh trụ. 
Có  tiền  căn  phẫu  thuật  điều  trị  hội  chứng 

ống cổ tay. 

Phương pháp nghiên cứu 
Thiết kế nghiên cứu 
Cắt ngang mô tả 
Mẫu 
Các  bệnh  nhân  được  chẩn  đoán  hội  chứng 
ống cổ tay tại phòng điện cơ khoa Nội thần kinh 

Tuổi  trung  bình  là  52.2  ±  12,2,  thấp  nhất  là 
23, cao nhất là 79. 
Nữ mắc bệnh nhiều hơn nam. Nữ chiếm tỷ 
lệ  79.1%  (53/67  bệnh  nhân),  nam  giới  20.9% 
(14/67 bệnh nhân). Tỉ lệ nữ/nam là 3.8/1. 
Các  triệu  chứng  lâm  sàng  thường  gặp  nhất 
là  rối  loạn  cảm  giác  bao  gồm  tê  (100%),  tê  ban 
đêm (94,0%), tê khi chạy xe (76,1%), đau bàn tay 
(70,1%) (bảng 1). 
Bảng 1. Đặc điểm lâm sàng của hội chứng ống cổ tay  
Triệu chứng lâm sàng

Tê ban đêm
Tê khi chạy xe
Đau bàn tay
Đau cổ tay

Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2013 

Tỷ lệ (n = 67)
67

63
51
47
03

Tỉ lệ %
100
94,0
76,1
70,1
4,5

81


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013

Nghiên cứu Y học 
Triệu chứng lâm sàng
Yếu cơ
Teo cơ mô cái
Dấu Tinel (+)
Dấu Phalen (+)

Tỷ lệ (n = 67)
01
04
12
12


Tỉ lệ %
1,5
6,0
17,9
17,9

Tỷ lệ bất thường điện sinh lý theo thứ tự là 
bất thường hiệu số thời gian tiềm cảm giác giữa‐
trụ  (95,7%),  bất  thường  hiệu  số  thời  gian  tiềm 
vận  động  giữa  2  dây  giữa‐trụ  (94,0%),  bất 
thường  thời  gian  tiềm  vận  động  ngoại  vi  dây 
giữa  (80,3%)  và  bất  thường  thời  gian  tiềm  cảm 
giác dây giữa (79,5%) (bảng 2). 
Trong 67 bệnh nhân, 74,6% bị hội chứng ống 
cổ  tay  hai  bên,  25,4%  bị  một  bên.  Trong  25,4% 
bệnh  nhân  bị  một  bên  thì  tỷ  lệ  bệnh  nhân  mắc 
bệnh  tay  phải  cao  hơn  tay  trái  (17,9%  so  với 
7,5%) (bảng 3). 
Trong  117  bàn  tay  mắc  bệnh  thì  tỷ  lệ  tổn 
thương  tay  phải  cao  hơn  tay  trái  (lần  lượt  là 
53,0%  và  47,0%)  (bảng  4)  và  tỷ  lệ  bàn  tay  mắc 
bệnh mức độ nặng khá cao (48,8%) (bảng 5). 
Bảng 2. Các bất thường điện sinh lý của hội chứng 
ống cổ tay  
Các bất thường điện sinh lý (n = 117)
Bất thường thời gian tiềm vận động
ngoại vi dây giữa (≥ 4,1 ms)*
Bất thường thời gian tiềm cảm giác dây
giữa (≥ 3,2 ms) g
Bất thường hiệu số thời gian tiềm vận

động giữa-trụ (≥ 1,20)
Bất thường hiệu số thời gian tiềm cảm
giác giữa-trụ (≥ 0,79)
Giảm biên độ hoặc mất sóng vận động
dây giữa
Giảm biên độ hoặc mất sóng cảm giác
dây giữa

Tần
suất

Tỉ lệ %

94

80,3

93

79,5

110

94,0

115

95,7

29


24,8

86

73,5

Các trường hợp mất sóng vận động dây giữa 
được tính là bất thường 
Các trường hợp mất sóng cảm giác dây giữa 
được tính là bất thường 
Bảng 3. Tỷ lệ bệnh nhân mắc bệnh một bên và hai 
bên  
Bệnh nhân
(n = 67)
Tần suất
Tỷ lệ %

82

Tay phải Tay trái
12
17,9

5
7,5

Hai bên
50
74,6


Tổng
cộng
67
100

Bảng 4. Tỷ lệ bàn tay mắc bệnh  
Bàn tay
(n = 117)
Tần suất
Tỷ lệ %

Tay phải

Tay trái

Tổng cộng

62
53,0

55
47,0

117
100

Bảng 5. Mức độ tổn thương  
Mức độ
(n = 117)


Nhẹ

Trung
bình

Nặng

Tổng
cộng

Tần suất

30

30

57

117

Tỷ lệ %

25,6

25,6

48,8

100


BÀN LUẬN 
Trong  nghiên  cứu  của  chúng  tôi,  tuổi  mắc 
bệnh  trung  bình  là  52.2  ±  12,2,  thấp  nhất  là  23, 
cao nhất là 79. Tuổi trung bình trong nghiên cứu 
của Phan Hồng Minh (2008) là 46(8); Nguyễn Lê 
Trung Hiếu (2002)  là  47,4(6);  Võ  Thị  Hiền  Hạnh 
(1997)  là  44(10);  Stevens  J.  C.  là  51  ở  nữ  và  50  ở 
nam. Như vậy, hội chứng ống cổ tay thường gặp 
ở tuổi trung niên. 
Nữ  mắc  bệnh  nhiều  hơn  nam  (nữ  79.1%, 
nam 20.9%). Kết quả này phù hợp với ghi nhận 
của  hầu  hết  các  nghiên  cứu  trước  đây  của  de 
Krom M. C. và cs (1992), Atroshi I. và cs (1999), 
Stevens J. C (1988)(7,), Phan Hồng Minh (2008)(8); 
Nguyễn Lê Trung Hiếu (2002)(6). 
Các  triệu  chứng  lâm  sàng  thường  gặp  nhất 
là rối loạn cảm giác, trong đó 2 triệu chứng có độ 
nhạy  cao  nhất  là  tê  (100%)  và  tê  ban  đêm 
(94,0%). Triệu chứng tê trong hội chứng ống cổ 
tay được định nghĩa là dị cảm (tê, đau rát, cảm 
giác  như  kim  châm)  ở  vùng  da  thuộc  chi  phối 
của dây thần kinh giữa gồm ngón 1, 2, 3 và nửa 
ngón 4 của bàn tay. Các triệu chứng cảm giác là 
các  triệu  chứng  nhạy  cảm  nhất  giúp  nghĩ  đến 
hội  chứng  ống  cổ  tay.  Triệu  chứng  tê  có  tỷ  lệ 
95,7%  theo  Kendall  W.  và  cs  (1988);  92,5%  theo 
Nora  D.  B.  (2004)(2,8).  Dị  cảm  bàn  tay  là  triệu 
chứng sớm và thường gặp nhất (tỷ lệ 72.7% ở độ 
1, gần 100% ở độ 2 và 3) theo Nguyễn Lê Trung 

Hiếu (2002)(6). Thức dậy ban đêm vì tê và đau là 
cũng  một  trong  những  dấu  hiệu  hay  gặp  nhất, 
chiếm  tỷ  lệ  94,0%  trong  nghiên  cứu  của  chúng 
tôi,  51%‐  77%  theo  Katz  J.  N.  và  cs  (2002)(4). 
Aroori S. và cs (2008) nhận thấy dị cảm về đêm 

Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2013 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 
có  độ  nhạy  cao  nhất  trong  các  triệu  chứng  lâm 
sàng (51% ‐ 91%)(2). Tê khi tỳ đè (ví dụ như khi 
chạy  xe  máy)  cũng  thường  gặp,  chiếm  76,1% 
trong  nghiên  cứu  của  chúng  tôi,  55,56%  trong 
nghiên cứu của Phan Hồng Minh (2008)(8). 
Yếu  cơ  và  teo  cơ  ô  mô  cái  ít  gặp  và  là  biểu 
hiện  muộn  khi  tổn  thương  dây  thần  kinh  giữa 
nhiều và lâu dài(2). Tỷ lệ yếu cơ và teo cơ mô cái 
của chúng tôi lần lượt là 1,5% và 6,0%; của Phan 
Hồng Minh là 3,70% và 1,85%(8). Nguyên nhân là 
do  sự  chèn  ép  ảnh  hưởng  trước  tiên  lên  bao 
myelin  sau  một  thời  gian  mới  ảnh  hưởng  đến 
sợi trục gây teo cơ. 
Chúng tôi chỉ đề cập hai nghiệm pháp kinh 
điển hỗ trợ chẩn đoán là Tinel và Phalen với tỷ 
lệ dương tính đều là 17.9%. Tỷ lệ dương tính của 
nghiệm  pháp  Tinel  và  Phalen  theo  Nguyễn  Lê 
Trung Hiếu (2002) lần lượt là 55,7% và 36,1%. Tỷ 
lệ  dương  tính  của  nghiệm  pháp  Tinel  theo 
Nguyễn  Hữu  Công  (1997)  là  34,8%(6,8,10).  Dấu 

Tinel  và  Phalen  có  nhiều  yếu  tố  ảnh  hưởng,  có 
độ  nhạy  thấp  và  rất  thay  đổi  theo  các  nghiên 
cứu. Theo một tổng quan gần đây, dấu Tinel có 
độ nhạy 8% ‐ 100%, dấu Phalen có độ nhạy 10% 
‐  73%(6).  Các  nghiệm  pháp  này  cũng  có  độ  đặc 
hiệu không cao (55% ‐ 88% đối với nghiệm pháp 
Phalen  và  55%  ‐  87%  đối  với  nghiệm  pháp 
Tinel(3)).  Do  đó  các  nghiệm  pháp  này  âm  tính 
không loại trừ chẩn đoán, và dương tính không 
quyết định chẩn đoán. 
Trong 117 bàn tay mắc hội chứng ống cổ tay, 
tỷ lệ bất thường điện sinh lý theo thứ tự là hiệu 
số thời gian tiềm cảm giác giữa‐trụ (95,7%), hiệu 
số thời gian tiềm vận động giữa 2 dây giữa‐trụ 
(94,0%),  thời  gian  tiềm  vận  động  ngoại  vi  dây 
giữa (80,3%) và thời gian tiềm cảm giác dây giữa 
(79,5%). 
Các tác giả đều nhận thấy các thông số cảm 
giác của thần kinh giữa bị ảnh hưởng sớm hơn 
nhiều so với các thông số vận động(2). Người ta 
cho  rằng  thời  gian  tiềm  cảm  giác  là  thông  số 
nhạy  cảm  nhất  trong  chẩn  đoán  bệnh  lý  này. 
Theo tác giả Nguyễn Hữu Công (1997) thì hiệu 
số giữa thời gian tiềm cảm giác của dây giữa (bị 

Nghiên cứu Y học

tổn  thương)  với  của  dây  trụ  (không  bị  tổn 
thương)  là  một  thông  số  còn  nhạy  cảm  hơn(10). 
Thật vậy, chúng tôi nhận thấy hiệu số thời gian 

tiềm cảm giác giữa – trụ có tỷ lệ dương tính cao 
nhất  (95,7%)  so  với  các  thông  số  khác.  Kết  quả 
này phù hợp nhận định của các tác giả Nguyễn 
Hữu Công 1997 (tỷ lệ này là 98,9%) (10) Murthy J. 
M., 2007 (tỷ lệ này là 100%)(5); Nguyễn Lê Trung 
Hiếu,  2002  (độ  nhạy  của  thông  số  này  là 
93,34%)(6).  Phan  Hồng  Minh  (2008)  báo  cáo 
thông  số  này  thường  gặp  hàng  thứ  hai  sau  bất 
thường  thời  gian  tiềm  cảm  giác  dây  giữa 
(62,96%  và  68,52%)(8).  Thông  số  nhạy  cảm  thứ 
nhì là hiệu số thời gian tiềm vận động giữa – trụ 
(tỷ lệ dương tính 94,0%). Kết quả của chúng tôi 
tương đồng với kết quả của tác giả Nguyễn Hữu 
Công  (tỷ  lệ  này  là  95,5%)  và  Nguyễn  Lê  Trung 
Hiếu  (độ  nhạy  của  thông  số  này  là  91,80%)(6,10). 
Như vậy, các tác giả thống nhất rằng mặc dù hội 
chứng ống cổ tay chỉ gây tổn thương thần kinh 
giữa nhưng nếu chỉ khảo sát dây giữa mà không 
khảo  sát  thêm  dây  trụ  thì  sẽ  bỏ  sót  một  số 
trường hợp bệnh lý(10). 
Theo  các  tác  giả,  dẫn  truyền  vận  động 
thường  chỉ  bị  ảnh  hưởng  trong  những  trường 
hợp  khá  nặng(2).  Chúng  tôi  nhận  thấy  tỷ  lệ  bất 
thường của thời gian tiềm vận động và thời gian 
tiềm cảm giác của dây giữa tương đương nhau 
(80,3%  và  79,5%).  Nguyễn  Hữu  Công  (1997) 
cũng  nhận  thấy  hai  thông  số  này  có  độ  nhạy 
tương đương nhau (80% và 79%) và đứng hàng 
thứ  3  và  4  sau  hiệu  số  thời  gian  tiềm  cảm  giác 
giữa  –  trụ  và  hiệu  số  thời  gian  tiềm  vận  động 

giữa – trụ(10). Theo Aminoff M. J. (1998), một số 
người  có  đáp  ứng  cảm  giác  bình  thường  trong 
khi  thời  gian  tiềm  vận  động  ngoại  vi  bị  ảnh 
hưởng rõ(1). Chúng tôi nhận thấy có trường hợp 
các  thông  số  cảm  giác  bình  thường  trong  khi 
một số thông số vận động bất thường. 
Trong  nghiên  cứu  của  chúng  tôi,  phần  lớn 
bệnh  nhân  (74,6%)  bị  hội  chứng  ống  cổ  tay  hai 
bên. Tỷ lệ mắc  2  tay  theo  Stevens  J.  C  (1988)  là 
58%,  Phan  Hồng  Minh  (2008)  là  48,15%;  theo 

Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2013 

83


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013

Nguyễn Lê Trung Hiếu (2002) là 82,87%; Padual 
L. và cs (1998) là 87%(8,6,10). 
Chúng tôi nhận thấy trong 117 bàn tay mắc 
bệnh  thì  tỷ  lệ  tổn  thương  tay  phải  cao  hơn  tay 
trái  (lần  lượt  là  53,0%  và  47,0%).  Nguyễn  Lê 
Trung  Hiếu  (2002)  cũng  ghi  nhận  tỷ  lệ  tổn 
thương  bàn  tay  phải  cao  hơn  bàn  tay  trái  có  ý 
nghĩa  thống  kê  (6);  Nguyễn  Hữu  Công  (1997) 
thấy  trong  tổng  số  89  bàn  tay  mắc  bệnh  có  51 
bàn tay phải và 38 bàn tay trái(10). Người ta cho 

rằng tay phải thường là tay thuận nên chịu đựng 
sức nặng, tác động rung và hoạt động gấp duỗi 
cổ tay nhiều hơn, vốn là các yếu tố nguy cơ của 
bệnh, nên dễ mắc bệnh hơn. 
Chúng tôi nhận thấy tỷ lệ bàn tay mắc bệnh 
mức  độ  nặng  khá  cao  (48,8%).  Ở  mức  độ  này, 
trên lâm sàng thường có teo cơ mô cái và giảm 
cảm giác vùng phân bố của thần kinh giữa. Bàn 
tay có mức độ tổn thương nặng có chỉ định phẫu 
thuật trong khi  có  thể  điều  trị  nội  khoa  với  các 
mức độ tổn thương nhẹ hơn. Điều này có thể do 
bệnh mới được đề cập trong khoảng 15 năm gần 
đây từ khi phát triển kỹ thuật điện cơ giúp chẩn 
đoán  xác  định;  từ  đó  dẫn  đến  nhận  thức  của 
người  dân  chưa  cao  về  bệnh;  một  tỷ  lệ  không 
nhỏ các bác sĩ không nghĩ đến bệnh này để cho 
chỉ định khảo sát điện cơ trước một bệnh nhân 
than phiền tê bàn tay. 

2.  Các  triệu  chứng  lâm  sàng  thường  gặp 
nhất và sớm nhất là rối loạn cảm giác bao gồm 
tê, tê ban đêm, tê khi chạy xe, đau bàn tay. 
3. Hiệu số thời gian tiềm cảm giác của dây 
giữa so với dây trụ là thông số nhạy cảm nhất 
(tỷ  lệ  dương  tính  95,7%),  và  hiệu  số  thời  gian 
tiềm vận động ngoại biên của dây giữa so với 
dây  trụ  là  thông  số  nhạy  cảm  thừ  nhì  (tỷ  lệ 
dương tính 94,0%). 

TÀI LIỆU THAM KHẢO 

1.

Aminoff  MJ  (1998).  Median  Neurophathies.  In 
Electromyography  in  Clinical  Practice,  3rd  editon,  Churchill 
Livingston, USA, p399‐418. 
Aroori  S,  Spence  RAJ  et  al  (2008).  Carpal  tunnel  syndrome. 
Ulster Med J; 77 (1) 6‐17 
Bland JDP (2007). Carpal tunnel syndrome. BMJ ;335:343‐6 
Katz JN, Simmon BP (2002). Carpal tunnel syndrome. NEJM; 
346:1807‐ 1812. 
Murthy  JM,  Meena  AK  (1999).  Carpal  tunnel  syndrome  ‐ 
electrodiagnostic  aspects  of  fifty  seven  symptomatic  hands. 

2.
3.
4.
5.

Neurol India. 1999 Dec;47(4):272‐5 
Nguyễn  Lê  Trung  Hiếu  (2002).  Khảo  sát  điện  sinh  lý  thần 
kinh cơ và lâm sàng trong hội chứng ống cổ tay. Y học thành 
phố Hồ Chí Minh; Tập 7, Phụ bản Số 1:95‐101 
Palmer  KT  (2011).  Carpal  tunnel  syndrome:  The  role  of 
occupational factors. Best Pract Res Clin Rheumatol. February ; 
25(1): 15–29. 
Phan Hồng Minh (2008). Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và 
điện  sinh  lý  của  hội  chứng  ống  cổ  tay.  Tài liệu khoa học, sinh 
hoạt khoa học kỹ thuật lần 2, Hội Thần kinh khu vực Hà Nội:16‐21 
Stevens  JC  (1997).  AAEM  Minimonograph  #26:  The 
electrodiagnosis  of  carpal  tunnel  syndrome.  Muscle & Nerve, 

p1877‐1486. 
Võ Thị Hiền Hạnh, Nguyễn Hữu Công (1997). Hội chứng ống 
cổ  tay:  Một  số  tiêu  chuẩn  chẩn  đoán  điện.  Tài liệu khoa học, 
sinh hoạt khoa học kỹ thuật lần 2, Hội Thần kinh khu vực thành phố 
Hồ Chí Minh:16‐21 

6.

7.

8.

9.

10.

KẾT LUẬN 
Chúng  tôi  đã  khảo  sát  124  bàn  tay  của  67 
bệnh  nhân  mắc  hội  chứng  ống  cổ  tay  và  rút  ra 
một số kết luận sau: 
1.  Hội  chứng  ống  cổ  tay  thường  gặp  ở  tuổi 
trung  niên,  nữ  mắc  bệnh  nhiều  hơn  nam,  và 
thường bị cả hai bàn tay. 

 
Ngày nhận bài báo   
 
   
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 
Ngày bài báo được đăng: 


 

 

01‐7‐2013 
10‐7‐2013 
01‐8‐2013 

 

84

Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2013 



×