Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
NGUYÊN NHÂN, ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG
VÀ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ THỦNG RUỘT NON
Trương Thành Công*, Võ Thị Mỹ Ngọc**, Nguyễn Việt Thành*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Xác định tỉ lệ các nguyên nhân thủng ruột non không do chấn thương, vết thương bụng (TRN).
Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và đánh giá kết quả điều trị sau mổ của TRN. Xác định các yếu tố tiên
lượng ảnh hưởng đến kết quả điều trị sau mổ.
Phương pháp nghiên cứu: Hồi cứu bệnh án của những bệnh nhân bị TRN đã được điều trị phẫu thuật tại
bệnh viện Nhân Dân Gia Định – Thành phố Hồ Chí Minh trong khoảng thời gian 5 năm, từ tháng 04 năm 2008
đến cuối tháng 03 năm 2013. Nguyên nhân gây thủng ruột được xác định dựa vào kết quả giải phẫu bệnh, riêng
trường hợp thủng ruột non do dị vật thì dựa vào mô tả trong mổ thấy được dị vật gây thủng.
Kết quả: Trong 50 trường hợp có 26 nam (52%) và 24 nữ (48%), tuổi thường gặp là 52 ± 19 tuổi. Nguyên
nhân gây thủng ruột thường gặp là lao ruột (28%), viêm ruột không đặc hiệu (24%) và dị vật đường tiêu hóa
(20%). Biểu hiện lâm sàng thường gặp: sốt vừa (380C – 400C) với tỉ lệ là 48%, mạch nhanh ≥ 100 lần/phút
(58%), đau bụng (98%), đề kháng thành bụng (84%), bụng trướng (48%). Phát hiện hơi tự do trong ổ bụng
trong 48,98% trường hợp trên phim X‐quang và 73,91% trên chụp cắt lớp vi tính bụng. Tỉ lệ biến chứng sau
mổ là 60% và tỉ lệ tử vong sau mổ là 26%. Các yếu tố tiên lượng có khả năng làm tăng nguy cơ biến chứng sau
mổ gồm: sốc trước mổ, mạch nhanh, ASA từ độ III trở lên và MPI ≥ 26. Còn các yếu tố tiên lượng có khả năng
làm tăng nguy cơ tử vong sau mổ gồm: sốc trước mổ, ASA độ IV và MPI ≥ 26.
Kết luận: Lao ruột, viêm ruột vẫn là nguyên nhân thường gặp nhất, kế đến là dị vật. Bệnh thường được
chẩn đoán trước mổ là thủng tạng rỗng với biểu hiện viêm phúc mạc và hình ảnh hơi tự do trong ổ bụng. Chẩn
đoán được cải thiện nhờ khả năng của chụp cắt lớp vi tính giúp phát hiện hơi tự do trong bụng hơn hẳn so với X‐
quang. Tuy nhiên, bệnh còn tiên lượng nặng vì biến chứng và tỷ lệ tử vong cao, đặc biệt nếu có các yếu tố nguy
cơ.
Từ khóa: thủng ruột non không do chấn thương, vết thương bụng
ABSTRACT
CAUSES, CLINICAL AND SUBCLINICAL FEATURES AND RESULTS
OF SURGICAL TREATMENT IN SMALL BOWEL PERFORATION
Truong Thanh Cong, Vo Thi My Ngoc, Nguyen Viet Thanh
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 355 ‐ 361
Objectives: To define rate of causes in non‐traumatic small bowel perforation. To describe clinical and
subclinical features and results of surgical treatment in non‐traumatic small bowel perforation. To define
prognostic factors affect results of surgical treatment.
Methods: A retrospective review of all patients who underwent operative intervention for non‐traumatic
small bowel perforation at NDGD hospital from April in 2008 to March 31st, 2013 was performed. Causes of
small bowel perforation were indentified from histopathological findings. Small bowel perforation by foreign body
* Đại học Y Dược TPHCM, ** Bệnh viện Nhân dân Gia Định TPHCM
Tác giả liên lạc: TS. Nguyễn Việt Thành ĐT: 0913869049 Email:
356
Chuyên Đề Ngoại Khoa
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Nghiên cứu Y học
was defined by intraoperative descriptions.
Results: There were 50 patients including 26 males (52%) and 24 females (48%) with median age 52 ± 19
years. Common causes included tuberculous intestinal perforation (28%), non‐specific enteritis (24%) and
foreign body (20%). Noticeable clinical manifestations were: fever from 380C to 400C in 48%, pusle ≥ 100
beats/minute in 58%, abdominal pain (98%), abdominal tenderness (96%), muscular guarding (84%),
abdominal distention (48%). Pneumoperitoneum was revealed by radiology in 48.98% and by computed
tomography scan in 73.91%. Postoperative complication rate was 60%, postoperative mortality rate was 26%.
Prognostic factors increasing risk of postoperative complications include: preoperative shock, rapid pusle, ASA ≥
III, MPI ≥ 26. Prognostic factors increasing risk of postoperative mortality include: preoperative shock, ASA: IV,
MPI ≥ 26
Conclusions: Intestinal tuberculosis, enteritis are still the most common cause, followed by foreign bodies.
The disease is usually diagnosed before surgery with clinical peritonitis and image of intraperitoneal gas.
Diagnosis is improved by the ability of CT scan that detects pneumoperitoneum compared to radiology. However,
the disease is still worse prognosis because of high complications and mortality, especially if present risk factors.
Key words: non‐traumatic small bowel perforation
MỞ ĐẦU
Thủng ruột non không do chấn thương, vết
thương bụng (TRN) chiếm tỉ lệ khoảng 30,83%
những trường hợp thủng đường tiêu hóa không
do chấn thương, vết thương bụng(14). Ruột non bị
thủng gây nên tình trạng viêm nhiễm trong
xoang phúc mạc, nếu không phát hiện và điều
trị kịp thời sẽ dẫn đến tình trạng nhiễm trùng
huyết, suy đa cơ quan và tử vong (23%‐43%)(2).
Vì vậy, TRN cần được chẩn đoán và điều trị
chính xác, nhanh chóng để giảm tử vong(2).
Nguyên nhân của bệnh rất đa dạng. Ở các
nước đang phát triển, TRN thường do nguyên
nhân nhiễm trùng: thương hàn, lao. Trong khi
đó, ở các nước phương tây, các nguyên nhân
không do nhiễm trùng lại phổ biến(1,2). Các công
trình nghiên cứu ở nước ta(1, ,8,12) chỉ đánh giá tình
trạng TRN theo từng nguyên nhân cụ thể như
thương hàn, lao, chưa có nghiên cứu đánh giá
toàn bộ về các nguyên nhân, triệu chứng, chẩn
đoán và điều trị của bệnh.
Với sự phát triển của nền kinh tế và nền y
học nước ta, công việc chẩn đoán và điều trị
bệnh TRN cũng có nhiều tiến bộ đáng kể: các
phương tiện chẩn đoán hình ảnh mới như siêu
âm, chụp cắt lớp vi tính được áp dụng phổ biến
trong chẩn đoán bụng cấp cứu, trình độ của đội
ngũ bác sĩ phẫu thuật viên tổng quát ngày càng
Ngoại Tổng Quát
được nâng cao, việc ra đời của nhiều kháng sinh
mới. Trong bối cảnh đó, liệu nguyên nhân TRN
ở nước ta có phải đã có thay đổi? Siêu âm và
chụp cắt lớp vi tính có giúp ích gì cho chẩn đoán
trước mổ không? Và phương pháp phẫu thuật
nào là tối ưu, kết quả điều trị sau mổ trong thời
gian gần đây có cải thiện? Đó chính là mục tiêu
của nghiên cứu này.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Chúng tôi tiến hành hồi cứu bệnh án của
những bệnh nhân bị TRN đã được điều trị phẫu
thuật tại bệnh viện Nhân Dân Gia Định, TP
HCM trong khoảng thời gian 5 năm, từ tháng 04
năm 2008 đến cuối tháng 03 năm 2013. Nguyên
nhân gây thủng ruột được xác định dựa vào kết
quả giải phẫu bệnh, riêng trường hợp thủng
ruột non do dị vật thì dựa vào mô tả trong mổ
thấy được dị vật gây thủng.
Tiêu chuẩn loại trừ: Bệnh nhân bị TRN do
thầy thuốc gây ra và những bệnh nhân được
chẩn đoán xác định sau phẫu thuật là TRN
nhưng không có làm giải phẫu bệnh thương
tổn để xác định nguyên nhân (trừ trường hợp
TRN do dị vật).
KẾT QUẢ
Trong 5 năm, chúng tôi có 50 trường hợp
thỏa yêu cầu nghiên cứu. Trong đó, nam giới
(52%) gặp nhiều hơn nữ giới (48%). Lứa tuổi nhỏ
357
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Nghiên cứu Y học
nhất là 21 tuổi và cao nhất là 91 tuổi, lứa tuổi
thường gặp là 52 ± 19 tuổi.
Về nguyên nhân, lao ruột, viêm ruột không
đặc hiệu là 2 nguyên nhân chủ yếu gây TRN với
tỉ lệ lần lượt là 28% và 24%. Trước bệnh nhân
nghiện ma túy, nhiễm HIV, ngoài nguyên nhân
viêm ruột không đặc hiệu và lao ruột, dị vật
đường tiêu hóa (chủ yếu do cố ý nuốt dị vật) là
nguyên nhân phải được kể đến (20%). Một số
nguyên nhân khác (2%‐4%) ít gặp hơn như:
bệnh Crohn, viêm ruột cấp tính trên bệnh nhân
xạ trị, hóa trị, leiomyosarcoma ruột non,
adenocarcinoma ruột non…
Về tiền sử, 29/50 trường hợp có tiền sử bất
thường như: tiền sử lao, nghiện ma túy… chiếm
tỉ lệ 58%. Trong đó, các tiền sử như: tiền sử bị lao
đã hoặc đang điều trị, nhiễm HIV, nghiện ma
túy là thường gặp nhất (bảng 1).
Bảng 1. Tỉ lệ các tiền sử bất thường
Tiền sử
Tiền sử lao
Nhiễm HIV
Nghiện ma túy
Nuốt dị vật
Xạ trị
Thường sử dụng thuốc
kháng viêm
Hóa trị
Tâm thần
Số ca
11
6
5
4
4
Tỉ lệ (%)
22%
12%
10%
8%
8%
4
8%
1
1
2%
2%
Triệu chứng cơ năng: 49/50 trường hợp có
triệu chứng đau bụng chiếm tỉ lệ cao nhất (98%),
các triệu chứng còn lại như nôn, không đại tiện,
không trung tiện ít gặp hơn với tỉ lệ lần lượt là
24%, 20% và 16%. Triệu chứng thực thể: các biểu
hiện thường gặp gồm: sốt vừa (380C‐400C) chiếm
tỉ lệ 48%, mạch nhanh ≥ 100 lần/phút (58%), đau
bụng khi sờ (96%), đề kháng thành bụng (84%),
bụng trướng (48%) (bảng 2).
Bảng 2. Triệu chứng lâm sàng
Triệu chứng lâm sàng
Triệu chứng cơ
năng
Triệu chứng
358
Số ca (n=50)
Đau bụng
49 (98%)
Nôn
12 (24%)
Không đại tiện
10 (20%)
Không trung tiện
8 (16%)
0
Sốt vừa (38-40 C)
24 (48%)
Triệu chứng lâm sàng
thực thể
Số ca (n=50)
Mạch nhanh (≥100 lần/phút)
29 (58%)
Đau bụng khi sờ
48 (96%)
Đề kháng thành bụng
42 (84%)
Bụng trướng
24 (48%)
Trong đó, triệu chứng đau bụng có đặc
điểm: đau bụng thường khởi phát âm ỉ (59,18%)
ở vùng quanh rốn (20,41%) hay đau mơ hồ
không rõ vị trí (18,37%), đau liên tục (61,23%)
ngày càng tăng (46,94%) sau đó đau lan ra khắp
bụng (71,43%).
Cận lâm sàng: ở bệnh nhân bị TRN, số lượng
bạch cầu trong máu >11‐30 ngàn/mm3 thường
gặp nhất (52%). Tuy nhiên, số lượng bạch cầu
trong giới hạn bình thường 4‐11 ngàn/mm3 cũng
chiếm tỉ lệ khá cao 32%. X‐quang phát hiện hơi
tự do trong ổ bụng trong 48,98% trường hợp.
Trên bệnh nhân bị TRN, siêu âm bụng và chụp
cắt lớp vi tính vùng bụng (CLVT) đều có thể
phát hiện được các dấu hiệu như: dịch ổ bụng,
hơi trong ổ bụng, thâm nhiễm mỡ, các quai ruột
dãn ứ đọng, dày thành ruột và hạch mạc treo
phì đại. Siêu âm bụng thường phát hiện các dấu
hiệu dịch ổ bụng (53,85%) và các quai ruột dãn ứ
đọng (41,03%), còn CLVT thường phát hiện
được các dấu hiệu như: dịch ổ bụng (82,61%),
hơi trong ổ bụng (73,91%) và thâm nhiễm mỡ
xung quanh quai ruột (43,48%). Trên 22 trường
hợp được thực hiện cả siêu âm bụng và CLVT,
ta thấy CLVT có khả năng phát hiện dịch ổ
bụng, hơi trong ổ bụng và thâm nhiễm mỡ
quanh quai ruột non tốt hơn hẳn so với siêu âm
bụng (phép kiểm Wilcoxon, p<0,05). Ngoài ra,
CLVT còn giúp chẩn đoán được TRN trong
21,74% trường hợp và giúp xác định đúng vị trí
ruột non bị thủng trong 17,39% trường hợp.
Sang thương trong mổ thường gặp nhất là
thủng hồi tràng. Trong thủng hồi tràng, vị trí
cách góc hồi manh tràng khoảng 20‐60 cm là
thường gặp (48,57%). Vị trí thủng hỗng tràng
thường gặp là cách góc Treitz ≥ 100 cm, xuất
hiện trong 72,73% trường hợp thủng hỗng tràng.
Các trường hợp diễn tiến thành viêm phúc
mạc (VPM) là 88%, trong đó VPM toàn thể
Chuyên Đề Ngoại Khoa
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
thường xuất hiện nhất (74%) (Bảng 3).
Bảng 3. Diễn tiến sau TRN
Diễn tiến sau TRN
Số ca
Tỉ lệ (%)
VPM toàn thể
37
74%
VPM khu trú
7
14%
Thủng bít
3
6%
Áp xe
3
6%
Tổng
50
100%
Nghiên cứu Y học
sau mổ. Biến chứng thường gặp là sốc nhiễm
trùng, nhiễm trùng vết mổ, viêm phổi với tỉ lệ
lần lượt là 40%, 40% và 26,67%. Tỉ lệ tử vong sau
mổ là 26%.
Phương pháp phẫu thuật
Số ca
Tỉ lệ (%)
Khâu lỗ thủng đơn thuần
Cắt đoạn ruột + nối tận-tận ngay
trong mổ
Khâu lỗ thủng + nối hồi-đại tràng
ngang
Cắt đại tràng P + dẫn lưu Quènu
Cắt đại tràng P + nối tận-tận hồi-đại
tràng ngang
Cắt đoạn ruột + đóng đầu dưới, đưa
đầu trên hồi tràng ra da
Cắt đoạn ruột + nối hồi-đại tràng
Cắt đoạn ruột + nối tận-tận + dẫn lưu
hồi tràng bằng sonde Pezzer
Cắt túi thừa thủng
Dẫn lưu lỗ thủng bằng sonde Pezzer
Đưa hồi tràng ra da
Nối lỗ thủng hồi tràng với đại tràng
ngang
Tổng
21
17
42%
35%
3
6%
1
1
2%
2%
Khi phân tích về giá trị tiên lượng cho tình
trạng biến chứng và tử vong sau mổ của các yếu
tố như: tuổi, thời gian từ lúc khởi phát đến khi
phẫu thuật, mạch, sốc trước mổ, số lượng bạch
cầu trong máu, dịch đục, mủ trong ổ bụng, vị trí
thủng, số lượng lỗ thủng, viêm phúc mạc toàn
thể sau thủng, thang điểm ASA, chỉ số viêm
phúc mạc Mannheim (MPI), ta thấy: các yếu tố
có thể làm tăng nguy cơ biến chứng sau mổ
gồm: sốc trước mổ, mạch nhanh (≥ 100
lần/phút), ASA độ III, IV và MPI ≥ 26, có ý nghĩa
thống kê (χ2, p < 0,05). Các yếu tố có thể làm
tăng nguy cơ tử vong sau mổ gồm: sốc trước
mổ, ASA độ IV và MPI ≥ 26, có ý nghĩa thống kê
(χ2, p < 0,05).
1
2%
BÀN LUẬN
1
1
2%
2%
Nguyên nhân TRN mà chúng tôi thu thập
được cũng khá đa dạng, gồm các nguyên nhân
gây thủng ruột thuộc các nhóm sau:
1
1
1
1
2%
2%
2%
2%
50
100%
Các phương pháp phẫu thuật áp dụng cho
bệnh nhân TRN khá đa dạng (Bảng 4).
Bảng 4. Các phương pháp phẫu thuật
Hai phương pháp được áp dụng nhiều nhất
là khâu lỗ thủng đơn thuần và cắt đoạn ruột +
nối tận‐tận ngay trong mổ. Khi đưa vào mô hình
hồi qui Cox để đánh giá hiệu quả của 2 phương
pháp phẫu thuật trên đến khả năng sống còn
của bệnh nhân sau khi đã hiệu chỉnh các yếu tố
như: khoảng thời gian từ lúc khởi phát đến thời
điểm phẫu thuật, sốc trước mổ, ASA, diễn tiến
thành viêm phúc mạc toàn thể sau thủng, ta
thấy: khâu lỗ thủng đơn thuần và cắt đoạn ruột
+ nối tận‐tận ngay trong mổ có hiệu quả như
nhau đối với khả năng sống còn sau mổ của
bệnh nhân TRN (p = 0,607 > 0,05).
Kết quả điều trị phẫu thuật có 40% trường
hợp phục hồi tốt, 60% trường hợp có biến chứng
Ngoại Tổng Quát
Bệnh ở thành ruột như:
‐ Nhiễm trùng (mạn tính do lao ruột, cấp
tính trên bệnh nhân nhiễm HIV).
‐ Viêm ruột không đặc hiệu.
‐ Viêm ruột cấp tính do xạ trị hay hóa trị.
‐ Thương tổn: adenocarcinoma ruột non,
leiomyosarcoma ruột non, bệnh Crohn, lao ruột
kèm với lymphoma ruột non, viêm hoại tử túi
thừa hồi tràng cấp tính.
Dị vật đường tiêu hóa.
Tổn thương mạch máu cung cấp cho thành
ruột: thoát vị đùi nghẹt.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, nguyên
nhân nhiễm trùng như lao ruột vẫn là nguyên
nhân thường gặp nhất (28%), kế đến là viêm
ruột không đặc hiệu (24%) và dị vật (20%).
Trong đó, viêm ruột không đặc hiệu được xác
định khi biểu hiện lâm sàng của bệnh nhân
không có dấu hiệu giúp gợi ý nguyên nhân gây
359
Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
thủng ruột và kết quả giải phẫu bệnh chỉ thấy
hình ảnh mô hạt viêm, viêm thanh mạc ruột non
và phản ứng của các tế bào khổng lồ(8), không
thấy rõ được nguyên nhân đặc hiệu nào(6). Do
đặc điểm riêng của bệnh viện Nhân dân Gia
Định là gần với trung tâm cai nghiện nên chúng
tôi có tiếp nhân nhiều trường hợp nghiện ma
túy cố ý nuốt dị vật dẫn đến TRN. Tuy nhiên,
đây cũng là nguyên nhân đáng lưu ý cho tất cả
bác sĩ ngoại khoa, nhất là trong tình hình xã hội
hiện nay có nhiều đối tượng nghiện ma túy.
Theo nghiên cứu của một số tác giả ở các nước
đang phát triển khác như: nghiên cứu của Khan
KJ(7) thì thương hàn là nguyên nhân thường gặp
nhất (44%), kế đến là lao ruột (37%), còn theo
Jain BK(6), Wani RA(16) thì thương hàn vẫn là
nguyên nhân thường gặp nhất, kế đến là viêm
ruột không đặc hiệu. Còn trong nghiên cứu của
chúng tôi, nguyên nhân thương hàn không được
phát hiện qua xét nghiệm Widal và kết quả cấy
dịch ổ bụng. Điều này có thể giải thích: bệnh
nhân không phải từ vùng dịch tễ thương hàn
như ở đồng bằng sông Cửu Long, chúng tôi
không làm xét nghiệm Widal một cách thường
quy.
Biểu hiện thường gặp nhất của bệnh là viêm
phúc mạc (88%) (bảng 3), khu trú hoặc toàn thể,
giống như nhiều tác giả khác đã nhận định(1,10,11).
Các đặc điểm như: đau bụng khởi phát âm ỉ
(59,18%), tăng dần (46,94%) và lan khắp bụng
(71,43%), cũng như các tiền sử bất thường như:
lao, nhiễm HIV, nghiện ma túy, nuốt dị vật
(Bảng 1) và trên hình ảnh học ghi nhận: hình
ảnh lao phổi (trong 57,14% trường hợp TRN do
lao ruột), hình ảnh dị vật trong ổ bụng giúp gợi
ý chẩn đoán tình trạng viêm phúc mạc là do
TRN, cũng như gợi ý các nguyên nhân gây TRN
là lao ruột hoặc dị vật.
Nghiên cứu của chúng tôi có 54% trường
hợp tăng bạch cầu > 11 ngàn/mm3 máu, có
trường hợp lên tới 30 ngàn/mm3. Số lượng
bạch cầu trong máu ở mức bình thường cũng
chiếm tỉ lệ không nhỏ, khoảng 32% trường
hợp. Theo Wani RA(16), Abdullah MS(1) thì số
360
lượng bạch cầu trong máu >11 ngàn/mm3
chiếm tỉ lệ còn thấp hơn, chỉ khoảng 29,1%
hoặc 33% trường hợp. Vì vậy, không thể đơn
thuần dựa vào kết quả bạch cầu trong máu ở
mức bình thường để kết luận bệnh nhân
không có tình trạng nhiễm trùng.
Dựa vào hình ảnh trên phim X‐quang ngực
thẳng và X‐quang bụng thì hơi tự do trong ổ
bụng được phát hiện trong 48,98% trường hợp.
Trong kết quả nghiên cứu của các tác giả khác
thì tỉ lệ xuất hiện hơi tự do trên phim X‐quang
có sự khác nhau tùy theo từng nghiên cứu. Theo
Abdullah MS(1) thì tỉ lệ hơi tự do dưới hoành
trên phim X‐quang là 63%, còn theo Wani RA(16)
thì hơi tự do xuất hiện trong 46,8% trường hợp
và trong nghiên cứu của Khan KJ(10) có 58%
trường hợp xuất hiện hơi tự do trên phim X‐
quang.
Trong tổng số 50 trường hợp có 22 trường
hợp bệnh nhân được thực hiện cả siêu âm
bụng và CLVT bụng. Khi tiến hành so sánh về
khả năng phát hiện các dấu hiệu của CLVT với
siêu âm bụng trên 22 trường hợp này, ta có
được một số nhận xét sau: CLVT bụng có khả
năng phát hiện dịch trong ổ bụng, hơi trong ổ
bụng và thâm nhiễm mỡ xung quanh quai ruột
cao hơn so với siêu âm bụng (phép kiểm
Wilcoxon, p < 0,05).
Như vậy, với biểu hiện lâm sàng viêm phúc
mạc, phát hiện hơi trong ổ bụng trên chẩn đoán
hình ảnh đủ để các bác sĩ chẩn đoán được tình
trạng thủng ống tiêu hóa và cho chỉ định can
thiệp phẫu thuật cấp cứu. Ngày nay, với việc
ứng dụng CLVT trong chẩn đoán đau bụng cấp,
CLVT có độ nhạy cao hơn hẳn siêu âm (p<0,05)
đã giúp cải thiện chẩn đoán TRN. CLVT giúp
chẩn đoán được TRN trong 21,74% trường hợp
và giúp xác định đúng vị trí ruột non bị thủng
trong 17,39% trường hợp. Ngoài ra, CLVT còn
giúp phát hiện dấu hiệu dày thành ruột gợi ý
nguyên nhân lao ruột (50%) hơn là viêm ruột
không đặc hiệu (11,11%) (χ2, p < 0,05), giúp phát
hiện dị vật trong ổ bụng với tỉ lệ (75%) cao hơn
hẳn X quang (37,5%).
Chuyên Đề Ngoại Khoa
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Về mặt điều trị, hai phương pháp phẫu
thuật thường được áp dụng là khâu lỗ thủng
đơn thuần (42%) và phương pháp cắt đoạn ruột
có nối ruột tận‐tận ngay trong mổ (35%) (Bảng
4). Hai phương pháp này cho kết quả như nhau
đối với tình trạng tử vong sau mổ (p= 0,607 >
0,05). Trong một nghiên cứu hồi cứu trên 35
trường hợp, Mischiger HJ(10) cũng cho nhận xét
tương tự.
Tỉ lệ biến chứng sau mổ và tỉ lệ tử vong sau
mổ trong nghiên cứu của chúng tôi lần lượt là
60% và 26%, tương đối cao hơn trong kết quả
nghiên cứu của các tác giả khác.
Bảng 5. Tỉ lệ biến chứng và tử vong sau mổ trong
một số nghiên cứu.
Các tác giả
Số ca Tỉ lệ biến chứng
Khan KJ (2010)(7)
200
27,0%
Tỉ lệ tử
vong
8,0%
Tan KK (2010)(15)
47
57,4%
19,1%
125
54,8%
4,8%
(1)
Ayite A (2006)
(5)
Hsu MH (1996)
25
36,0%
Các biến chứng: sốc nhiễm trùng, suy thận
cấp, suy hô hấp, xì chỗ khâu và suy đa cơ quan
có thể làm tăng tình trạng tử vong sau mổ (χ2,
p < 0,05).
Các yếu tố nguy cơ làm tăng biến chứng sau
mổ gồm: sốc trước mổ, mạch nhanh (≥ 100
lần/phút), ASA độ III, IV và MPI ≥ 26 (χ2, p <
0,05). Các yếu tố có thể làm tăng nguy cơ tử
vong sau mổ gồm: sốc trước mổ, ASA độ IV và
MPI ≥ 26 (χ2, p < 0,05). Theo nghiên cứu của Tan
KK(15), khi đưa vào phân tích đơn biến, các yếu
tố có giá trị tiên lượng kết quả xấu sau mổ là:
ASA ≥ III, MPI > 26, tụt huyết áp, suy thận, rối
loạn ion đồ trong máu, có mở ruột ra da.
KẾT LUẬN
Trong nghiên cứu của chúng tôi, nguyên
nhân nhiễm trùng như lao ruột là thường gặp
nhất, kế đến là viêm ruột không đặc hiệu. Trong
tình hình xã hội hiện nay trước các đối tượng
nghiện ma túy, nhiễm HIV, ngoài các nguyên
nhân lao ruột, viêm ruột không đặc hiệu thì
TRN do cố ý nuốt dị vật cũng cần lưu ý.
Ngoại Tổng Quát
Nghiên cứu Y học
Bệnh thường được chẩn đoán trước mổ là
thủng tạng rỗng với biểu hiện lâm sàng viêm
phúc mạc và hình ảnh hơi tự do trong ổ bụng.
Ngày nay, với việc ứng dụng CLVT trong
những trường hợp đau bụng cấp đã giúp cải
thiện chẩn đoán TRN nhờ tỉ lệ phát hiện hơi
trong ổ bụng hơn hẳn X‐quang và giúp xác định
được vị trí ruột non bị thủng. Ngoài ra, CLVT
còn giúp phát hiện dị vật gây TRN hơn hẳn X‐
quang và giúp phát hiện dấu hiệu dày thành
ruột gợi ý nguyên nhân lao ruột (p < 0,05).
Hai phương pháp phẫu thuật thường được
áp dụng trong điều trị bệnh nhân bị TRN là
khâu lỗ thủng đơn thuần, cắt đoạn ruột có nối
ruột tận‐tận ngay trong mổ cho kết quả điều trị
như nhau. Vì vậy, việc lựa chọn phương pháp
phẫu thuật nào là do phẫu thuật viên quyết định
sau khi đã đánh giá tổng trạng của bệnh nhân,
tình trạng bẩn của ổ bụng và tình trạng bất
thường ở ruột non.
Tỉ lệ biến chứng và tử vong sau mổ vẫn còn
khá cao. Các yếu tố tiên lượng làm tăng nguy cơ
biến chứng sau mổ gồm: sốc trước mổ, mạch
nhanh, ASA từ độ III trở lên và MPI ≥ 26. Còn
các yếu tố tiên lượng có khả năng làm tăng nguy
cơ tử vong sau mổ gồm: sốc trước mổ, ASA độ
IV và MPI ≥ 26.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.
Abdullah MS, Rassam RE, Almarzooq TJ (2011). A study of 82
patients of non‐traumatic terminal ileal perforation in Al‐
Kindy teaching hospital. J Fac Med Baghdad, 53(2): 147‐151.
Ayite A, Dosseh DE, Katakoa G, et al. (2006). Surgical
treatment of the single non traumatic perforation of small
bowel: excision‐suture or resection‐anastomosis. Ann Chir,
131(2): 91‐95.
Eid HO, Hefny AF, Joshi S, et al. (2008). Non‐traumatic
perforation of small intestine. Afr Health Sci, 8(1): 36‐39.
Huỳnh Văn Nghĩa, Nguyễn Văn Hải (2009). Đặc điểm lâm
sàng, thương tổn và kết quả điều trị thủng ruột do lao. Y học
TPHCM, 13: 62‐168.
Hsu MH, Yu JC, FM, et al. (1996). Nontraumatic perforation
of small intestine. J Med Sci, 16(6): 424‐430.
Jain BK, Arora H, Srivastava UK, et al. (2010). Insight into the
management of non‐traumatic perforation of the small
intestine. J Infect Dev Ctries, 4(10): 650‐654.
Khan KJ, Chohan S, Irshad K, et al. (2010). Experience with
Non Traumatic Small Bowel Perforationsʺ, Pak J Med Health
Sci, 4(4): 504‐507.
Lê Quang Uy (1989). Nhân 23 trường hợp thủng ruột thương
hàn điều trị tại khoa ngoại tổng quát BV Chợ Rẫy. Luận án
361
Nghiên cứu Y học
9.
10.
11.
12.
13.
362
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
nội trú, Đại học Y Dược TPHCM.
Mahajan G, Kotru M, Sharma R, et al. (2011). Usefulness of
Histopathological Examination in Nontraumatic Perforation
of Small Intestine. Journal of Gastrointestinal Surgery, 15(10):
1837‐1841.
Mischinger HJ, Berger A, Kronberger L, et al. (1989).
Spontaneous small bowel perforation. A rare cause of acute
abdomen. Acta Chir Scand, 155: 593‐599.
Nguyễn Văn Hải (2005). Thủng ruột do lao: đặc điểm lâm
sàng và kết quả sớm sau mổ. Y học TPHCM, 9(3): 161‐166.
Nguyễn Đình Hối, Lê Quang Uy, Nguyễn Hoàng Bắc và cs
(1996). Điều trị phẫu thuật thủng ruột thương hàn, Đề tài
nghiên cứu khoa học cấp bộ.
Rajagopalan AE, Pickleman J (1982). Free Perforation of the
Small Intestine. Ann Surg, 196(5): 576‐579.
14.
15.
16.
Shrestha K, Paudel BR, Shah LL, et al. (2010). Spectrum of
perforation peritonitis ‐260 cases experience. PMJN, 10(2): 29‐
32.
Tan KK, Bang SL, Sim R (2010). Surgery for small bowel
perforation in an Asian population: predictors of morbidity
and mortality. J Gastrointest Surg, 14(3): 493‐499.
Wani RA, Parray FQ, Bhat NA, et al. (2006). Nontraumatic
terminal ileal perforation. World J Emerg Surg, 1: 7‐10.
Ngày nhận bài báo: 22/11/2013
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 22/11/2013
Ngày bài báo được đăng: 05/01/2014
Chuyên Đề Ngoại Khoa