Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Tổng Quan
TỔNG QUAN CÁC KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VỀ QUY TRÌNH GHÉP THẬN
TẠI BỆNH VIỆN CHỢ RẪY
Trần Ngọc Sinh*, Chu Văn Nhuận**, Dương Quang Vũ**, Thái Minh Sâm**, Châu Quý Thuận**,
Dư Thị Ngọc Thu**, Hoàng Khắc Chuẩn**, Trần Trọng Trí** , Nguyễn Thị Thái Hà**
ĐẶT VẤN ĐỀ
Sau gần 20 năm thực hành ghép thận tại Bệnh
viện Chợ Rẫy (BVCR), sau nhiều báo cáo công
bố trong và ngoài nước liên quan, do mong
muốn có một giải pháp phù hợp nhất về một
quy trình kỹ thuật hiện đại, hiệu quả trong
điều kiện bệnh nhân và hoàn cảnh Việt Nam,
chúng tôi xin tổng quan riêng về các công
trình trên, trong đó chủ yếu là cụm 3 công
trình về:
‐ Phẫu thuật nội soi sau phúc mạc cắt thận
để ghép trên người cho sống.
‐ Phẫu thuật ghép thận vào hốc chậu phải
với kỹ thuật chuyển vị mạch máu.
‐ Kỹ thuật Lich‐ Gregoir cải biên trong khâu
nối niệu quản ghép vào bàng quang.
PHẪU THUẬT NỘI SOI SAU PHÚC
MẠC CẮT THẬN ĐỂ GHÉP TRÊN
NGƯỜI CHO SỐNG(4,3)
Đặt vấn đề
Phẫu thuật nội soi cắt thận để ghép, tới nay
tại các nước Â‐Mỹ, thường qua nội soi ổ bụng có
đụng chạm đến ruột. Nội soi cắt thận để ghép
với bàn tay hỗ trợ trong bụng, phải mở bụng lấy
thận ra và ít nhất phải dùng 4 trocar. Các tác giả
tại BVCR dùng nội soi sau phúc mạc với 3
trocar; đồng thời tận dụng 2 lỗ trocar để làm
đường rạch mở thắt lưng lấy thận.
Phương pháp
Nghiên cứu mô tả hàng loạt trường hợp
(TH) lâm sàng. Thực hiện tại BV Chợ Rẫy, từ
2005 – đến 2011. Đối tượng là những người hiến
thận, theo tiêu chuẩn của Bộ Y tế Việt Nam; phù
hợp tiêu chuẩn ghép với người nhận thận. Tiêu
chuẩn loại trừ: bất hoà hợp ghép, tiền căn phẫu
thuật vùng thận lấy; bệnh nhân từ chối.
Nội dung phẫu thuật nội soi sau phúc mạc
cắt thận để ghép trên người cho sống:
‐ Chọn cặp ghép theo tiêu chuẩn hoà hợp
miễn dịch học ghép, theo quy định của Bộ Y Tế
Việt Nam.
‐ Nguyên tắc chọn bên thận lấy để ghép: hai
thận có chức năng bình thường, chọn bên lấy
theo nguyên tắc chừa lại thận có chức năng tốt
nhất. Tiêu chuẩn giải phẫu (bất thường mạch
máu, bên phải và trái) không là tiêu chuẩn chọn
bên thận để lấy (chọn thận có chức năng thận
kém để lấy dù thận có bất thường giải phẫu).
‐ Gây mê nội khí quản, tư thế nằm nghiêng
như tư thế mổ thận cổ điển.
‐ Chọn vị trí vào trocar (10mm
+10mmm+5mmm), sao cho giữa 2 trocar 10 mm
tạo nên khách cách 8cm, là nơi sẽ rạch mở lấy
thận ra sau cắt nội soi (hình 1 A, B).
‐ Tạo khoang sau phúc mạc bằng ngón
tay găng đơn giản kiểu Gaur.
‐ Đặt trocar 10 mm đầu tiên trên đường
nách giữa cách mào chậu 2 khoát ngón tay, bơm
hơi vào khoang sau phúc mạc, điều chỉnh áp lực
CO2 thấp từ 8‐10 mmHg. Đặt tiếp 2 trocar theo
sơ đồ.
‐ Sau khi giải phóng hoàn toàn thận chỉ
còn cuống mạch máu, ngưng nội soi và tiến
hành thực hiện đường vào thận giữa 2
trocar10mm, chỉ chừa cơ ngang, tránh làm rò khí
CO2 sẽ làm hẹp phẫu trường (hình 3).
* Bộ Môn Tiết Niệu Học, ĐHYD, TP. HCM Khoa Ngoại – Tiết Niệu BV Chợ Rẫy
Tác giả liên lạc: GS.TS. Trần Ngọc Sinh ĐT: 0983723493, Email:
Niệu Khoa
1
Tổng Quan
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
A
B
Hình 1 : Tư thế bệnh nhân và vị trí các trocar (A: chọn khoảng cách và vị trí 2 trocar 10 là 8cm; B: tư thết nằm
nghiêng).
Hình 2: Tạo khoang sau phúc mạc kín và kỹ thuật nội soi với 3 trocar
Hình 3: Rạch da nối liền 2 trocar thành đường mổ lấy thận
‐ Mở cân ngang, dùng kẹp giữ bườm mỡ
cực dưới để nhẹ nhàng kéo thận ra (hình 4).
‐ Nội soi kiểm tra sau cắt thận. Đặt 1 ống
dẫn lưu hốc thận qua lổ trocar 5mm.
Kết quả
‐ Qua 106 TH, tuổi trung bình 44,27 ±
9,25, trong khoảng [29 và 63 tuổi]. Nam 46/106
TH (43,40%), nữ 60/106 TH (56,60%). Người cho
là người trong gia đình : 103/106 TH (97,17%), số
còn lại nếu không lên hệ huyết thống phải
chứng minh lý do hiến thận không là buôn bán.
Hình 4: Kẹp bơm mỡ cực dưới, lấy thận ra khỏi cơ thể
2
Chuyên Đề Ngoại Khoa
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
‐ Chọn thận cắt bên phải 38 TH (35,85%),
chọn thận cắt bên trái 68 TH (64,15%).
Chọn thận cắt có bất thường mạch máu:
24/106 TH (22,6%) có nhiều hơn 1 động mạch
thận; 18/106 (16,9%) : động mạch chia sớm.,
6/106 (5,6%) bất thường tĩnh mạch
Lý do khác chọn thận để ghép: do sỏi thận : 5
TH, do nang thận : 2 TH.
‐ Thời gian mổ trung bình: 167,54 ± 44,42
phút , trong khoảng [90 và 245 phút]. Máu mất
trung bình: 63,30 ± 35,52ml. Có truyền máu lúc
mổ.
‐ Thời gian thiếu máu nóng: 273,90 ± 84,81
giây trong khoảng [150 và 540 giay].
‐ Créatinine‐huyết thanh trung bình của
người cắt thận: 1,16 ± 0,17mg% (theo dõi trong
29,57 ± 19,79 tháng).
‐ Créatinine‐huyết thanh trung bình của
người nhận thận (sau 15 ngày) : 1,18 ± 0,21 mg%.
‐ Biến chứng: trong loạt này không có các
biến chứng gây tử vong, chuyển mổ mở, chảy
máu sau mổ , nhiễm trùng sau mổ , suy thận sau
mổ.
Bình luận và kết luận phương pháp cắt
thận nội soi sau phúc mạc
‐ Kết quả tốt qua loạt 106 TH, đơn giản và
an toàn, thận sau ghép phục hồi tốt. Không biến
chứng nặng, không phải truyền máu.
‐ Công trình đã cho thấy quy trình phẫu
thuật nội soi sau phúc mạc cắt thận để ghép là
khả thi, đơn giản và an toàn.
PHẪU THUẬT CHUYỂN VỊ MẠCH MÁU
TRONG GHÉP THẬN CÓ MẠCH MÁU
NGẮN(6,7,5,7)
Đặt vấn đề
Xuất phát từ loạt nghiên cứu 92 trường hợp
ghép tại bệnh viện Albert Calmette, Trường viện
vùng Lille, Pháp (CHRU de Lille)(16), trong đó tất
cả các trường hợp ghép thận từ tử thi hay từ
người cho sống đều có thể ghép vào hốc chậu
phải, do lợi dụng cấu trúc giải phẫu: tĩnh mạch
chậu chung bên phải có một phần nằm lệch về
Niệu Khoa
Tổng Quan
bên phải của động mach chậu chung. Từ đó
hình thành ý tưởng di dời (chuyển vị) tĩnh mạch
chậu ngoài sang phải cho những trường hợp
tĩnh mạch thận ghép lấy từ bên phải ngắn, để
khỏi phải nối dài bằng kỹ thuật tạo hình mạch
máu như một số tác giả(13,14).
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp
Nghiên cứu tiến cứu loạt các trường hợp (TH)
có nhóm chứng, chọn không ngẫu nhiên.Thực
hiện tại BV Chợ Rẫy, từ 1998 – đến 2010.
Đối tượng
Là những người suy thận mạn giai đoạn
cuối, theo tiêu chuẩn của Bộ Y tế Việt Nam; phù
hợp với người cho thận.
Bệnh nhân được chia làm 2 nhóm:
Nhóm A: thực hiện trên những trường
hợp thận ghép có tĩnh mạch ngắn <20mm (đo
bằng thước đo trực tiếp tại bàn rửa thận),
phương án kỹ thuật: ghép vào vùng chậu phải.
Áp dụng kỹ thuật chuyển vị mạch máu theo
một hoặc 2 hoặc cả 3 mức độ I, II, III.
Nhóm B: Tiêu chuẩn chọn lựa ngưới nhận
và người cho đều theo tiêu chuẩn giống như
nhóm A. Nhưng thận ghép có tĩnh mạch đủ
dài (>2cm): ghép vào vùng chậu phải. Sắp sắp
vị trí mạch máu theo kinh điển. Không thực
hiện kỹ thuật chuyển vị mạch máu, vì tĩnh
mạch thận đã đủ dài (hình 8).
‐ Tiêu chuẩn loại trừ: tất cả các trường hợp
ghép có phẫu thuật viên là khách mời, không
theo phác đồ nghiên cứu này; bất hoà hợp
miễn dịch ghép, tiền căn phẫu thuật vùng hốc
chậu phải; rối loạn đông máu, TH phải ghép
thận ở hốc chậu trái.
‐ Thuốc ức chế miễn dịch: giống nhau cho
cả 2 nhóm.
‐ Nội dung nghiên cứu:
+ Đường mổ: Chọn đường mổ ghép thận
tại hốc chậu phải (đường mổ Gibson): thực
hiện cho thận ghép là thận phải hoặc thận trái.
+ Mô tả kỹ thuật chuyển vị mạch máu:
3
Tổng Quan
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Trên thận ghép: Chuyển vị trên thận ghép:
thực hiện ngoài cơ thể “ex‐vivo”, trong điều
kiện bảo quản ở 4 độ Celcius (hình 5):
o Chuyển vị mức độ I: phẫu tích rốn thận,
kéo dài tĩnh mạch thận ghép.
o Chuyển vị mức độ II: phẫu tích rốn thận, kéo
dài tĩnh mạch thận ghép, chuyển vị trí tĩnh mạch
thận từ trước ra sau động mạch thận.
Trên mạch máu chậu người nhận (chuyển vị
mức độ III ) : cột cắt các tĩnh mạch chậu trong;
phẫu tích và cột cắt các tĩnh mạch bạch huyết
(cột bằng chỉ không tan và đốt điện). Di
chuyển toàn bộ tĩnh mạch chậu sang bên phải
động mạch chậu ngoài (hình 6,7).
Hình 5: Nhóm A mô tả các bước của kỹ thuật chuyển vị tĩnh mạch thận ở mức độ Ivà II: theo thứ tự A, B, C, D.
Hình 6: Nhóm A mô tả kỹ thuật chuyển vị tĩnh mạch chậu: A (chuyển vị tĩnh mạch thận ở mức độ III) và mô
hình ghép chuyển vị (D).
Hình 7: Nhóm A trình bày kỹ thuật chuyển vị tĩnh mạch chậu sang bên phải động mạch chậu ngoài: mức độ
chuyển vị III. Đinh Văn Nh. 41t, ghép ngày 15/12/2005.
4
Chuyên Đề Ngoại Khoa
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Tổng Quan
+ Nhóm B: có 138TH, nữ chiếm 60,1%,
tuổi trung bình: 44,74±9,30, trong khoảng [20,63
tuổi].
‐ Tình trạng mạch máu thận ghép:
+ Chiều dài tĩnh mạch (TM) thận
ghép: Nhóm A: TM có chiều dài trung bình 7,3 ±
2,4 mm, trong khoảng [4,15mm]; nhóm B TM có
chiều dài trung bình 20,3 ± 4,2mm, trong khoảng
[22,40mm];
Hình 8: Mô hình ghép thận nhóm B: tĩnh mạch thận
đu3 dài (>2cm), ghép như bình thường (cổ điển) tại
hốc chậu phải.
+ Khâu nối tĩnh mạch thận: vị trí sẽ nối ghép
trên tĩnh mạch chậu ngoài, bắt đầu mở một lỗ
trên tĩnh mạch chậu ngoài tương ứng với đường
kính tĩnh mạch thận. Khâu nối tĩnh mạch thận‐
tĩnh mạch chậu ngoài tận‐bên với 2 loạt khâu
liên tục.
+ Nối động mạch thận: nối động mạch thận‐
động mạch chậu trong với các kiểu khâu: 2 loạt
khâu liên tục, hoặc dùng kỹ thuật Carrel với 3
mũi chờ.
Hoặc nối động mạch thận‐động mạch chậu
ngoài tận‐bên: khi động mạch chậu trong không
sử dụng được như vôi hóa nặng, xơ hẹp…
+ Kiểm tra sau ghép cho cả 2 nhóm:
creatinine‐huyết thanh định kỳ mỗi tháng , siêu
âm doppler động và tĩnh mạch thận ghép, tưới
máu thận, tình trang dung nạp thuốc ức chế
miễn dịch ảnh hưởng kết quả phẫu thuật.
Kết quả
‐ Đặc điểm 2 nhóm bệnh nhân: 201 TH
suy thận mạn giai đoạn cuối đã được ghép.
Được chia làm 2 nhóm:
+ Nhóm A: có 63 TH , nữ chiếm 57,1%,
tuổi trung bình: 41,28±8,36 trong khoảng [26,63
tuổi].
Niệu Khoa
+ Số lượng động mạch thận ghép: 35/201
TH (17,4%) thận ghép có trên 1 động mạch.
Được xử trí hoặc kiểu “nòng súng đôi” (16 TH,
7,9%), hoặc nối vào nhiều nhánh động mạch
chậu trong (19 TH, 9,5%). Đối với động mạch
bình thường hay bất thường, không ghi nhận
khó khăn ở cả 2 nhóm khi khâu nối mạch.
‐ Vị trí đường mổ : đường mổ Gibson
phải thực hiện trong 201/201 TH (100,0%).
‐ Kết quả thực hiện các mức độ của kỹ
thuật chuyển vị mạch máu trên nhóm A: mức
độ áp dụng kỹ thuật chuyển vị khác nhau tuỳ
trường hợp. Nhưng có cùng đặc điểm là tĩnh
mạch thận ngắn <20mm (bảng 1).
Bảng 1: Các bước xử trí của kỹ thuật chuyển vị MM
của nhóm A (n=56)
Các bước xử trí TM
thận ngắn
Thận T Thận P Số TH Tỉ lệ %
Chuyển vị mức độ I
5
6
11
17,5
Chuyển vị mức độ II
1
5
6
9,5
Chuyển vị mức độ III
1
0
1
1,6
Chuyển vị mức độ I &III
3
13
16
25,4
Kết hợp cả I&II&III
3
26
29
46,0
Tổng cộng
13
50
63
100,0
%
20,6
79,4
100,0
Có 22/25TH thận P (88,0%) đã phải chuyển
vị đủ 3 mức độ I,II và III để ghép được.
‐ Nhóm B: với tĩnh mạch dài, 100,0% các
trường hợp không cần thực hiện kỹ thuật
chuyển vị mạch máu chậu, nối với TM thận kiểu
tận‐bên.
‐ Kết quả creatinine‐huyết của 2 nhóm
nghiên cứu trong năm đầu tiên: có sự khác biệt,
5
Tổng Quan
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
nhóm chuyển vị có chức năng tốt hơn. Có thể
tạm lý giải tưới máu tốt hơn (bảng 2).
Bảng 2: Kết quả Creatinin‐huyết thanh trung bình
của 2 nhóm trong năm đầu tiên (n=201).
Creatinin-huyết thanh Nhóm A
Nhóm B
P
(mg/dL)
(n=63)
(n=138)
Creatinin-huyết thanh 1,26 ± 0,28 1,27 ± 0,38 P0,85 >
trung bình
0,05
Thấp nhất
0,7
0,8
Cao nhất
2,3
3,6
‐ Siêu âm doppler mạch máu thận ghép sau
mổ: cho thấy chỉ số kháng lực mạch máu trung
bình của 2 nhóm A và B, không có sự khác biệt
có ý nghĩa thống kê (P>0,05).
Lưu lượng tĩnh mạch thận ghép ở cả 2
nhóm không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê
với P>0,05.
‐ Biến chứng động mạch: không ghi nhận
tắc mạch, căng, xoắn trong nhóm chuyển vị A; ở
nhóm B, có một trường hợp xoắn động mạch, đã
phải cắt và nối lại tại bàn, ngay sau lúc mở kẹp.
‐ Biến chứng tĩnh mạch: ở cả 2 nhóm có biến
chứng của TM là 0 TH (0,0%).
‐ Một số biến chứng khác: rò nước tiểu
(7TH), chảy máu vết mổ và bung vết mổ (6TH),
rò bạch dịch (1TH), không có khác biệt ý nghĩa
cho 2 nhóm.
‐ Tử vong: không có tử vong do nguyên
nhân ngoại khoa (0,0%).
‐ Biến chứng xa: Biến chứng mạch máu (0
TH), tiết niệu (0 TH), biến chứng miễm dịch học
và do thuốc ức chế miễn dịch được chẩn đoán
phân biệt và báo cáo trong loạt khác. ghép ở cả 2
nhóm là 0,0%.
Bình luận và kết luận về phương pháp cắt
thận nội soi sau phúc mạc
‐ Với kỹ thuật nối cổ điển bình thường,
theo Zilinska Z. và cs (n=103): huyết khối động
mạch là 4%, xơ hẹp động mạch thận là 10%.,
huyết khối tĩnh mạch là 2,9%(21). Nhiều tác giả
khác cũng gặp vấn đề tương tự.
‐ Kết quả của loạt nghiên cứu này qua
138 TH chuyển vị vì TN thận ngắn và thận phải
6
nối vào bên phải (n=138). Tỉ lệ biến chứng về
mạch máu của nhóm nghiên cứu là 0,0%, là một
khích lệ to lớn cho tính khả thi và sự đơn giản
không phải tạo hình mạch máu với nhiều biến
chứng(13,14).
‐ Công trình có độ chứng cứ khá (mức độ
3) vì đối chứng được với nhóm B (138 TH) là
những trường hợp không chuyển vị vị tĩnh
mạch đủ dài.
‐ So sánh chức năng thận, biến chứng phẫu
thuật giữa nhóm A và B: chức năng thận sau
mổ và tỉ lệ biến chứng như nhau, đã chứng
minh tính khả thi và an toàn của phẫu thuật
chuyển vị mạch máu trong ghép thận có tĩnh
mạch thận ngắn.
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ CỦA PHẪU
THUẬT LICH‐GREGOIR CẢI BIÊN
TRONG CẮM LẠI NIỆU QUẢN GHÉP
VÀO BÀNG QUANG
Đặt vấn đề
Phương pháp cắm lại niệu quản của Lich‐
Grégoir không đặt nòng niệu quản, có tỉ lệ rò
nước tiểu sau mổ lến đế >10%. Cải biên bằng
cách đặt thông nòng niệu quản có thể làm giảm
rò còn <10% nhưng phải gắp nòng niệu quản
bằng một cuộc nội soi. Nội soi trên người dùng
thuốc ức chế miễn dịch làm tăng nguy cơ nhiễm
khuẩn niệu. Vì vậy đặt vấn đề Lich‐Gregoir cải
biên với nòng niệu quản đính vào ống thông
niệu đạo bàng quang; tất cả được rút bỏ 1 lần mà
không cần nội soi bàng quang (10,11).
Phương pháp
Phương pháp nghiên cứu
Mô tả hàng loạt TH lâm sàng.
Đối tượng
Là những người nhận thận, theo tiêu chuẩn
của Bộ Y tế Việt Nam; phù hợp tiêu chuẩn ghép
với người hiến thận.
Tiêu chuẩn loại trừ
Bất hoà hợp ghép, tiền căn phẫu thuật vùng
thận ghép; bệnh nhân từ chối.
Chuyên Đề Ngoại Khoa
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Nội dung phẫu thuật
Sau 1 tuần sẽ rút ống Foley, thông niệu quản
sẽ cùng theo ra, khỏi phải nội soi (lúc đó do
Tổng Quan
dùng thuốc ức chế miễn dịch sẽ dễ nhiễm
khuẩn).
Hình 9: Sơ đồ miêu tả phẫu thuật Lich‐Grégoir cải biên. A. Đặt máy nội soi vào bàng quang tìm tìm đầu thông
Foley. B. Kéo đầu thông niệu đạo ra ngoài. C. Khâu đầu ống thông niệu quản JJ vào đầu ống thông Foley (chỉ
không tan 3.0); D. Khâu nối niệu quản vào niêm mạc bàng quang (chỉ tan 4.0); khâu cơ bàng quang tạo đường
hầm dưới niêm mạc (chỉ tan 2.0). E. Phẫu thuật hoàn thành.
Phẫu thuật Lich‐Giegoir cải biên trong cắm
niệu quản ghép vào bàng quang: sau khi nối
mạch máu vào xong và xả kẹp, thận ghép đã
được tưới máu. Tiến hành cắm lại niệu
quản.Thực hiện như kỹ thuật Lich‐Gregoir chính
danh, có cải biên 2 chi tiết (hình 9 A,B,C,D): đặt
thông JJ (15cm) làm nòng niệu quản; tìm đầu
thông Foley bằng kẹp phẫu tích hay máy nội soi
tại bàn, khâu vào thông niệu quản bằng chỉ
không tan. Đóng lại cơ bàng qung như thường
lệ.
Kết quả
‐ Đặc điểm bệnh nhân: trên 123 TH suy
thận mạn giai đoạn cuối được ghép thận.
‐ Năm 88/123 TH (71,5%), nữ 35/123 TH
(28,5%). Tuổi trung bình 33,7 ± 0,8 tuổi, trong
khoảng [15,61 tuổi].
‐ Dung tích bàng quang trước ghép trung
bình là 152 ± 3,4 ml lớn nhất 300 ml và nhỏ
nhất là 70 ml
Niệu Khoa
‐ 122/123 TH (99,2%) thận được lấy từ
người cho sống, mổ mở 59/123 TH (48% ) và
mổ nội soi 64/123 TH (52%).
‐ Sau ghép: kết quả tốt: 119/123 TH
(96,7%). 4TH (3,3%) bị hoại tử niệu quản do kỹ
thuật cầm máu bằng máy đốt đơn cực., đã
phải mổ lại nối bể thận‐niệu quản gốc (native
ureter) tận‐bên. Siêu âm: 123/123 TH (100,0%)
siêu âm không phát hiện thận và niệu quản
ghép ứ nước hay dãn nở. Biến chứng phẫu
thuật và tử vong do nguyên nhân phẫu thuật:
không có biến chứng về vết mổ và biến chứng
về mạch máu, rò bạch huyết : 4/123 TH (3,3%)
tự khỏi. Biến chứng tiết niệu gần: rò nước tiểu
do hoại tử niệu quản 4/123 TH (3,3%), không
có TH hẹp niệu quản, xoắn niệu quản. Biến
chứng tiết niệu xa: chúng tôi không gặp các
biến chứng niệu xa như: hẹp niệu quản, xoắn
niệu quản, sỏi niệu, ngược dòng bàng quang ‐
niệu quản…Nhiễm khuẩn niệu: 7/123 TH
(5,7%) có nhiễm trùng niệu với sốt ớn lạnh, kết
quả cấy nước tiểu vi trùng cấy cả 7 trường hợp
đều là Pseudomonas aeruginosa, 1/19 TH (0,8%)
7
Tổng Quan
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
xảy ra vào hậu phẫu ngày thứ năm: 5/123 TH
(4,1%), và 1/123TH (0,8%) xảy ra vào hậu phẫu
ngày thứ 8.
‐ Thời gian lưu các ống dẫn lưu: 10,4 ± 0,3
ngày, trong khoảng [7,48 ngày].
‐ Thời gian theo dõi trung bình sau ghép
của 123 bệnh nhân là: 46,7 ± 2,5 tháng, trong
khoảng [1,89 tháng].
Bình luận và kết luận về phương pháp cắm
niệu quản theo kỹ thuật Lich ‐ Grégoir cải
biên
Phẫu thuật cắm niệu quản vào bàng quang
theo kỹ thuật Lich– Grégoir cải biên với thông
JJ làm nòng niệu quản đã làm giảm các biến
chứng niệu ‐ với kết quả tốt là 96,7% và có biến
chứng 3,3%.
Tỷ lệ này thấp so với các tác giả cắm niệu
quản vào bàng quang theo phương pháp Lich‐
Grégoir chính danh (10 ‐ 17%)(1,2,8,9), và tương
đương với các tác giả khác theo phương pháp
Lich‐Grégoir cải biên có đặt thông JJ (0‐10 %).
KẾT LUẬN
‐ Ba nghiên cứu trên đã tạo nên một “cụm”
kỹ thuật cho quy trình ghép thận tại BV Chợ
Rẫy và do một nhóm phẫu thuật viên duy nhất
thực hiện. Vài trường hợp đầu tiên từ 1992‐1998
và các trường hợp do phẫu thuật viên khách
mời không kể trong loạt.
‐ Hiệu quả của từng quy trình trong “cụm”
là khả thi an toàn và hiệu quả:
Hiện nay, trên người cho sống, khi 2 thận có
chức năng bình thường, căn cứ vào kết quả đánh
giá chức năng thận bằng đồng vị phóng xạ, sẽ
chọn cắt thận có chức năng kém hơn để ghép.
Điều đó có nghĩa, người phẫu thuật viên
không còn tự do chọn “thận dễ cắt ”, tức thận
trái, thận có chỉ 1 động mạch... . Một khi đã căn
cứ vào tiêu chí chính là chức năng thận thì có khi
ta phải cắt thận phải, thận có nhiều động mạch
hay dị tật...
Loạt cắt thận nội soi này có đến 35,85% là
thận P, 22,6% có thận nhiều hơn 1 động mạch;
16,9% động mạch chia sớm., 5,6% có bất thường
tĩnh mạch. Đó là sự thể hiện quan điểm giữ lại
thận tốt cho người hiến thận.
Người phẫu thuật viên phải nhận phần khó
về mình, để người cho thận có thể giữ lại thận
tốt hơn và cho đi thận kém hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.
4.
5.
+ Quy trình cắt thận nội soi sau phúc mạc
để ghép.
+ Quy trình xử trí mạch máu trường hợp
tĩng mạch thận ngắn.
+ Quy trình nối niệu quản ghép theo kỹ
thuật Lich‐Gregoir cải biên.
Nhưng có sự hỗ trợ tương đối chặt chẽ: cắt
thận nội soi làm mạch máu ngắn hơn mổ mở,
nhưng nhờ kỹ thuật chuyển vị giúp khắc phục
nhược điểm đó của phẫu thuật nội soi cắt thận
để ghép(6,7,15,18,19).
8
6.
7.
Alihan G, et al (2006). Comparing two ureter reimplantation
techniques in kidney transplant recipients: Transplant Int 19,
p.802–806.
Ashraf AE, et al (2007). Modified extravesical ureteral
reimplantation technique for kidney transplants. Int Urol
Nephrol 39:1005–1009.
Châu Quý Thuận (2012). Phẫu thuật nội soi sau phúc mạc cắt
thận để ghép trên người cho sống tại Bệnh viện Chợ Rẫy.
Luận án Tiến sĩ Y học, Đại học Y Dược thành phố Hồ chí
Minh
Châu Quý Thuận, Trần Ngọc Sinh, Chu Văn Nhuận, Thái
Minh Sâm, Dư Thị Ngọc Thu, Trần Trọng Trí, VÀ CS (2012),
Phẫu thuật nội soi sau phúc mạc cắt thận để ghép từ người
cho sống tại BVCR. Tap chí Y Dược Hoc Quân Sự: Số Đặc biệt
chào mừng 20 năm ghép tạng tại Việt Nam. Tập 37, trang 127‐
131.
Dư Thị Ngọc Thu (2012), Đánh giá kỹ thuật chuyển vị mạch
máu trong ghép thận từ người cho sống vào hốc chậu phải.
Luận án Tiến sĩ Y học, Đại học Y Dược thành phố Hồ chí
Minh.
Dư Thị Ngọc Thu, Trần Ngọc Sinh (2012), Ghép thận vào hốc
chậu phải: Có thể là giải pháp chủ yếu của ghép thận hay
không. Tạp chí Y Học TPHCM : Hội Nghị KHKT Đại học Y
Dược TPHCM lần 29 – Chuyên đề ngoại khoa. Phụ bản tập
16, số 1, trang 375 – 379.
Dư Thị Ngọc Thu, Chu Văn Nhuận, Dương Quang Vũ, Thái
Minh Sâm, Châu Quý Thuận, Hoàng Khắc Chuẩn, Trần
Trọng Trí, Đỗ Quang Minh, Nguyễn Thị Thái Hà, Nguyễn
Trọng Hiền, Nguyễn Minh Quang, Trần Ngọc Sinh, (2010),
Ghép thận vào hốc chậu P với kỹ thuật chuyển vị mạch máu
trong ghép thận tại Bệnh viện Chợ Rẫy. Kỷ yếu công trình
ghép thận Bệnh viện Chợ Rẫy, Nxb Y học chi nhánh TPHCM,
tr. 105‐112.
Chuyên Đề Ngoại Khoa
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
8.
9.
10.
11.
12.
13.
14.
15.
16.
Englesbe MJ (2007). Risk factors for urinary complications
after renal transplantation. Am J Transplant;7: 1536–1541.
Faenza A, et al (2005). Urological complications in kidney
transplantation:
ureterocystostomy
versus
uretero‐
ureterostomy. Transplant Proc, 37, 2518–2520.
Hoàng Khắc Chuẩn (2009), Kết quả thực hiện kỹ thuật Lich‐
Gregoir cải biên trên thận ghép tại bệnh viện Chợ Rẫy. Luận
án chuyên khoa cấp II, Đại học Y Dược thành phố Hồ chí
Minh.
Hoàng Khắc Chuẩn, Trần Trọng Trí , Nguyễn Thị Thái Hà,
Châu Quý Thuận, Đỗ Quang Minh, Dư Thị Ngọcthu, Dương
Thị Kim Cúc, Dương Quang Vũ, Chu Văn Nhuận, Thái Minh
Sâm, Trần Ngọc Sinh (2010), Nội soi hỗ trợ kỹ thuật Lich‐
Gregoir cải biên trên ghép thận tại BVCR. Tạp chí Y Hoc Việt
Nam. 375, 2, 520‐527
Hooghe L, et al (1977). Ureterocystostomy in renal
transplantation: comparison of endo‐ and extravesical
anastomoses: World J.Surg.1, p.231‐235.
Nghiem DD (1989). Spiral Gonadal Vein Graft Extension Of
Right Renal Vein In Living Renal Transplantation. Urologists
At Work, The Journal of Urology, American Urological
Association, INC, Vol. 142, pp. 1525.
Nghiem DD (2008). Use of Spiral Vein Graft in Living Donor
Renal Transplantation. Clinical Transplantation, ch. 22, pp.
719‐721.
Tran NS, Chu VNH, Duong QV, Thai MS, Du TNT, Chau QT,
Hoang KC, Tran TT, Nguyen TTH (2009). Right Iliac Vein
Positioning in Right Renal Grafts. 30th Congress of the Société
Internationale d’Urologie in Shanghai, Urology, vol. 74, supp.
4A, pp. S221.
Tran Ngoc Sinh, Pruvot RF (1994). Choix des voie d’abord et
anastomose vasculaire en transplantation rénale. Mémoire de
17.
18.
19.
20.
21.
Tổng Quan
stage, Departement de Chirugie, hôpital A. Calmette, CHRU
de Lille.
Trần Ngọc Sinh (2012), Ghép thận từ người chết não: Một số
kinh nghiêm ban đầu và những việc cần tiếp tục phát triển tại
BVCR. Tạp chí Y Học TPHCM : Hội Nghị KHKT Đại học Y
Dược TPHCM lần 29 – Chuyên đề ngoại khoa. Chuyên đề
ngoại khoa. Phụ bản tập 16, số 1, trang 398 – 401.
Trần Ngọc Sinh, Chu Văn Nhuận, Dương Quang Vũ, Thái
Minh Sâm, Châu Quý Thuận, Dư Thị Ngọc Thu, Hoàng Khắc
Chuẩn, Trần Trọng Trí , Nguyễn Thị Thái Hà (2012), Những
kinh nghiệm phẫu thuật sau 200 trường hợp ghép thận từ
người cho sống tại BVCR. Tạp chí Y Học TPHCM : Hội Nghị
KHKT Đại học Y Dược TPHCM lần 29 – Chuyên đề ngoại
khoa. Phụ bản tập 16, số 1, trang 387 – 397.
Trần Ngọc Sinh, Chu Văn Nhuận, Dương Quang Vũ, Thái
Minh Sâm, Châu Quý Thuận, Dư Thị Ngọc Thu, Hoàng Khắc
Chuẩn, Trần Trong Trí, Nguyễn Thị Thái Hà (2010), Phẫu
thuật nội soi sau phúc mạc cắt thận để ghép: phương pháp
đơn giản và an toàn”. Y học thành phố Hồ Chí Minh, Tập 14,
Phụ bản số 3, tr. 72‐ 80.
Trần Ngọc Sinh, Ngô Gia Hy VÀ CS (1981), Chỉ định và kết
quả chạy thận nhân tạo trong suy thận cấp do sốt rét ác và do
huyết giải trên bệnh nhân thiếu G6PD. Nội khoa , số 1, 1981.
Zilinska Z, Chrastina M, Trebaticky B, Breza J, Slobodnik L,
Breza J, Bujdak P, Madaric J, Vulev I, Klepanec A (2010).
Vascular complications after renal transplantation”, Clinical
study, Bratisl Lek Listy, 111 (11), pp. 586‐589.
Ngày nhận bài báo
22/11/2013
Ngày phản biện nhận xét bài báo
22/11/2013
Ngày bài báo được đăng
05/01/2014
Niệu Khoa
9