Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Nhiễm trùng ổ bụng sau phẫu thuật nội soi cắt ruột thừa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (323.32 KB, 6 trang )

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012

NHIỄM TRÙNG Ổ BỤNG SAU PHẪU THUẬTNỘI SOI
CẮT RUỘT THỪA
Nguyễn Thanh Phong*

TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Ngày nay, cắt ruột thừa qua nội soi ổ bụng được thực hiện cho hầu hết các trường hợp viêm
ruột thừa cấp tại các bệnh viện. Có sự gia tăng tỉ lệ nhiễm trùng ổ bụng sau cắt ruột thừa nội soi so với mổ mở.
Trong nước chưa có nhiều nghiên cứu về bệnh này.
Mục tiêu nghiên cứu: Kinh nghiệm bước đầu trong chẩn đoán và xử trí nhiễm trùng ổ bụng sau cắt ruột
thừa nội soi.
Phương pháp nghiên cứu: Hồi cứu các trường hợp nhiễm trùng ổ bụng sau cắt ruột thừa nội soi từ tháng
1/2010 đến tháng 5/2011.
Kết quả: 18 trường hợp nhiễm trùng ổ bụng sau cắt ruột thừa nội soi được điều trị tại khoa HSCC bệnh
viện Bình Dân, có 10 nữ, 8 nam, ngày hậu phẫu trung bình 10,3 (4-21). Kích thước ổ nhiễm trùng trung bình
37,5mm (2-94mm).Có 4 TH phải mổ lại qua nội soi dẫn lưu ổ tụ dịch, 2 TH mổ mở cắt mỏm ruột thừa còn sót, 1
TH chọc hút dẫn lưu qua siêu âm, 11 TH điều trị nội.
Kết luận: Nhiễm trùng ổ bụng sau cắt ruột thừa nội soi xảy ra vào thời gian hậu phẫu. Đa số đáp ứng điều
trị nội. Can thiệp phẫu thuật khi ổ nhiễm trùng lớn 50mm.
Từ khóa: Cắt ruột thừa qua nội soi, nhiễm trùng ổ bụng, mỏm ruột thừa.

ABSTRACT
INTRA-ABDOMINAL INFECTIONS AFTER LAPAROSCOPIC APPENDECTOMY
Nguyen Thanh Phong* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 1 - 2012: 173 – 178
Background: Laparoscopic appendectomy is used for almost acute appendicitis at hospitals. There is an
increased rate of intra-abdominal infections after laparoscopic appendectomy (LA) compared with open
appendectomy (OA).There have been no reports this in medical researches.
The aim of the study: We report our experiences in diagnosis and treatment intra-abdominal infections


after laparoscopic appendectomy
Methods: We completed a retrospective all patients with intra-abdominal infections undergone LA for acute
appendicitis treated at Binh Dan hospital from January 2010 to May 2011.
Results: We retrospectively analyzed 18 patients; there are 10 females and 8 males. It happened in 10.3th (421) postoperative laparoscopic appendectomy. The average diameter intra-abdominal infections were 37.5mm (294mm). There were 4 cases drainage laparoscopic, 2 cases laparotomy to cut residual stump appendix, there was a
case drainage percutaneous under ultrasound guiding. The others were successful with medical treatment.
Conclusions: Intra-abdominal infections after laparoscopic appendectomy happened in early postoperative
time. Almost cases were successful with medical treatment. Operative in intra-abdominal infection’s diameter
over 50mm.


ĐHY Dược TP Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: TS. Nguyễn Thanh Phong

174

ĐT: 0903643310

Email: ,

Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2012


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012

Nghiên cứu Y học

Keywords: Laparoscopic appendectomy, intra-abdominal infections, residual stump appendix
Đau bụng
Sốt
Phản ứng thành bụng

Khối u hố chậu P căng đau

ĐẶT VẤN ĐỀ
Cắt ruột thừa là một trong những phẫu
thuật thường gặp nhất tại các bệnh viện hiện
nay. Đã có nhiều báo cáo chứng tỏ cắt ruột thừa
nội soi có nhiều ưu điểm hơn so với mổ mở.
Tuy nhiên, những thách thức hiện nay mà phẫu
thuật nội soi phải đối mặt là thời gian mổ kéo
dài và tăng tỉ lệ nhiễm trùng ổ bụng sau mổ.
Nhiều nghiên cứu(2,5,19) gần đây cho thấy có sự
gia tăng tỉ lệ nhiễm trùng ổ bụng sau cắt ruột
thừa nội soi so với mổ mở. Trong nước chưa có
nhiều nghiên cứu về vấn đề này.

Mục tiêu nghiên cứu
Nhằm nêu kinh nghiệm bước đầu trong
chẩn đoán và xử trí nhiễm trùng ổ bụng sau cắt
ruột thừa nội soi.

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu hồi cứu 18 trường hợp nhiễm
trùng ổ bụng sau cắt ruột thừa nội soi được điều
trị tại khoa hồi sức cấp cứu bệnh viện Bình Dân
từ tháng 1/2010 đến tháng 5/2011.

KẾT QUẢ
Có 10 bệnh nhân nữ: 8 bệnh nhân nam
Thời gian hậu phẫu trung bình sau mổ nội
soi cắt ruột thừa là 10,3 ngày (4-21 ngày)

Ngày điều trị trung bình 8 (4-20 ngày)
Số bệnh nhân được mổ tại bệnh viện Bình
Dân là 11. Trong thời gian này chúng tôi có 1786
TH cắt ruột thừa nội soi, như vậy tỉ lệ nhiễm
trùng ổ bụng sau cắt ruột thừa nội soi tại bệnh
viện chúng tôi là 0,6%

Tất cả bệnh nhân đều nhập viện vì đau bụng
cấp, sốt và có phản ứng thành bụng vùng hố
chậu P khi khám. Có 2 (11,1%) TH có khối u hố
chậu P căng đau.
Công thức máu có số lượng bạch cầu tăng
trên 9000 trong 17 trường hợp, bạch cầu trung
bình là 13044 (thay đổi 6800-17900). Chủ yếu là
bạch cầu đa nhân trung tính.
Siêu âm bụng được thực hiện cho 17 bệnh
nhân. 1 TH siêu âm không bất thường. 6 TH
phát hiện khối echo hỗn hợp vùng hố chậu P
với kích thước trung bình 37,5mm (2-94mm), 9
TH có dịch giữa các quai ruột vùng hố chậu P
và 1 TH có dịch túi cùng Douglas.
CTscan bụng được thực hiện cho 8 bệnh
nhân, 7 TH có kết quả là ổ apxe vùng hố chậu P
với kích thước trung bình 13,28 mm (2-32 mm), 1
TH không bất thường.
Bảng 3. Điều trị
Cách xử trí
Nội soi dẫn lưu ổ tụ dịch
Mổ mở cắt mỏm ruột thừa còn sót
Chọc hút dẫn lưu dưới hướng dẫn siêu âm

Nội khoa

Bảng 4. Kết quả cấy dịch ổ bụng nhiễm trùng
Vi trùng
E. coli
Enterobacter sakazakii
Vi trùng không mọc

Bảng 1. Tình trạng ruột thừa lúc mổ
Số ca (%)
3 (16,6%)
6 (33,3%)
1 (5,5%)
1 (5,5%)
7 (38,8%)

Bảng 2. Triệu chứng lâm sàng
Các triệu chứng

Số lượt

Số ca (%)
4 (22,2%)
2 (11,1%)
1 (5,5%)
11(61,1%)

Có 5 TH được nội soi ổ bụng thám sát kết
quả là có 4 TH phát hiện ổ tụ dịch được tiến
hành dẫn lưu, 1 TH phát hiện còn sót mỏm ruột

thừa được chuyển mổ mở cắt mỏm ruột thừa.

Có 7 TH được mổ ở bệnh viện khác
Tình trạng ruột thừa lúc mổ
Ruột thừa sung huyết
Mưng mủ
Hoại tử
Vỡ
Không xác định

18
18
18
2

Số ca (%)
1 (14,2%)
1 (14,2%)
5 (71,4%)

BÀN LUẬN
Cắt ruột thừa là một trong những phẫu
thuật thường gặp nhất tại các bệnh viện hiện
nay. Trong khi các phẫu thuật khác như cắt túi
mật nội soi cho thấy có kết quả vượt trội so với
mổ mở thì những thuận lợi hơn của cắt ruột

Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2012

175



Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012

thừa nội soi so với mổ mở chưa được chứng
minh rõ(19).
Đã có nhiều nghiên cứu chứng tỏ cắt ruột
thừa nội soi thì ưu điểm hơn cắt ruột thừa mổ
mở. Tuy nhiên, nhiều báo cáo gần đây cho thấy
có sự gia tăng tỉ lệ nhiễm trùng ổ bụng sau cắt
ruột thừa nội soi so với mổ mở(2,5,19).
Nghiên cứu của Sauerland(17) cho thấy tỉ lệ
nhiễm trùng vết mổ là gần một nửa và áp xe
trong ổ bụng sau cắt ruột thừa nội soi nhiều gấp
3 lần so với mổ mở. Nguyên nhân của sự tăng tỉ
lệ này trong cắt ruột thừa nội soi thì không rõ,
có nhiều nghiên cứu mở rộng về những đặc
điểm miễn dịch của bệnh nhân được cắt ruột
thừa nội soi tuy nhiên kết quả của những
nghiên cứu này cho đến nay vẫn còn nhiều đối
lập(16).
Nhiễm trùng trong ổ bụng sau cắt ruột thừa
là biến chứng nặng nề của phẫu thuật nội soi, tỉ
lệ nhiễm trùng ổ bụng sau mổ của cắt ruột thừa
nội soi trong nghiên cứu gần đây là 3,6%(1). So
với nghiên cứu của Ivatory(9) từ 3,3% đến 4,5%.
Tang(20) có 11% bệnh nhân bị nhiễm trùng
trong ổ bụng sau cắt ruột thừa nội soi cho các

ruột thừa vỡ so với 3% trong mổ mở.
Bonanni(2), có 2/66 (3%) bệnh nhân cắt ruột
thừa mở bị nhiễm trùng trong ổ bụng so với
3/11(27%) bệnh nhân trong cắt ruột thừa nội soi.
Theo Rohit(16) tỉ lệ nhiễm trùng trong ổ bụng
sau cắt ruột thừa nội soi là 1,14%. Của chúng tôi
là 0,6%.
Nguyên nhân: Có nhiều nguyên nhân làm
tăng tỉ lệ nhiễm trùng trong ổ bụng sau cắt ruột
thừa nội soi đặc biệt là cho các ruột thừa vỡ:
dịch nhiễm trùng có thể lan khắp khoang bụng
khi bơm hơi và lẽ ra khi đó các ổ nhiễm trùng sẽ
hiện diện khắp trong ổ bụng. Tuy nhiên, trong
hầu hết các nghiên cứu các ổ nhiễm trùng đều
khu trú ở hố chậu P(19). Một khả năng khác là
trong mổ mở, ruột thừa được cắt bên ngoài ổ
bụng và vùi gốc làm giảm khả năng lây nhiễm
khoang phúc mạc, khác với cắt ruột thừa nội soi
ruột thừa được bóc tách và cắt trong khoang
phúc mạc.

176

Nhiều báo cáo gần đây trong y văn cho thấy
có sự gia tăng nhiễm trùng trong ổ bụng sau mổ
những ruột thừa có hoại tử sử dụng kỹ thuật nội
soi. Frazee(5) hồi cứu 15 TH ruột thừa hoại tử và
19 TH ruột thừa vỡ được cắt nội soi có 7%
nhiễm trùng trong ổ bụng sau mổ ở nhóm ruột
thừa hoại tử và 26% ở nhóm ruột thừa vỡ.

Bảng 5. Tỉ lệ nhiễm trùng ổ bụng
(14)

Pedersen
Số bệnh
nhân LA
Tỉ lệ
nhiễm
trùng
trong ổ
bụng

(11)

(16)

(19)

Long

Rohit

Stacy

232

78

175


140

Chúng
tôi
1786

5,6%

5,1%

1,14%

6,4%

0,6%

Tương tự, trong 1786 ca mổ ruột thừa nội soi
tại bệnh viện chúng tôi trong thời gian nghiên
cứu có 11 TH nhiễm trùng ổ bụng chiếm tỉ lệ
0,6%.
Một nguyên nhân khác cũng được đề cập
đến là còn sót mỏm ruột thừa khi mổ nội soi.
Nhiều phẫu thuật viên cho rằng cắt ruột thừa
qua nội soi có tỉ lệ để lại mỏm ruột thừa cao
hơn mổ mở. Tuy nhiên, theo nghiên cứu của
Liang(10), chỉ có 34% bệnh nhân bị viêm mỏm
ruột thừa được cắt ruột thừa nội soi trước đó.
Chúng tôi có 2 (28,4%) TH còn sót mỏm ruột
thừa khi mổ nội soi.


Sinh bệnh học
Nhiễm trùng ổ bụng sau sau cắt ruột thừa
nội soi là tình trạng nhiễm trùng khu trú hố
chậu phải, được cô lập bởi sự viêm dính mạc nối
lớn hay các tạng lân cận. Ổ tụ dịch nhiễm trùng
thường có vi khuẩn yếm khí và hiếu khí của
đường tiêu hoá. Vi khuẩn trong khoang phúc
mạc, đặc biệt là vi khuẩn từ đại tràng, kích thích
hiện tượng viêm cấp tính. Mạc nối lớn và tạng
lân cận có khuynh hướng cô lập ổ nhiễm trùng
tạo tình trạng viêm tấy, gây tình trạng thiếu oxy
tạo điều kiện cho vi khuẩn yếm khí tăng sinh
gây cản trở tế bào hạt diệt khuẩn. Nếu không
điều trị vi khuẩn càng tăng sinh có thể gây
nhiễm khuẩn huyết hay sốc.

Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2012


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012

Nghiên cứu Y học

Sự hình thành ổ tụ dịch nhiễm trùng trong ổ
bụng sau phẫu thuật ngày càng nổi bật và đặt ra
nhiều vấn đề trong phòng ngừa và xử trí. Tình
trạng này thường kèm theo hiện tượng viêm
dính vùng hố chậu phải, điều này có thể dẫn
đến tắc ruột mà đôi khi phải mổ để gở dính sau
này. Việc làm sạch ổ bụng sau phẫu thuật nội

soi theo lý thuyết làm giảm nguy cơ tụ dịch
nhiễm trùng trong ổ bụng từ đó làm giảm nguy
cơ dính ruột sau mổ.

khi có hạn chế khi bệnh nhân bị trướng bụng,
liệt ruột, hay có nhiều hơi trong ruột. Chúng
tôi có 17 bệnh nhân được thực hiện siêu âm
bụng. 1 TH siêu âm không bất thường. 6 TH
phát hiện khối echo hỗn hợp vùng hố chậu P
với kích thước trung bình 37,5mm (2-94mm), 9
TH có dịch giữa các quai ruột vùng hố chậu P
và 1 TH có dịch túi cùng Douglas. Siêu âm
giúp chẩn đoán tình trạng nhiễm trùng trong
ổ bụng trong 16/17 (94,1%) TH.

Qua nhiều trường hợp được điều trị tại
khoa hồi sức cấp cứu tại bệnh viện Bình Dân
chúng tôi nhận thấy tụ tụ dịch nhiễm trùng
trong ổ bụng sau cắt ruột thừa nội soi đều
khu trú ở hố chậu phải.

Nếu tình trạng bệnh nhân ổn định thì CT
scan là phương tiện được chọn trong hầu hết
trường hợp, CT có thể phát hiện lượng dịch
nhỏ,viêm dính, còn sót mỏm ruột thừa,với độ
nhạy cao(12). Chúng tôi có 8 bệnh nhân được
thực hiện CT, 7 TH kết quả là ổ nhiễm trùng
vùng hố chậu P với kích thước trung bình 13,28
mm (2-32 mm), 1 TH không bất thường. Như
vậy CT giúp chẩn đoán tình trạng nhiễm trùng

trong ổ bụng trong 6/7 (85,7%) TH.

Chẩn đoán
Bệnh nhân bị nhiễm trùng trong ổ bụng sau
phẫu thuật nội soi cắt ruột thừa nếu phát hiện
và xử trí sớm thì sẽ giảm thiểu biến chứng và tử
vong(4).

Đặc điểm lâm sàng
Chẩn đoán nhiễm trùng ổ bụng sau mổ cắt
ruột thừa thường khó khăn do dùng thuốc giảm
đau và kháng sinh sau mổ gây che lấp triệu
chứng đau bụng, sốt và tăng bạch cầu. Lâm sàng
có nhiều thay đổi: đau liên tục, khối u hố chậu
phải căng đau, phản ứng thành bụng hố chậu
phải, sốt cao dao động, liệt ruột sau mổ kéo dài,
tăng bạch cầu. Nếu ổ nhiễm trùng nằm sâu các
dấu hiệu này có thể không có và chỉ có triệu
chứng sốt kéo dài, rối loạn tiêu hoá. Điều này
cũng phù hợp với nghiên cứu của chúng tôi,
bệnh nhân nhập viện trong thời gian hậu phẫu
đa số có triệu chứng đau bụng cấp, sốt và có
phản ứng thành bụng vùng hố chậu P khi khám.
Có 2 (11,1%) TH có khối u hố chậu P căng đau.
Chẩn đoán hình ảnh
Những tiến bộ của phương tiện chẩn đoán
hình ảnh gần đây đã giúp chẩn đoán sớm và can
thiệp điều trị những trường hợp nhiễm trùng ổ
bụng sau mổ.
Siêu âm là phương tiện thích hợp trong

xác định nhiễm trùng trong ổ bụng nhưng đôi

Nội soi ổ bụng chẩn đoán ngày càng được
sử dụng nhiều trong việc xác định nguyên nhân
đau bụng sau mổ cắt ruột thừa nội soi, qua đó
có thể kết hợp xử trí thương tổn. Chúng tôi có 5
TH được nội soi ổ bụng thám sát kết quả là có 4
TH phát hiện ổ tụ dịch được tiến hành dẫn lưu,
1 TH phát hiện còn sót mỏm ruột thừa được
chuyển mổ mở cắt mỏm ruột thừa.
Tình trạng ruột thừa trong lần mổ trước:
nhiễm trùng trong ổ bụng là biến chứng nặng
sau phẫu thuật cắt ruột thừa. Nguy cơ này càng
tăng tuỳ thuộc mức độ thương tổn giải phẫu
bệnh của ruột thừa khi mổ. Theo Ried(15) ruột
thừa hoại tử hay vỡ có tỉ lệ nhiễm trùng trong ổ
bụng sau cắt ruột thừa là 7,5%. Có nhiều ý kiến
khác nhau cho rằng có phải cắt ruột thừa nội soi
(LA) làm tăng nguy cơ nhiễm trùng trong ổ
bụng sau mổ.
Tang(20) có 11% bệnh nhân bị nhiễm trùng
trong ổ bụng sau cắt ruột thừa nội soi cho các
ruột thừa vỡ so với 3% trong mổ mở. Bonanni(2),
có 2/66 (3%) bệnh nhân cắt ruột thừa mở cho
ruột thừa có biến chứng bị nhiễm trùng trong ổ
bụng so với 3/11(27%) trong cắt ruột thừa nội

Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2012

177



Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012

soi. Chúng tôi có 1 (5,5%) TH ruột thừa hoại tử
và 1 (5,5%) TH vỡ so với 9 (49,9%) TH ruột thừa
sung huyết và mưng mủ. 7 TH khác được
chuyển viện nên không xác định được tình
trạng ruột thừa khi mổ. Trong nghiên cứu này, tỉ
lệ nhiễm trùng trong ổ bụng là 0,6%, không
nhiều sau phẫu thuật nội soi cắt ruột thừa. Chỉ
có 2 bệnh nhân nhiễm trùng ổ bụng trong
nghiên cứu này lúc phẫu thuật là ruột thừa hoại
tử và ruột thừa vỡ.
Theo Pedersen(14) những bệnh nhân bị ruột
thừa hoại tử hay vỡ có nguy cơ cao nhiễm trùng
trong ổ bụng và không nên cắt ruột thừa nội soi
và tác giả cũng nhấn mạnh rằng cũng có liên
quan đến kinh nghiệm của phẫu thuật viên nội
soi. Tuy nhiên cho đến nay điều này vẫn chưa
có chứng cứ đáng tin cậy(16). Vì vậy, nguyên
nhân nhiễm trùng ổ bụng sau phẫu thuật nội soi
cắt ruột thừa so với mổ mở phải được xem là có
liên quan đến những đặc trưng của phẫu thuật
nội soi hay là do áp dụng những kỹ thuật đặc
biệt trong phẫu thuật cắt ruột thừa(16).
Điều trị: bệnh nhân nhiễm trùng trong ổ
bụng sau phẫu thuật nội soi cắt ruột thừa bao

gồm xử trí nguồn gây nhiễm và kháng sinh.
Bởi vì những ổ tụ dịch lớn có khả năng vỡ
gây viêm phúc mạc toàn thể, nhiễm trùng huyết,
tắc ruột hay rò tiêu hoá nên những ở tụ dịch có
kích thước 50-70 mm nên được điều trị dẫn lưu.
Chọn lựa cách điều trị thích hợp nhất và
không nên cứng nhắc với câu hỏi dẫn lưu hay
không dẫn lưu. Trước tiên cần phải đánh giá
toàn bộ tình trạng của bệnh nhân bao gồm sinh
hiệu, các xét nghiệm thường qui và chuẩn bị cẩn
thận những yêu cầu điều trị tốt nhất cho bệnh
nhân dựa trên những kiến thức và điều kiện
hiện có của bệnh viện.
Sử dụng kháng sinh theo kinh nghiệm hay
theo y văn, cho ruột nghĩ ngơi và nuôi dưỡng
tĩnh mạch, chọc hút dẫn lưu dưới hướng dẫn
của siêu âm hay CT.
Nhiều nghiên cứu ủng hộ điều trị nội khoa
bảo tồn(8), và cho rằng nên điều trị nội khoa
những ổ nhiễm trùng có đường kính < 40 mm và

178

chọc hút ổ tụ dịch bằng catheter qua da khi ổ
nhiễm trùng có đường kính trung bình 65 mm.
Đa số bệnh nhân (61,1%) của chúng tôi được
điều trị nội bảo tồn cho kết quả tốt.
Cách điều trị tốt nhất tụ dịch sau mổ cắt ruột
thừa nội soi là chọn lựa phương pháp xâm hại
tối thiểu nhằm giải quyết triệu chứng lâm sàng.

Dẫn lưu bằng mổ mở nên tránh do làm tăng tỉ lệ
biến chứng và tử vong(13,21). Chọc hút và dẫn lưu
qua da cho kết quả thành công 85-95%(1). Chọc
hút dẫn lưu qua da dưới hướng dẫn của siêu âm
hay CT thì an toàn và hiệu quả.
Nhiều nghiên cứu khác cho rằng phẫu thuật
là quan trọng nhất trong điều trị nhiễm trùng
trong ổ bụng sau phẫu thuật nội soi cắt ruột
thừa(12). Chọn lựa chọc hút dẫn lưu hay phẫu
thuật tùy thuộc lâm sàng. Theo Gervais(7)
khuyên các ổ nhiễm trùng trong ổ bụng nên
được dẫn lưu bằng catheter qua da vì tỉ lệ thành
công cao và biến chứng thấp.
Theo Deveney(3) dẫn lưu ổ tụ dịch bằng
catheter qua da là chọn lựa đầu tiên. Mặc dù có
nhiều nghiên cứu cho rằng có đến 50% bệnh
nhân được dẫn lưu ổ tụ dịch bằng catheter. Ổ tụ
dịch sau khi cắt ruột thừa gần đây thì nên chọc
hút qua da khi vách của ổ tụ dịch đã trưởng
thành, nếu có dấu hiệu phản ứng thành bụng
hay có kèm xuất huyết thì chỉ định can thiệp
phẫu thuật cấp cứu, nếu ổ tụ dịch < 30 mm thì
có thể điều trị thử bằng kháng sinh hay kết hợp
với chọc hút.
Chúng tôi chỉ có 1/7(14,3%) TH dẫn lưu qua
da dưới hướng dẫn siêu âm là do các trường
hợp còn lại có tình trạng viêm dính nhiều vùng
hố chậu P ruột bao quanh ổ tụ dịch có nguy cơ
thủng ruột khi chọc hút dẫn lưu.
Cũng theo Deveney(3) tỉ lệ mổ dẫn lưu ổ tụ

dịch thay đổi từ 50-60% theo tác giả nên mổ khi
bệnh nhân có 1 ổ tụ dịch kích thước > 50mm,
thời gian nằm viện > 60 ngày và không nên mổ
khi có nhiều ổ tụ dịch kích thước nhỏ và đáp
ứng điều trị nội.
Tùy theo kinh nghiệm của phẫu thuật viên
hay điều kiện hiện có tại bệnh viện, tùy thuộc

Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2012


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
vào tính chất của ổ tụ dịch như: kích thước,
cấu trúc xung quanh, có hơi bên trong hay
xung quanh hay không. Nói chung nguyên
tắc cơ bản là chọn lựa đường tiếp cận ổ tụ
dịch ngắn nhất, ít ảnh hưởng các cơ quan lân
cận và tránh lây nhiễm những vùng vô trùng
khác trong xoang bụng.
Có nhiều cách tiếp cận ổ tụ dịch như qua hố
chậu P, trực tràng, âm đạo hay qua phúc mạc(18).
Nguyên tắc chung theo thứ tự là tránh lây
nhiễm, theo nguyên tắc này thì qua ngã thành
bụng hố chậu phải hay qua âm đạo là chọn lựa
đầu tiên. Còn đường qua phúc mạc được chọn
lựa khi bệnh nhân được phẫu thuật nội soi trước
đó. Chúng tôi có 4 (22,2%) TH được mổ dẫn lưu
qua nội soi do bệnh nhân vừa được phẫu thuật
nội soi trước đó.
Cấy dịch tìm vi khuẩn: 2 (28,4%) TH vi

khuẩn được phân lập từ ổ tụ dịch trong nghiên
cứu của chúng tôi là trực khuẩn gram âm hiếu
khí, điều này cũng phù hợp với nghiên cứu của
các tác giả khác(3,9). Có 5 (71,4%) TH cấy hiếu khí
không có vi trùng mọc.
Theo nhiều nghiên cứu tỉ lệ tử vong trong
điều trị nhiễm trùng trong ổ bụng sau phẫu
thuật nội soi cắt ruột thừa thay đổi từ 17-30%(9),
theo Fry(6) tử vong là do suy đa tạng, nhiễm
trùng huyết, nhiễm trùng tái phát hay kéo dài,
nhiều ổ nhiễm trùng hay trên 50 tuổi, và apxe
dưới hoành làm tăng nguy cơ tử vong. Trong
nghiên cứu chúng tôi không có trường hợp tử
vong.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

2.
3.
4.
5.
6.
7.

8.

9.
10.


11.

12.
13.

14.

15.

16.
17.

KẾT LUẬN
18.

Nhiễm trùng ổ bụng sau cắt ruột thừa nội
soi xảy ra vào thời gian hậu phẫu. Đa số đáp
ứng điều trị nội. Chọc hút ổ tụ dịch dưới hướng
dẫn siêu âm là an toàn và hiệu quả, giải quyết
triệu chứng và rút ngắn thời gian nằm viện, chỉ
định cho những ổ tụ dịch có kích thước nhỏ hơn
50 mm. Can thiệp phẫu thuật khi ổ nhiễm trùng
lớn 50mm và không đáp ứng điều trị bảo tồn.

Nghiên cứu Y học

19.

20.


21.

Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2012

Aziz O, Athanasiou T, Tekkis P, (2006). Laparoscopic versus
open appendectomy in children: A metaanalysis. Annals of
Surgery. 243: 17-27.
Bonanni F, Reed III J, Hartzell G (1994). Laparoscopic versus
conventional appendectomy. J Am Coll Surg.179: 273-278.
Deveney C, Lurie K, Deveney K (1988). Improved treatment of
intraabdominal abscess. Arch Surg. 123: 1126-1130.
Emmi V et al (2008). Diagnosis of intra-abdominal infections:
Clinical findings and imaging. Infez Med. 16(1): 19-30.
Frazee R, Bohannon W (1996). Laparoscopic appendectomy for
complicated appendicitis. Arch Surg.131: 509-512.
Fry D, Garrison R, Heitsch R (1980). Determinants of death in
patients with intraabdominal abscess. Surgery. 88: 517-523.
Gervais D, Brown S, Connolly S (2004). Percutaneous imagingguided abdominal and pelvic abscess drainage in children.
Radiographics. 24(3): 737-754.
Gorenstein A, et al (1994). Post appendectomy intra- abdominal
abscess: a therapeutic approach. Archives of Diseases in
Childhood. 70(5): 400-402.
Ivatory R, et al (1988). Intraabdominal abscess after penetrating
abdominal trauma. J Trauma. 28: 1238 - 1243.
Liang M, Lo H, Marks J (2006). Stump appendicitis: A
comprehensive review of literature. The Amer Surg. 72: 162–
166.
Long K, Bannon M, Zietlow S (2001). A prospective randomized
comparison of laparoscopic appendectomy with open
appendectomy: clinical and economic analysis. Surgery. 129: 390400.

Massimo S (2010). A focus on intra-abdominal infections. Journal
of Emergency Surgery. 5: 9-29.
Olak J, Christou N, Stein L (1986). Operative vs. percutaneous
drainage of intraabdominal abscesses: comparison of morbidity
and mortality. Arch Surg 121(2): 141-146.
Pedersen A, Petersen O, Wara P (2001). Randomized controlled
trial of laparoscopic verus open appendectomy. Br J Surg. 88:
200-205.
Reid R, Dobbs B, Frizelle F (1999). Risk factors for postappendectomy intra- abdominal abscess. Australian and New
Zealand Journal of Surgery. 69(5): 373-374.
Rohit G; et al (2006). Infectious complications following
laparoscopic appendectomy. Can J Surg, Vol. 49(6): 397-400.
Sauerland S, Lefering R, Neugebauer E (2002). Laparoscopic
versus Open Appendectomy: Between Evidence and Common
Sense. Dig Surg. 19: 518-522.
Sperling D, Needleman L, Eschelman D (1998). Deep pelvic
abscesses: Transperineal US-guided drainage. Radiology. 208(1):
111-115.
Stacy L. Krisher, Allen B (2001). Intra-abdominal Abscess After
Laparoscopic Appendectomy for Perforated Appendicitis. Arch
Surg.VOL 136: 438-441.
Tang E, Ortega A, Anthone G (1996). Intraabdominal abscesses
following laparoscopic and open appendectomies. Surg
Endosc.10: 327-328.
Van S, Ferrucci J, Mueller P (1982). Percutaneous drainage of
abscesses and fluid collections: techniques, results and
applications. Radiology.151: 337-341.

179




×