Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

So sánh hiệu lực ivermectin với albendazole trong điều trị bệnh nhân nhiễm ấu trùng giun lươn strongyloides stercoralis

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (399.96 KB, 8 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 

Nghiên cứu Y học

SO SÁNH HIỆU LỰC IVERMECTIN VỚI ALBENDAZOLE  
TRONG ĐIỀU TRỊ BỆNH NHÂN NHIỄM ẤU TRÙNG GIUN LƯƠN 
STRONGYLOIDES STERCORALIS 
Huỳnh Hồng Quang*, Nguyễn Văn Chương* 
TÓM TẮT 

Đặt vấn đề: Bệnh ấu trùng giun lươn (ATGL) gây ra bởi Strongyloides stercoralis hiện đang có mặt khắp 
các vùng nhiệt đới. Bệnh được xem là vấn đề y tế quan trọng bởi chu trình tự nhiễm có thể dẫn đến hội chứng 
tăng nhiễm và lan tỏa toàn thân trên các cơ địa suy giảm miễn dịch.  
Mục tiêu: Nghiên cứu nhằm tiến hành so sánh hiệu lực thuốc albendazole liệu trình 14 ngày với liều duy 
nhất của ivermectin trên các bệnh nhân nhiễm ATGL. 
Phương pháp: Thiết kế thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên mở có đối chứng với cỡ mẫu mỗi nhóm là 27 và 
theo dõi đến 6 tháng, tại Viện Sốt rét KST‐CT Quy Nhơn.  
Kết  quả: Tổng số 62 bệnh nhân đưa vào phân tích (gồm 30 bệnh nhân dùng ivermectin và 32 bệnh nhân 
dùng abendazole). Đặc biệt trên một số ca có ít nhất một bệnh lý kèm như đái tháo đường, ung thư, vảy nến, lao. 
Biểu hiện lâm sàng trên đường tiêu hóa là đau bụng không điển hình chiếm 50 ‐ 60% trên 2 nhóm, tam chứng ấu 
trùng di chuyển gặp trên 80% số ca, bạch cầu ái toan tăng 93% và 100% số ca có ELISA dương tính. Tại thời 
điểm 3 tháng sau điều tị, tỷ lệ chữa khỏi lần lượt là 84,6% (nhóm IVM) và 53,3% (nhóm ALB) và tỷ lệ chữa khỏi 
sau 6 tháng là 95,8% (nhóm IVM) và 77,8% (nhóm ALB), sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Không có tác dụng 
ngoại ý nghiêm trọng xảy ra liên quan đến thuốc ở các nhóm điều trị.  
Kết  luận: Nghiên cứu này xác định hiệu lực thuốc ivermectin liều duy nhất có hiệu quả hơn albendazole 
liều cao kéo dài trong điều trị giun lươn.  
Từ khóa: Strongyloides stercoralis, hiệu lực, Ivermectine, Albendazole. 
ABSTRACT  

A COMPARISION OF THE EFFICACY OF IVERMECTIN AND ALBENDAZOLE IN TREATMENT 
FOR STRONGYLOIDES STERCORALIS PATIENTS 


Huynh Hong Quang, Nguyen Van Chuong 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 6‐ 2014: 253 ‐ 260 
Background:  Strongyloidiasis  causes  by  Strongyloides  stercoralis.  It  is  common  in  all  over  the  tropical 
countries. Strongyloidiasis remains an important health problem due to autoinfection, which may result in hyper 
infection and disseminated infection in immunosuppressed patients.  
Objectives: Study aims to compare the efficacy of 14‐day course treatment of oral albendazole of 15mg/kg 
daily with a single dose (200 microgram/kg) of ivermectin in patients with strongyloidiasis. 
Methods: A randomized controlled clinical trial study was conducted. The sample size in each group was 27 
cases and followed up to 6 months at the clinic of Institute of Malariology, Parasitology, and Entomology Quy 
Nhon. 
Result:  Total  of  62  patients  was  included  in  the  analysis  (30  patients  in  single  dose  ivermectin,  and  32 
patients in 14‐day dose albendazole group). Especially, some cases had at least one concomitant disease, such as 
diabetes mellitus, tuberculosis, cancer and sporiasis. Fifty to sixty percent of clinical manifestations on digestive 
* Viện Sốt rét KST‐CT Quy Nhơn 
Tác giả liên lạc: Ts. Huỳnh Hồng Quang 

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 

ĐT: 0905103496 

Email:  

253


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014

tract  were  atypical  abdominal  pain  in  2  groups.  The  cutaneous  larva  migrans  triad  presented  in  over  80%  of 

cases. The increased eosinophile was 93% and 100% cases had seropositive antibody. After 3 months of treatment, 
the  clinical  and  paraclinical  cured  rates  were 84.6% (IVM group) and 53.3%  (ALB group), respectively. And 
after 6 months, cured rates were 95.8% (IVM) and 77.8% (ALB group). The difference between two groups was 
statisticalsignificance.No serious adverse event related to treatment was found in any of groups.  
Conclusion: This study confirmed that an oral single ivermectin was more effective than a 14‐day course of 
high dose albendazole for patients with S. stercoralis infection.  
Key words: Strongyloides stercoralis, efficacy, Ivermectine, Albendazole. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 

Đối tượng nghiên cứu 

Ấu trùng giun lươn Strongyloides stercoralis là 
1 trong những bệnh nhiệt đới bị lãng quên, song 
lại là vấn đề y tế công cộng quan trọng do tính 
chất tự nhiễm có thể dẫn đến tăng nhiễm và tử 
vong  trên  một  số  ca(4).  Bệnh  lưu  hành  tại  các 
quốc gia và vùng lãnh thổ nhiệt đới và cận nhiệt 
đới và một số ca xuất hiện ở vùng ôn đới được 
báo cáo gần đây(7). Với số liệu thống kê chưa đầy 
đủ, khoảng từ 30 ‐ 100 triệu người trên thế giới 
nhiễm, mắc phải thông qua con đường tiếp xúc 
trực  tiếp  với  nguồn  đất  nhiễm  mầm  bệnh  liên 
quan đến các hoạt động vui chơi và nuôi trồng.  

Bệnh  nhân  mắc  ấu  trùng  giun  lươn 
Strongyloidesspp. chưa biến chứng. 

Như  các  bệnh  giun  truyền  qua  đất  khác, 
nguy cơ nhiễm bệnh liên quan đến điều kiện vệ 
sinh  khiến  cho  trẻ  là  nhóm  đối  tượng  dễ  mắc 

bệnh  hơn  cả.  ATGL  thường  được  chẩn  đoán 
thiếu  sót  do  nhiều  ca  không  biểu  hiện  triệu 
chứng,  một  phần  là  phương  pháp  chẩn  đoán 
thiếu  độ  nhạy.  Nhiễm  trùng  mạn  tính  vì  thế  sẽ 
trở nên nghiêm trọng và hiện chưa có chiến lược 
phòng  chống  bệnh  tích  cực  trên  quy  mô  toàn 
cầu(7,4).  Về  mặt  điều  trị,  ATGL  có  thể  nhạy  với 
thiabendazole,  ivermectine,  albendazole,…song 
liệu  trình  và  liều  dùng  cụ  thể  tối  ưu  nhất  của 
từng thuốc chưa thống nhất. Với ý tưởng nghiên 
cứu  đưa  ra  phác  đồ  liều  tối  ưu,  đề  tài  này  tiến 
hành nhằm so sánh hiệu lực phác đồ Ivermectin 
và Albendazole trong điều trị ATGL. 
ĐỐI TƯỢNG ‐PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 

Địa điểm và thời gian 
‐  Thực  hiện  tại  phòng  khám  Viện  Sốt  rét  ‐ 
KST‐ CT Quy Nhơn; 
‐ Thời gian: từ tháng 4/2013 – 12/2013. 

254 

Tiêu chuẩn chọn bệnh 
Bệnh nhân có tuổi từ 3 ‐ 60 tuổi, có liên quan 
yếu tố dịch tễ, triệu chứng lâm sàng lệ thuộc vào 
vị  trí  ATGL  di  chuyển  đến  cơ  quan,  tăng  bạch 
cầu ái toan > 6%, ELISA (+) với S. stercoralis với 
hiệu giá S/Co ≥ 1.0, bệnh nhân có khả năng nuốt 
và  uống  thuốc,  bệnh  nhân  và/  hoặc  gia  đình, 
người giám hộ đồng ý hợp tác nghiên cứu, tham 

gia đủ liệu trình điều trị và theo dõi bệnh nhân 
trong thời gian 6 tháng. 

Tiêu chuẩn loại trừ 
Nhỏ hơn 3 tuổi hoặc lớn hơn 60 tuổi, phụ nữ 
có thai (test thử âm tính) hoặc đang cho con bú, 
bệnh  nhân  có  xét  nghiệm  ELISA  (+)  đồng  thời 
với  một  số  loại  ký  sinh  trùng  khác,  bệnh  nhân 
nhiễm ATGL đơn thuần nhưng có biến chứng cơ 
quan, đặc biệt là não, phổi, tim mạch,… (hôn mê, 
rối  loạn  ý  thức,  hội  chứng  suy  hô  hấp)  đòi  hỏi 
phải nhập viện. Bệnh nhân nôn trầm trọng hoặc 
thể trạng không hấp thu được thuốc ALB, IVM. 
Thuốc và liều lượng sử dụng trong nghiên cứu 

Thuốc  chống  giun  sán  sử  dụng  trong  nghiên 
cứu 
Thuốc  Ivermectin  (biệt  dược  Pizar‐3mg),  do 
công ty TNHH DP Đạt Vi Phú cung cấp, VISA: 
VD‐7363‐09,  lô  00211,  NSX:  21.12.11,  HSD: 
21.12.14, hộp đóng 1 vỉ x 4 viên (để điều kiện < 
300C), liều dùng 0,2 mg/kg đường uống một lần. 
Thuốc  Ivermectin  (biệt  dược  Pizar‐6mg),  do 
công ty TNHH DP Đạt Vi Phú cung cấp, VISA: 

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 
VD‐5837‐08,  lô  00311,  NSX:  25.10.11,  HSD: 

25.10.14, hộp đóng 1 vỉ x 4 viên (để điều kiện < 
300C), liều dùng 0,2 mg/kg đường uống một lần. 
Thuốc  Albendazole  (biệt  dược  Verben) 
viên nén 400mg, do công ty Systa Lab Pharma 
XV/39,  Ấn  Độ  sản  xuất,  VISA:  VN‐7972‐09,  lô 
1204,  NSX:  25.09.2012;  HSD:  24.09.2015,  hộp 
đóng 1 viên trong vỉ/ hộp. Liều dùng 15 mg/kg 
x 14 ngày. 
Phương pháp nghiên cứu 

Thiết kế nghiên cứu  
Thiết kế nghiên cứu là một thử nghiệm lâm 
sàng ngẫu nhiên có đối chứng. 

Cỡ mẫu nghiên cứu 
Nghiên  cứu  được  tiến  hành  ở  cơ  sở  điều 
trị, nên việc lựa chọn bệnh nhân ATGL đủ tiêu 
chuẩn nghiên cứu sẽ theo mẫu thuận tiện dựa 
vào  số  ca  đến  bệnh  viện  dựa  vào  công  thức 
tính cho một thử nghiệm can thiệp điều trị trên 
mỗi  nhóm  tại  điều  kiện  bệnh  viện,  như  sau. 
Trong đó: 
Chọn  số  nhóm  nghiên  cứu  và  nhóm  chứng 
là bằng nhau λ = 1; 
α: sai lầm loại 1; ß: sai lầm loại 2; Z1‐α/2 là hệ số thống kê, 
mặc định = 1,96;  
 
Z1‐ß: mặc định = 0,84. Khoảng tin cậy 95% CI 
P1 : Tỷ lệ ước đoán khỏi bệnh của nhóm điều trị IVM = 0,9; 
P2: Tỷ lệ ước đoán khỏi bệnh của nhóm chứng điều trị ALB 

= 0,6. 

P = (P1 +P2)/ 2 và Q = 1 – P. Khi đó cỡ mẫu tối 
thiểu  cho  mỗi  nhóm  là:  n1  =  n2  =  22  (+20%  để 
tránh mất mẫu trong quá trình theo dõi)  n1 = 
n2 27. 
Phân tích và xử lý số liệu 
Số liệu thu thập và phân tích theo EPI ‐ INFO 
6.04. 
Các khía cạnh đạo đức trong nghiên cứu  
Đề  cương  nghiên  cứu  đã  thông  qua  Hội 
đồng khoa học và Hội đồng đạo đức y sinh học. 
Thử  nghiệm  hiệu  lực  thuốc  được  tiến  hành 
dưới giám sát cẩn trọng của cán bộ chuyên môn. 

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 

Nghiên cứu Y học

Tính an toàn và sự bồi hoàn phải luôn đảm 
bảo cho bệnh nhân, quản lý thích hợp và ưu tiên 
cho thử nghiệm phác đồ thuốc và mọi thông tin 
liên quan bệnh nhân sẽ được bảo mật. 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 

Đặc điểm chung về nhóm bệnh nhân ấu trùng 
giun lươn nghiên cứu 
Bảng 1: Một số đặc điểm nhân chủng học của nhóm 
bệnh nhân nghiên cứu 
Đặc điểm

nhóm nghiên cứu
Nam
Giới
tính
Nữ
Tuổi
Cân nặng

Nhóm IVM Nhóm ALB
n (%)
n (%)
19 (63,33) 20 (62,5)
11 (36,67) 12 (37,5)
34 (5 - 63) 36,5 (4 - 70)
35 (9 - 61)
41,5
(12 - 71)
4 (6,67)
1 (3,11)

Nghề
Liên quan vệ
nghiệp sinh môi trường
2 (3,34)
Liên quan vệ
sinh y tế
Buôn bán tự do 7 (23,33)
Thợ hồ, đóng vỏ 11 (36,67)
tàu
Khác

6 (29,99)

Giá trị
p
0,972
0,945
0,876

3 (9,38)
3 (9,38)
15 (46,88)
10 (31,25)

Giữa  2  nhóm  ALB  và  IVM  khi  xét  các 
thông số về nhân chủng học như giới tính, tuổi 
trung  bình,  cân  nặng,  dân  tộc  của  bệnh  nhân 
đều cho thấy không có sự khác biệt có ý nghĩa 
thống  kê.  Phần  lớn  là  dân  tộc  Kinh  (93,33  ‐ 
100%).  Nghề  nghiệp  khác  nhau,  trong  đó  số 
công  nhân  đóng  vỏ  tàu  ghe  hoặc  thợ  hồ 
(36,67%)  (nhóm  dùng  IVM)  và  46,88%  (nhóm 
dùng ALB) chiếm cao nhất. 
Bảng 2: Một số bệnh lý nền sẵn có trên ca nhiễm 
ATGL  đơn thuần 
Đặc điểm nhóm nghiên Nhóm IVMn Nhóm
Giá trịp
cứu
(%)
ALBn (%)
Bệnh lý nền sẵn có

Đái tháo đường
4 (13,33)
3 (9,38)
0,706
Lao phổi và ngoài phổi
2 (6,67)
1 (3,13)
Ung thư các loại
2 (6,67)
0
Vảy nến/ viêm da cơ địa
0
2 (6,25)
Thói quen/ đang dùng
thuốc
Uống rượu nhiều
9 (30,0)
9 (28,13) 0,922
Hút thuốc lá nhiều
6 (20,0)
7 (21,88)
Dùng thuốc chống thải
2 (6,67)
1 (3,13)
ghép

255


Nghiên cứu Y học 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014

Phân tích 2 nhóm về bệnh lý nền sẵn có như 
là  yếu  tố  thuận  lợi  và  làm  dễ  lây  nhiễm  ATGL 
cho thấy không có sự khác biệt và thói quen của 
bệnh nhân hoặc tiền sử đang dùng thuốc có yếu 
tố thuận lợi giữa hai nhóm tương đương.  
Biểu  hiện lâm  sàng  và  cận  lâm  sàng  của  bệnh 
nhân nhiễm ATGL S. stercoralis 

Biểu hiện triệu chứng trên 2 nhóm dùng thuốc 
Ivermectine và albendazole 
Bảng 3: Triệu chứng lâm sàng trên các nhóm bệnh 
nhiễm ATGL 
Đặc điểm
Nhóm
nhóm nghiên cứu
IVM n (%)
Triệu
Đau bụng
18 (60)
chứng liên Buồn nôn/ nôn
3 (10)
quan tiêu
3 (10)
Tiêu chảy hoặc đi
hóa
lỏng
Đủ tam chứng ấu trùng di

24 (80)
chuyển:(1) Ban trườn/ ATDC,
sưng từng đợt(2) Tăng bạch
cầu ái toan (3) Yếu tố dịch tễ/
ăn uống sống
Chưa đủ tam chứng ATDC
3 (10)

Nhóm
p
ALB n (%)
16 (50) 0,712
2 (6,25) 0,839
5 (15,63) 0,925
27 (84,38) 0,891

3 (9,38) 0,924

Lâm  sàng  với  hội  chứng  về  tiêu  hóa,  trong 
đó  đau  bụng  không  điển  hình  chiếm  cao  nhất 
với  50  ‐  60%  ở  hai  nhóm.  Số  ca  đủ  tam  chứng 
chẩn đoán ấu trùng di chuyển chiếm tỷ lệ cao là 
80%  (nhóm  IVM)  và  84,38%  (nhóm  ALB);  hoặc 
số  ca  chưa  đủ  tam  chứng  giữa  hai  nhóm  bệnh 
nhân  dùng  thuốc  IVM  và  thuốc  ALB  không  có 
sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. 

Biểu  hiện  cận  lâm  sàng  trên  hai  nhóm  bệnh 
nhân mắc ATGL dùng thuốc 
Bảng 4: Các thông số cận lâm sàng trên 2 nhóm bệnh 

nhân 
Thông số cận lâm sàng

Nhóm IVMn Nhóm ALBn
p
(%)
(%)

Thông số huyết học
Haematocrite (36 – 56%)
34 (5)
127 (21)
Haemoglobine
(110 – 170g/L)
Bạch cầu ái toan > 6% 29 (96,67%)
Thông số sinh hóa
SGOT (0 – 31 IU/L)
39,5  13,7
SGPT (0 – 34 IU)
32,2  11,6
Thông số miễn dịch
ELISA dương tính OD ≥ 1,0 30 (100%)

256 

34 (6)
123 (19)
30 (93,75%)
41,2  15,3
30,7  9,2

32 (100%)

>
0,05

Thông  số  cận  lâm  sàng  giữa  2  nhóm  trước 
khi dùng thuốc không có sự khác biệt có ý nghĩa 
thống  kê  (p  >  0,05).  Thông  số  ELISA  phát  hiện 
kháng thể ở 2 nhóm đều 100% dương tính.  
So  sánh  hiệu  lực  điều  trị  bệnh  ấu  trùng  giun 
lươn bằng 2 phác đồ IVM và ALB 

Hiệu lực và chi phí điều trị trên các nhóm bệnh 
nhân dùng thuốc  
Bảng 5: Hiệu quả điều trị đánh giá sau 3 tháng (D90), 
6 tháng (D180) điều trị  
Đánh giáđáp ứng điều Nhóm IVMn Nhóm ALBn
p
trị
(%)
(%)
Số ca đánh giá hiệu lực thuốc
Vào ngày D0
30
32
Đến ngày D90
26
30
Đến ngày D180
24

27
Kết quả chữa khỏi
26 ca
30 ca
Sau 3 tháng
22 (84,6)
16 (53,33) 0,0254
Sau 6 tháng
23 (95,8)
21 (77,78) 0,0418
Tỷ lệ thất bại sau 6 tháng
1 (4,2)
6 (22,22) 0,0213
Tồn tại dấu lâm sàng
Tồn tại ELISA (+)

Nhận  xét:Hiệu  quả  cải  thiện  về  các  triệu 
chứng lâm sàng sau 3 tháng (với nhóm IVM) là 
84,6% trong khi nhóm ALB giảm chỉ 53,33%. Tại 
thời  điểm  6  tháng,  nhóm  dùng  IVM  khỏi  bệnh 
lên 95,8% và nhóm dùng ALB có tỷ lệ khỏi chỉ là 
77,78%. Sự khác biệt về chữa khỏi của 2 nhóm có 
sự khác biệt có ý nghĩa.  

Một số tác dụng ngoại ý trên bệnh nhân dùng 
thuốc IVM và ALB 
Bảng 6: Một số tác dụng ngoại ý của thuốc IVM và 
ALB 
Các thông số đánh giá
Nhức đầu, chóng mặt

Buồn nôn
Cảm giác chán ăn
Đau bụng nhẹ
Khô miệng
Đỏ da

Nhóm IVMn Nhóm ALBSLn
(%)
(%)
0
1 (3,13)
2 (6,66)
2 (6,26)
0
2 (6,26)
2 (6,66)
3 (9,39)
0
1 (3,13)
1 (3,33)
0

Nhận  xét:  Trên  hai  nhóm  bệnh  nhân  dùng 
IVM  và  ALB,  các  dấu  tác  dụng  ngoại  ý  trên 
nhóm  IVM, các triệu  chứng như đỏ  da (3,33%), 
đau  bụng  nhẹ  hoặc  buồn  nôn  là  6,66%.  Trong 

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 



Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 
khi  đó,  nhóm  dùng  ALB,  triệu  chứng  đa  dạng 
hơn như nhức đầu, chóng mặt (3,13%), buồn nôn 
(6,26%), cảm giác chán ăn (6,26%), đau bụng nhẹ 
(9,39%), khô miệng (3,13%). 
BÀN LUẬN 

Đặc  điểm  chung  về  nhóm  bệnh  nhân  nghiên 
cứu 
Với  số  liệu  cho  thấy  giữa  hai  nhóm  bệnh 
nhân dùng thuốc ALB và IVM khi xét khía cạnh 
nhân chủng học như giới, tuổi, cân nặng, dân tộc 
không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Riêng 
mỗi nhóm, nam giới chiếm cao hơn nữ, phần lớn 
là dân tộc Kinh (93,33 – 100%), bệnh nhân đang 
làm  các  nghề  nghiệp  khác  nhau,  trong  đó  số 
công nhân đóng vỏ tàu ghe, thuyền hoặc thợ hồ 
chiếm  tỷ  lệ  36,67%  (nhóm  IVM)  và  46,88% 
(nhóm  ALB),  buôn  bán  tự  do  chiếm  23,33% 
(nhóm IVM) và 9,38% (nhóm ALB), nhóm người 
làm  việc  trong  các  môi  trường  ẩm  ướt  như  vệ 
sinh  môi  trường,  công  nhân  môi  trường  đô  thị 
hoặc vệ sinh y tế chiếm tỷ lệ thấp hơn. Điều này 
tương tự như một số nghiên cứu khác trước đây 
là bệnh do ATGL thường tập trung vào các đối 
tượng làm nghề liên quan đến đồng áng, nương 
rẫy và tiếp xúc với vùng kém vệ sinh như công 
nhân  hầm  mỏ,  khai  khoáng  hoặc  chăn  ngan, 
vịt(2,1).  
Phân tích về bệnh lý nền sẵn có như là một 

trong những yếu tố thuận lợi làm dễ lây nhiễm 
ATGL  (như  đái  tháo  đường,  lao  phổi  và  lao 
ngoài phổi, ung thư các loại, vảy nến hoặc viêm 
da cơ địa) cho thấy giữa hai nhóm không có sự 
khác  biệt  nào.  Song  song  đó,  phân  tích  về  thói 
quen  bệnh  nhân  hoặc  tiền  sử  đang  dùng  thuốc 
có  yếu  tố  thuận  lợi  và  làm  dễ  nhiễm  ATGL 
(nghiện  rượu,  thuốc  lá,  dùng  thuốc  chống  thải 
ghép,...) cho thấy cũng không có sự khác biệt có 
ý  nghĩa.  Vì  điều  kiện  và  khả  năng  kinh  phí, 
nghiên cứu này đánh giá hết các dữ liệu về bệnh 
lý  nền  trên  bệnh  nhân  như  một  số  tác  giả  khác 
trên thế giới ghi nhận.  

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 

Nghiên cứu Y học

Biểu  hiện lâm  sàng  và  cận  lâm  sàng  của  bệnh 
nhân nhiễm ATGL S. stercoralis 
Nhiễm ấu trùng loại giun truyền qua đất S. 
stercoralis  và  giun  móc,  mỏ  (Ancylostoma 
duodenale và  Necator americanus)  rất  quan  trọng, 
nhưng  thường  lại  là  các  căn  bệnh  nhiệt  đới  bị 
lãng quên ở các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới. 
Điều  này  thường  là  nhiễm  trùng  mạn  tính  và 
loài S. stercoralis có thể đe dọa tính mạng do hội 
chứng  tăng  nhiễm  trên  các  cá  nhân  suy  giảm 
miễn dịch. 


Biểu hiện triệu chứng trên 2 nhóm dùng thuốc 
Ivermectine và albendazole 
Biểu hiện lâm sàng với các hội chứng về tiêu 
hóa  (đau  bụng,  buồn  nôn  hoặc  nôn,  kèm  theo 
tiêu lỏng phân sệt hoặc đi phân lỏng nhiều lần), 
trong đó triệu chứng đau bụng không điển hình 
chiếm tỷ lệ cao nhất với 50 ‐ 60%. Hội chứng tiêu 
hóa nghiên cứu ở đây biểu hiện cũng giống như 
các biểu hiện của bệnh nhân ở nghiên cứu về hội 
chứng tiêu hóa dạ dày ruột trên 86 ca ATGL, số 
trường hợp có triệu chứng tiêu hóa chỉ ghi nhận 
ca  nhiễm  đơn  thuần  (43,02%).  Tỷ  lệ  biểu  hiện 
tiêu hóa lần lượt là đau bụng vùng thượng vị ‐ 
mũi ức (56,76%), đau bụng lan tỏa (8,11%), chán 
ăn,  kèm  theo  cảm  giác  buồn  nôn  (32,42%),  đại 
tiện phân sệt có thể một lần hoặc hơn trong ngày 
là 8,11 ‐ 24,32%, phân lỏng xen kẽ phân táo bón 
(24,32%), sụt cân (72,97%). Điểm đặc biệt là triệu 
chứng  xuất  hiện  không  liên  tục  mà  diễn  biến 
từng  đợt,  có  lẽ  biểu  hiện  này  tùy  thuộc  vào 
lượng ấu trùng hoặc chu trình tự nhiễm mà vốn 
dĩ  bệnh  do  ATGL  đã  có.  Hầu  hết  triệu  chứng 
tiêu  hóa  na  ná  với  bệnh  lý  nội  tiêu  hóa  khác, 
chính điều này đã khiến cho nhiều ca đến cơ sở 
điều  trị  chuyên  khoa  muộn  sau  khi  đã  điều  trị 
theo hướng các bệnh lý nội khoa/ truyền nhiễm 
khác nhưng không thuyên giảm đáng kể. Số liệu 
trên  cũng  tương  tự  về  mặt  các  triệu  chứng  lâm 
sàng như một số tác giả đã nghiên cứu trước đó. 
Qua nghiên cứu và điều trị 46 ca bệnh giun lươn 

bệnh  nhân  ≥  15  tuổi,  triệu  chứng  lâm  sàng  hay 
gặp nhất là đau bụng vùng thượng vị ‐ mũi ức 

257


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014

(95,65%)  hoặc  đau  thượng  vị  chiếm  tỷ  lệ  cao 
(89,96%)  và  triệu  chứng  trên  cũng  là  dấu  hiệu 
phiền muộn khiến bệnh nhân sau một thời gian 
dài  điều  trị  các  phác  đồ  loét  tiêu  hóa,  viêm  dạ 
dày ruột, viêm đại tràng, viêm thực quản không 
thuyên giảm. Cùng với đau bụng là bệnh nhân 
thường  rối  loạn  đại  tiện,  tiêu  chảy  hoặc  phân 
lỏng  trên  2  lần  một  ngày  chiếm  82,61%  và  đại 
tiện đúng thời điểm, một lần trong ngày, lượng 
phân  vừa,  lỏng,  không  máu  là  89,13%,  đại  tiện 
phân lỏng xen kẽ táo bón ít gặp hơn, chiếm tỷ lệ 
34,78%.  Dấu  hiệu  lợm  giọng,  buồn  nôn  cũng 
chiếm  tỷ  lệ  không  nhỏ  82,61%,  người  bệnh 
thường  sụt  cân  chỉ  trong  vòng  vài  tháng 
(47,83%).  Do  vậy,  triệu  chứng  rối  loạn  tiêu  hóa 
trong  bệnh  ATGL  đối  phức  tạp  và  rất  dễ  chẩn 
đoán nhầm với một số bệnh lý tiêu hóa khác nếu 
không  để  ý  đến.  Số  liệu  của  chúng  tôi  hơi  cao 
hơn  so  với  một  số  tác  giả  khác,  như  đau  bụng 
cũng là triệu chứng và là lý do để bệnh nhân vào 

viện hàng đầu chiếm đến 44,9%, tiêu chảy chiếm 
15,3% (Nguyễn  Ngọc  Sơn  và  cs., 2007) hay đau 
thượng vị chiếm 41,0%, buồn nôn 37%, tiêu chảy 
48%(6,3) hoặc tương đương với kết quả của nhóm 
tác  giả  Hari  Polenakovikvà  cộng  sự  (2005) 
nghiên  cứu  trên  cỡ  mẫu  lớn  có  biểu  hiện  đau 
bụng và tiêu chảy gần 78% hoặc 82,23%. 
Số ca đủ tam chứng chẩn đoán ATDC (gồm 
ban  trườn,  hay  dấu  vết  di  chuyển  sưng  phồng 
từng đợt, tăng bạch cầu ái toan, kèm theo yếu tố 
dịch tễ vùng lưu hành) cũng chiếm tỷ lê cao ở 2 
nhóm  lần  lượt  80%  (nhóm  IVM)  và  84,38% 
(nhóm  ALB).  Số  ca  chưa  đủ  tam  chứng  ATDC 
giữa  2  nhóm  dùng  IVM  và  ALB  không  có  sự 
khác biệt có ý nghĩa thống kê. Phân tích chi tiết 
cho  thấy  các  triệu  chứng  trên  da  niêm  mạc 
ATDC tương tự như một số nghiên cứu trước đó 
với lâm sàng ATDC gồm đủ tam chứng là 90,7% 
và số ca chưa đủ tam chứng là 9,3%. Hội chứng 
ATDC  biểu  hiện  với  phổ  lâm  sàng  đa  dạng  về 
tính chất, đặc điểm hình thái, nhiều nhất là dạng 
ban  đỏ  đơn  thuần  dạng  vệt  hoặc  dạng  bản  đồ 
mày đay nổi, đứt đoạn, ban đỏ nổi hay ẩn liền bề 

258 

mặt da cùng với viêm quầng/ mụn nước lớn nhỏ 
khác nhau(1,5).  
Trong nghiên cứu ở đây, chưa gặp ca nào có 
xuất  huyết  tiêu  hóa  hoặc  liệt  ruột,  chướng  hơi, 

như y văn đề cập (Emedicine WebMD, 2008). Do 
bức  tranh  lâm  sàng  đa  dạng  như  vậy,  nên  các 
nhà lâm sàng nên cần đặt ra chẩn đoán phân biệt 
với một số bệnh lý nội khoa và da liễu khác.    

Biểu  hiện  cận  lâm  sàng  trên  hai  nhóm  bệnh 
nhân mắc ATGL dùng thuốc 
Phân tích các thông số cận lâm sàng giữa hai 
nhóm trước khi dùng thuốc cho thấy các chỉ số 
về huyết học, sinh hóa giữa hai nhóm không có 
sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Một 
số ca ở hai nhóm có biểu hiện thiếu máu nhẹ, đa 
số đều có tăng bạch cầu ái toan trong máu so với 
ngưỡng  tham  chiếu,  lần  lượt  96,67%  (nhóm 
IVM)  và  93,75%  (nhóm  ALB).  Thông  số  miễn 
dịch  ELISA  cả  hai  nhóm  đều  dương  tính  100% 
với  hiệu  giá  kháng  thể  ≥  1,0,  trong  đó  hiệu  giá 
trong khoảng [1.0 ‐ ≤ 1.2] là 50% cao nhất. Điểm 
đặc biệt là các ca này có hoặc không đi kèm với 
trị  số  bạch  cầu  ái  toan  tăng,  vì  điều  này  còn  lệ 
thuộc  vào  tình  trạng  đáp  ứng  miễn  dịch  trong 
bệnh ATGL theo giai đoạn xâm nhập cũng như 
khi  di  chuyển  hay  không,  bản  thân  chỉ  số  bạch 
cấu ái toan cũng lệ thuộc nhiều tình trạng bệnh 
lý  khác  nữa.  Trên  90%  số  ca  có  biểu  hiện  tăng 
BCAT  máu  ngoại  vi  (>  6%),  trong  số  đó  tỷ  lệ 
BCAT  trong  khoảng  [>  15  ‐  ≤  25%]  chiếm  cao 
nhất với 59,3%.  
Điểm tồn tại trong nghiên cứu chính là chưa 
tìm ra chuẩn vàng trong chẩn đoán là phát hiện 

ATGL qua nuôi cấy, khác so với các tác giả khác 
có tỷ lệ phát hiện ATGL qua soi phân trực tiếp 
hoặc nuôi cấy 30,6% dương tính (Nguyễn Ngọc 
Sơn  và  cs.,  2007),  hoặc  34,78%  (Trần  Phủ  Mạnh 
Siêu  và  cs.,  2007)  và  số  liệu  các  tác  giả  nước 
ngoài  báo  cáo  chỉ  dao  động  7,2  ‐  16%(8).  Vốn  dĩ 
ATGL  có  chu  trình  phát  triển  đặc  biệt  là  chu 
trình tự nhiễm mà ở đó ấu trùng chu du khắp cơ 
thể  và  khó  có  thể  phát  hiện  trong  phân,  chẩn 
đoán chủ yếu dựa ELISA hoặc Western blot. Vả 

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 

Nghiên cứu Y học

So sánh hiệu lực điều trị bằng 2 phác đồ IVM 
và ALB 

tiếp và nhóm 2 dùng ALB liều trình liều tương 
tự nhưng 5 ngày liên tiếp. Đối với mỗi liệu trình 
điều  trị,  liệu  trình  lặp  lại  1  lần  nữa  sau  7  ngày. 
Các  mẫu  phân  xét  nghiệm  vào  thời  điểm  14 
ngày và 10 ngày sau liều thứ 2. Tỷ lệ chữa khỏi 
về mặt ký sinh trùng là 87,9% (51/58) trên nhóm 
1 và 89,5% (51/57) trên nhóm 2, sự khác biệt này 
không có ý nghĩa thống kê.  


Hiệu  lực  điều  trị  trên  các  nhóm  bệnh  nhân 
dùng thuốc  

Một số tác dụng ngoại ý trên bệnh nhân dùng 
thuốc IVM và ALB 

Quá  trình  nghiên  cứu  cho  thấy  sau  3  tháng 
và 6 tháng có sự mất mẫu theo dõi của hai nhóm 
bệnh  nhân  dùng  thuốc.  Cụ  thể  sau  3  tháng, 
nhóm dùng IVM chỉ còn 26/30 bệnh nhân và sau 
6  tháng  còn  24/30  ca;  trong  khi  đó  nhóm  dùng 
ALB,  tại  thời  điểm  3  tháng  chỉ  còn  30/32  ca  và 
thời điểm 6 tháng còn 21/32 ca. Kết quả cải thiện 
về các triệu chứng lâm sàng về tiêu hóa và trên 
da niêm mạc và cận lâm sàng sau 3 tháng đối với 
nhóm dùng IVM khỏi đến 84,6% trong khi nhóm 
dùng  ALB  giảm  chỉ  53,33%.  Tại  thời  điểm  6 
tháng,  nhóm  bệnh  nhân  dùng  thuốc  IVM  tiếp 
tục khỏi bệnh 95,8% và nhóm dùng ALB có tỷ lệ 
khỏi  bệnh  là  77,78%,  sự  khác  biệt  có  ý  nghĩa 
thống kê. Sau 6 tháng, tỷ lệ thất bại hay số bệnh 
nhân  còn  tồn  tại  triệu  chứng  lâm  sàng  có  kèm/ 
hoặc không kèm theo dấu cận lâm sàng cũng có 
sự khác biệt, trong đó nhóm dùng ALB thất bại 6 
ca và nhóm IVM chỉ có 1 ca.  

Trên  hai  nhóm  bệnh  nhân  dùng  IVM  và 
ALB, về tác dụng ngoại ý trong 3 ngày đầu dùng 
thuốc  cho  thấy  ở  nhóm  dùng  IVM,  tỷ  lệ  xuất 
hiện các tác dụng ngoại ý ít hơn nhóm ALB. Các 

triệu  chứng  này  biểu  hiện  thoáng  qua,  không 
cần  phải  dùng  thuốc  và  chỉ  khó  chịu  sau  đó tự 
khỏi  mà  không  cần  can  thiệp  cấp  cứu.  Trên 
nhóm IVM, các triệu chứng xuất hiện như đỏ da 
(3,33%), đau bụng nhẹ hoặc buồn nôn. Trong khi 
đó, nhóm bệnh nhân dùng ALB, các triệu chứng 
tác  dụng  ngoại  ý  đa  dạng  hơn  như  nhức  đầu, 
chóng mặt sau dùng thuốc 1 ngày là 3,13%, buồn 
nôn (6,26%), cảm giác chán ăn (6,26%), đau bụng 
nhẹ  quanh  rốn  9,39%,  khô  miệng  3,13%  và 
không  có  trường  hợp  nào  đỏ  da  như  ở  nhóm 
dùng IVM. Các tác dụng ngoại ý khác như kích 
thích, đỏ da phù mạch, sốc phản vệ, sưng hạch, 
hồng ban đa dạng, hội chứng Stevens ‐ Johnson, 
rối  loạn  thị  lực,  khô  da  hay  khô  nước  bọt,  tụt 
huyết áp, hạ đường huyết,... không phát hiện với 
liều dùng hiện tại trong nghiên cứu. 

lại, các ca bệnh đến điều trị tại đây trước đó đều 
đã điều trị các bệnh lý và thuốc không đặc hiệu, 
chuyển giai đoạn mạn tính thì khi đó soi phân sẽ 
ít  nhạy(1,4)  và  một  lý  do  chủ  quan  với  quy  trình 
xét  nghiệm  phân  cũng  như  kinh  nghiệm  kỹ 
thuật viên cũng là một hạn chế.  

Liên  quan  đến  hiệu  lực  điều  trị  của  ALB 
trong  nghiên  cứu  này,  chúng  tôi  muốn  so  sánh 
với một số tác giả khác cũng dùng liệu trình ALB 
nhưng  khác  liều,  chẳng  hạn  trong  một  nghiên 
cứu thử nghiệm so sánh ngẫu nhiên hai liều cao 

của  ALB  trong  điều  trị  ATGL  chưa  biến  chứng 
(Pewpan M Intapan và cs., 2006) khi nghiên cứu 
tại  Nonthaburi,  Thái  Lan.  Nghiên  cứu  cũng  đã 
sử  dụng  đĩa  thạch  nuôi  cấy  ấu  trùng  như  một 
phương pháp kỹ thuật đánh giá về mặt ký sinh 
trùng trước và sau điều trị. Tất cả 115 bệnh nhân 
nhiễm S. stercoralis từ 7 tỉnh phía Đông Bắc, Thái 
Lan được chia làm ngẫu nhiên 2 nhóm. Nhóm 1 
dùng ALB, liệu trình 800 mg/ngày x 3 ngày liên 

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 

KẾT LUẬN  

Biểu  hiện  lâm  sàng  với  hội  chứng  về  tiêu 
hóa,  trong  đó  đau  bụng  không  điển  hình 
chiếm tỷ lệ cao nhất với 50 ‐ 60%. Số ca đủ tam 
chứng ATDC có tỷ lệ cao ở 2 nhóm (trên 80%). 
Số ca có tỷ lệ BCAT tăng (93%) và 100% số ca 
có ELISA (+). 
Hiệu  lực  chữa  khỏi  về  triệu  chứng  tiêu  hóa 
và  ATDC  sau  3  tháng  là  84,6%  (nhóm  IVM)  và 
53,33% (nhóm ALB). Tại thời điểm 6 tháng, khỏi 
bệnh 95,8% (nhóm IVM) và 77,78% (nhóm ALB). 

259


Nghiên cứu Y học 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014

Cả hai phác đồ có các tác dụng ngoại ý thấp, 
không cần gián đoạn việc dùng thuốc. 
Bệnh  do  ATGL  hiện  không  còn  hiếm  gặp 
trong  thực  hành  lâm  sàng,  biểu  hiện  lâm  sàng 
phổ đa dạng và tương tự với một số bệnh lý nội 
khoa tiêu hóa. Do vậy, các thầy thuốc nên đặt ra 
vấn  đề  chẩn  đoán  phân  biệt  ATGL  với  một  số 
bệnh  tiêu  hóa  và  da  liễu  khác.  Thuốc  IVM  có 
hiệu lực cao hơn ALB trong điều trị bệnh ATGL 
ở liều duy nhất so với liều 14 ngày liên tiếp của 
ALB.  Do  vậy,  có  thể  sử  dụng  IVM  như  thuốc 
chọn lựa. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.

2.

Adenusi  AA,  et  al  (2004).  Comparision  of  Ivermectine  and 
Thiabendazole  in  the  treatment  of  uncomplicated  human 
Strongyloides stercoralis. African journal of Biotechnology. 2(11) 
465‐469. 
Huỳnh  Hồng  Quang,  Triệu  Nguyên  Trung,  Nguyễn  Thị 
Ngọc Huệ và cs (2010). Đánh giá hiệu lực thuốc Albendazole 
trong điều trị bệnh giun lươn chưa biến chứng tại 5 tỉnh ven 
biển miền Trung (2006 ‐ 2009). Kỷ yếu công trình NCKH, Viện Y 
học biển Việt Nam, Hội Y học biển Việt Nam tháng 11.2010.Tr. 89‐
90. 


3.

Khieu V, Srey S, Schär F, Muth S, Marti H, Odermatt P (2013), 
Strongyloides stercoralis is a cause of abdominal pain, diarrhea 
and urticaria in rural Cambodia. MC Research Notes.6. 200. doi: 
10.1186/1756‐0500‐6‐200. 

4.

Kline K, McCarthy JS, Pearson M, Loukas A, Hotez PJ (2013). 
Neglected  Tropical  Diseases  of  Oceania:  Review  of  their 
prevalence,  distribution,  and  opportunities  for  control.  PLoS 
Negl Trop Dis 7(1): e1755. 

5.

Krolewiecki  AJ,  Lammie  P,  Jacobson  J  et  al  (2013)  A  Public 
Health Response against Strongyloides stercoralis: Time to look 
at  soil‐transmitted  helminthiasis  in  Full.  PLoS  Negl  Trop  Dis 
7(5): e2165. 

6.

Muniswamappa  K,  Rao  SD,  Venkatramana  K  et  al  (2012), 
Prevalence  of  Strongyloides  stercoralis  contaminating 
Coriandrum obtained from vendors in Karimnagar. Ann Trop 
Med Public Health. 5.298‐301. 

7.


Schär  F,  Trostdorf  U,  Giardina  F,  et  al  (2013).  Strongyloides 
stercoralis:  Global  distribution  and  risk  factors,  PLoS  Negl 
Trop Dis 7(7): e2288. 

8.

WHO  (2004).  Practice  guideline  for  management  of 
strongyloidiasis. WHO. Geneva. Pp. 123‐145. 
 

Ngày nhận bài báo: 

 

 

 9/5/2014 

Ngày phản biện nhận xét bài báo:  

11/6/2014 

Ngày bài báo được đăng:  
 

14/11/2014 

 

 


260 

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 



×